Học tập phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của chủ tịch Hồ Chí Minh

Thể hiện rõ nhất của phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình

của Hồ Chí Minh là luôn biết xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lý phổ

biến, những “lẽ phải không ai chối cãi được” để nhận thức và lý giải những vấn đề của

thực tiễn. Phong cách tư duy đặc sắc này có ý nghĩa chỉ đạo hiện thực to lớn đối với các

cấp lãnh đạo và đối với mỗi cá nhân chúng ta trong giải quyết các vấn đề thực tiễn của

cuộc sống hôm nay. Bài viết góp phần nhận thức rõ hơn phong cách tư duy hài hòa, uyển

chuyển, có lý có tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chỉ ra ý nghĩa học tập phong cách này

của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là đối với cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay.

pdf 7 trang kimcuc 11341
Bạn đang xem tài liệu "Học tập phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của chủ tịch Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Học tập phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của chủ tịch Hồ Chí Minh

Học tập phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình của chủ tịch Hồ Chí Minh
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Lê Đức Thọ 
23 
HỌC TẬP PHONG CÁCH TƯ DUY HÀI HÒA, UYỂN CHUYỂN, 
CÓ LÝ CÓ TÌNH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH 
LEARNING PRESIDENT HO CHI MINH’S HARMONIOUS, FLEXIBLE 
AND SENSIBLE THINKING STYLE 
LÊ ĐỨC THỌ 
 ThS. Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng, ductholevtc007@gmail.com, Mã số: TCKH09-25-2018 
TÓM TẮT: Thể hiện rõ nhất của phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình 
của Hồ Chí Minh là luôn biết xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lý phổ 
biến, những “lẽ phải không ai chối cãi được” để nhận thức và lý giải những vấn đề của 
thực tiễn. Phong cách tư duy đặc sắc này có ý nghĩa chỉ đạo hiện thực to lớn đối với các 
cấp lãnh đạo và đối với mỗi cá nhân chúng ta trong giải quyết các vấn đề thực tiễn của 
cuộc sống hôm nay. Bài viết góp phần nhận thức rõ hơn phong cách tư duy hài hòa, uyển 
chuyển, có lý có tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chỉ ra ý nghĩa học tập phong cách này 
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là đối với cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay. 
Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong cách tư duy, học tập phong cách Hồ Chí Minh. 
ABSTRACT: The most obvious manifestation of Ho Chi Minh's harmonious, flexible, and 
sensible thinking style is his idea of “always originate from the common, the human, from 
the common truths and common sense that no one can deny" to perceive and explain the 
problems of reality. This distinctive thinking style has the meaning of great practical 
direction for the leadership and for each of us individually in addressing the practical 
issues of today's life. The article contributes to better understand Ho Chi Minh's 
harmonious, flexible, sensible thinking style and show the meaning of learning President 
Ho Chi Minh’s thinking style, especially for the Party’s members in Vietnam nowadays. 
Key words: President Ho Chi Minh, thinking style, learning Ho Chi Minh’s style. 
1. MỞ ĐẦU 
Hồ Chí Minh là một nhà chính trị, một 
lãnh tụ cách mạng, hoạt động của Người 
trải rộng trên nhiều lĩnh vực, song lĩnh vực 
cơ bản nhất vẫn là lĩnh vực chính trị. Học 
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong 
cách Hồ Chí Minh trong Đảng và xã hội đã 
có một quá trình lịch sử, lâu dài. Trong 
phong cách Hồ Chí Minh, phong cách tư 
duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình 
chiếm một vị trí quan trọng. Nhờ phong 
cách tư duy đó, Hồ Chí Minh đã phát hiện 
ra quy luật của cách mạng Việt Nam, sáng 
tạo ra con đường và phương pháp tiến hành 
cách mạng phù hợp với thực tiễn của đất 
nước; lãnh đạo Đảng và dân tộc Việt Nam 
từ một nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển 
đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư 
bản trong điều kiện thế giới đầy biến động. 
Cái mới, cái sáng tạo của Bác là vừa phù 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
24 
hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam, 
vừa phù hợp với quy luật phát triển chung 
của xã hội loài người. Vì vậy, việc học tập 
và rèn luyện theo phong cách tư duy Hồ 
Chí Minh, nhất là phong cách tư duy hài 
hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Người, 
không chỉ là vấn đề mang tính chất lý luận 
mà còn có ý nghĩa thực tiễn vô cùng sâu 
sắc trong giai đoạn hiện nay. 
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
2.1. Đặc trưng phong cách tư duy hài 
hòa, uyển chuyển, có lý có tình của Chủ 
tịch Hồ Chí Minh 
Trước hết, sự thể hiện rõ nhất của 
phong cách tư duy này ở Bác Hồ là Người 
luôn biết xuất phát từ cái chung, nhân loại, 
từ những chân lý phổ biến để nhận thức và 
lý giải những vấn đề của thực tiễn. Người 
đã từng viết: “Tuy phong tục mỗi dân một 
khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng 
giống nhau: ấy là dân nào cũng ưa sự lành 
và ghét sự dữ” [3] hay: “Trừ bọn Việt gian 
bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là 
những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh 
đổ, đối với tất cả những người khác thì ta 
phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ” [5]. 
Trong công tác đối ngoại, để đàm 
phán, vận động thuyết phục đối phương 
đồng thuận, Bác Hồ thường lập luận trên cơ 
sở nguyên tắc về tính đồng nhất của nguyên 
lý. Điều này được thể hiện ở nhiều bài nói, 
bài viết của Người, đặc biệt là trong thư gửi 
những người bạn Pháp ở Đông Dương năm 
1946. Bằng lập luận chặt chẽ, Người đã 
phân tích một cách sâu sắc cho những 
người bạn Pháp thấy rõ lòng yêu nước, yêu 
độc lập tự do của người Pháp và người Việt 
đều giống nhau. Do đó, các bạn người Pháp 
ủng hộ lý tưởng độc lập tự do của nhân dân 
Việt Nam. Bởi vì, đó là lý tưởng của cả 
người Việt và người Pháp. Về vấn đề hệ 
trọng này, Người đã viết: “Các bạn yêu 
nước Pháp của các bạn và muốn nó độc 
lập. Các bạn yêu đồng bào của các bạn và 
muốn họ được tự do,... Chúng tôi cũng phải 
được phép yêu nước của chúng tôi và muốn 
nó độc lập chứ! Cái mà các bạn coi là lý 
tưởng cũng phải là lý tưởng của chúng tôi” 
[3]. Người viết: “Quyền độc lập, tự do ở 
nước nào cũng vậy, đều do xương máu của 
những nghĩa sĩ, và đoàn kết của toàn quốc 
dân mà xây dựng nên. Vậy nên, những 
người chân chính ham chuộng độc lập, tự 
do của nước mình, thì phải kính trọng độc 
lập, tự do của dân tộc khác” [3]. 
Với phong cách tư duy này, Bác Hồ luôn 
gắn kết nhuần nhuyễn, biện chứng giữa lý 
tưởng cách mạng với đạo đức nhân văn. Điều 
này được thể hiện rõ trong Lời kêu gọi toàn quốc 
kháng chiến (ngày 20-12-1946) của Người. Bản 
thân Lời kêu gọi có sức mạnh giục giã như lời 
hịch của núi sông, thôi thúc mọi người cầm 
vũ khí, đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, 
nhưng lại được viết bằng những lời lẽ rất hòa 
bình, nhân danh chính nghĩa mà chiến đấu, 
không hề có một chữ nào nói đến hận thù và 
chém giết. 
Trong hai cuộc kháng chiến chống 
Pháp và Mỹ, Người đã nhiều lần kêu gọi 
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nêu cao chủ 
nghĩa anh hùng cách mạng, anh dũng chiến 
đấu, kiên quyết đánh đuổi thực dân Pháp và 
đế quốc Mỹ. Song trong các lời kêu gọi ấy, 
Người luôn đề cao tình đoàn kết, lòng biết 
ơn và sự kính trọng về sự giúp đỡ của nhân 
dân tiến bộ Pháp và nhân dân tiến bộ Mỹ. 
Trong nhiều bài nói, bài viết, Người đã 
chân thành cảm ơn hàng vạn thanh niên, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Lê Đức Thọ 
25 
sinh viên, nhà khoa học, văn nghệ sĩ Mỹ đã 
rầm rộ biểu tình chống chiến tranh xâm 
lược Việt Nam của Chính phủ Mỹ. Người 
ca ngợi những tấm gương anh dũng hy sinh 
vì hòa bình của nhân dân Mỹ như cụ bà 
Henga Hécdơ và các chiến sĩ hòa bình 
Noman Morixơn, Rôgiơ Lapotơ, Xilin Gian 
Caoxki. Đặc biệt, Người đã ví sự đoàn kết 
đấu tranh của nhân dân hai nước Việt - Mỹ 
chống chiến tranh xâm lược Việt Nam của 
bè lũ hiếu chiến Mỹ như hai mũi giáp công. 
Người khẳng định: “Nhân dân Mỹ đánh từ 
trong ra, nhân dân ta đánh từ ngoài vào. 
Hai bên giáp công mạnh mẽ, thì đế quốc 
Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân Việt - Mỹ 
nhất định sẽ thắng” [7]. 
Hồ Chí Minh coi công việc chúng ta 
đang làm hôm nay - giải phóng dân tộc, 
xây dựng xã hội mới, bảo vệ Tổ quốc là sự 
nối tiếp sự nghiệp cha ông đã mở ra từ mấy 
nghìn năm trước. Người nói: “Các vua 
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta 
phải cùng nhau giữ lấy nước” [6]. “Vì cuộc 
chiến đấu hiện thời của chúng ta chỉ là kết 
tinh của cuộc trường kỳ đề kháng mà ông 
cha, anh em chúng ta đã tiếp tục trong 80 
năm Pháp thuộc” [3]. 
Trong thư gửi tướng R. Salan - người 
từng tháp tùng Hồ Chí Minh trong chuyến 
thăm nước Pháp - vừa được cử làm Tổng 
chỉ huy Quân đội Pháp thay tướng J. 
Valluy, Người viết: “...chúng ta đã là 
những người bạn tốt. Nhưng hoàn cảnh 
ngoài ý muốn đã biến chúng ta thành hai kẻ 
đối địch. Điều đó thật đáng tiếc!” [4]. 
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Dĩ bất 
biến, ứng vạn biến” là tư duy về sự uyển 
chuyển, hài hòa trong giải quyết các vấn đề 
của đất nước, đó chính là lấy điều không 
đổi ứng phó với vạn điều thay đổi để thực 
hiện điều không đổi. Hồ Chí Minh từng xác 
định mục đích bất di, bất dịch của ta vẫn là 
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, 
nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, 
nhưng sách lược của ta thì linh hoạt. Điều 
này đã được thể hiện rất rõ từ năm 1930, 
khi Người soạn thảo Cương lĩnh chính trị 
đầu tiên của Đảng mà tư tưởng cốt lõi là 
độc lập, tự do và sau khi Cách mạng tháng 
Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 
khái quát thành chân lý “Không có gì quý 
hơn độc lập, tự do”. Bên cạnh đó, khi lựa 
chọn con đường Cách mạng vô sản để giải 
phóng dân tộc thì Hồ Chí Minh đã gắn độc 
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự 
khác biệt lớn nhất giữa con đường cứu 
nước của Hồ Chí Minh với con đường cứu 
nước của các sĩ phu yêu nước tiền bối. 
Phong cách tư duy hài hòa, uyển 
chuyển, có lý có tình của Người đó chính là 
luôn biết xuất phát từ cái chung, từ những 
chân lý phổ biến, những lẽ phải không ai 
chối cãi được để nhận thức và lý giải những 
vấn đề của thực tiễn đặt ra. Để đàm phán, 
thuyết phục đối phương đi tới đồng thuận, 
Người thường lập luận trên cơ sở nguyên 
tắc về tính đồng nhất của nguyên lý. Theo 
Người “Quyền độc lập, tự do ở nước nào 
cũng vậy, đều do xương máu của những 
nghĩa sĩ và đoàn kết của toàn quốc dân mà 
xây dựng nên”. 
Để đạt được những kết quả đó, Chủ 
tịch Hồ Chí Minh xác định phải tư duy trên 
những cứ liệu thực tế của Việt Nam; đồng 
thời, biết tiếp thu, kế thừa những di sản quý 
báu của văn hoá nhân loại, các học thuyết 
một cách có phê phán, chọn lọc, không sao 
chép máy móc, cũng không phủ định một 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
26 
cách giản đơn, mà có sự phân tích sâu sắc 
để tìm ra những yếu tố tích cực. Nhờ đó, 
Người đã làm giàu vốn trí tuệ của mình 
bằng những di sản quý báu của văn hóa 
nhân loại. Phong cách tư duy của Hồ Chí 
Minh còn là sự gắn bó giữa ý chí, tình cảm 
cách mạng với tri thức khoa học; luôn có sự 
kết hợp hài hòa giữa yếu tố cảm xúc, tình 
cảm với yếu tố trí tuệ, tri thức, kinh 
nghiệm, trong đó, yếu tố tri thức, trí tuệ là 
quan trọng nhất. 
Nhờ phong cách tư duy đó, Chủ tịch 
Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra con đường và 
phương pháp tiến hành cách mạng phù hợp 
với thực tiễn của đất nước; đưa Việt Nam 
từ một nước nghèo nàn, lạc hậu đi lên chủ 
nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản. Cái 
mới, cái sáng tạo của Bác là vừa phù hợp 
với yêu cầu của cách mạng Việt Nam, vừa 
phù hợp với quy luật phát triển chung của 
xã hội loài người. 
2.2. Cán bộ, đảng viên học tập phong 
cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý 
có tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh 
Từ thực tiễn của cách mạng khi Đảng 
ta trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo đất 
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn 
dặn mỗi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị 
nào, làm nhiệm vụ gì cũng đều phải tích 
cực tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phong 
cách tư duy khoa học. Theo tư tưởng Hồ 
Chí Minh, phong cách tư duy khoa học 
hoàn toàn đối lập với phong cách tư duy 
mang tính kinh viện, giáo điều, chủ quan, 
duy ý chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều 
lần chỉ rõ tác hại của những kiểu phong 
cách đó dẫn đến lề lối làm việc thụ động, 
máy móc rập khuôn, hành chính mệnh lệnh, 
trông chờ dựa dẫm, ỷ lại cấp trên. Bác vạch 
rõ những biểu hiện của phong cách tư duy 
thiếu tính năng động, nhạy bén, thiếu sáng 
tạo đó là do cách làm việc thấy cái đúng thì 
không kiên quyết bảo vệ, thấy cái sai không 
dám đấu tranh phê bình; hoặc biểu hiện đối 
với không ít cán bộ, đảng viên mắc phải là 
“không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”; 
chỉ thích khen và không bằng lòng khi bị 
nhắc nhở, phê bình. Do đó, những cán bộ, 
đảng viên như vậy thường không “cả gan 
nói, cả gan đề xuất ý kiến” và không “có 
gan phụ trách, có gan làm việc”. Cho nên, 
các công việc được giao thường đạt chất 
lượng, hiệu quả rất thấp. 
Đại hội XII của Đảng khẳng định: đẩy 
mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo 
đức, phong cách Hồ Chí Minh là công việc 
thường xuyên của các tổ chức Đảng, các cấp 
chính quyền, các tổ chức chính trị – xã hội, 
địa phương, đơn vị. Ngày 15-5-2016, Bộ 
Chính trị khóa XII đã ban hành Chỉ thị 05 
về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư 
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí 
Minh” với phạm vi rộng hơn, yêu cầu cao 
hơn, trọng tâm là học và làm theo phong cách 
của Bác. 
Hiện nay, đất nước ta đã bước vào 
thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm sớm đưa 
nước ta trở thành nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại. Tình hình thế giới và 
trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó 
khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều 
vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp 
hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển 
đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, 
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ 
quốc. Những yêu cầu nhiệm vụ mới, 
những thực tiễn mới, đòi hỏi toàn Đảng, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Lê Đức Thọ 
27 
toàn dân, toàn quân ta phải đẩy mạnh học 
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong 
cách Hồ Chí Minh, trong đó học tập và 
làm theo phong cách tư duy hài hòa, uyển 
chuyển, có lý có tình của Bác Hồ là nội 
dung rất quan trọng. 
Học tập và làm theo phong cách tư 
duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán 
bộ đảng viên cần sáng tạo, năng động 
trong thực hiện nhiệm vụ quan trọng và 
xuyên suốt là xây dựng tổ chức Đảng 
trong sạch, vững mạnh, xây dựng doanh 
nghiệp phát triển bền vững. Có như vậy 
mới bảo đảm về đời sống, việc làm cho 
người lao động, xây dựng văn hóa doanh 
nghiệp, góp phần giữ vững an ninh chính 
trị, ổn định xã hội. 
Phong cách, phương pháp tư duy của 
cán bộ, đảng viên được thể hiện qua cách 
thức làm việc, cách ứng xử trong các 
quan hệ công tác, qua ngôn ngữ giao tiếp 
với mọi người. Mỗi cơ quan, đơn vị ngoài 
những yêu cầu chuẩn mực về đạo đức, 
phong cách làm việc, phong cách ứng xử 
chung còn cần có những yêu cầu, chuẩn 
mực riêng do môi trường và đặc điểm 
nhiệm vụ công tác quy định. Theo đó, để 
học tập và rèn luyện theo những đặc trưng 
giá trị trong phong cách tư duy của Hồ 
Chí Minh, cấp ủy, người đứng đầu các cơ 
quan, đơn vị cần lượng hóa và cụ thể hóa 
các đặc trưng ấy thành các tiêu chí cho 
mỗi cán bộ, đảng viên. Cần “Tiếp tục xây 
dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức 
nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa 
phương, cơ quan, đơn vị với phương 
châm sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, 
dễ nhớ, dễ thực hiện và đánh giá việc 
thực hiện” [1]. Mỗi cơ quan, đơn vị cần 
xây dựng những điển hình mẫu mực, từ 
đó nhân rộng điển hình trong đơn vị. 
Thông qua các hoạt động thực tiễn như 
hội thi, hội thao, văn hóa văn nghệ, tuyên 
truyền cổ động,... để đưa các điển hình đó 
vào thực tế của đơn vị mình. Đồng thời, 
qua các giai đoạn cần có sự đánh giá rút 
kinh nghiệm, điều chỉnh chuẩn mực mô 
hình cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ 
của cơ quan, đơn vị. 
Trong giai đoạn hiện nay, việc học 
tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh 
đòi hỏi mỗi tổ chức Đảng và cán bộ, đảng 
viên, nhất là người đứng đầu cần phải đề 
cao ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện, 
thể hiện cụ thể trong suy nghĩ và việc làm 
hằng ngày; trong quan hệ với nhân dân, 
đồng chí, đồng nghiệp, góp phần đẩy lùi 
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo 
đức, lối sống và các tệ nạn tham nhũng, 
tiêu cực, thực hiện thắng lợi Nghị quyết 
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của 
Đảng. 
Học tập và làm theo phong cách tư 
duy Hồ Chí Minh, hơn ai hết, bản thân 
mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức 
được rằng, tư duy là điểm xuất phát của 
mọi việc, muốn có hành động đúng phải 
có tư duy đúng. Người cán bộ, đảng viên 
có phong cách tư duy khoa học sẽ luôn 
phát huy tính năng động, sáng tạo, tự chủ 
và hoàn thành mọi nhiệm vụ được tổ chức 
phân công. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, 
việc nâng cao phong cách tư duy khoa 
học của cán bộ, đảng viên có nhiều biện 
pháp, nhưng đều đòi hỏi mỗi người phải 
không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng, 
rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt, đặc 
biệt là trình độ kiến thức chuyên môn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 10, Tháng 7 - 2018 
28 
nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị; 
phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng 
để nắm được bản chất khoa học và cách 
mạng của sự vật, hiện tượng, làm cơ sở 
cho nhận thức đúng đắn thực tiễn và có 
biện pháp giải quyết thấu đáo, đạt hiệu 
quả cao. Đồng thời, phải rèn luyện phong 
cách làm việc có kế hoạch, có chuẩn bị, 
có quan điểm thực tiễn; đặc biệt “phải 
học cách nói của quần chúng, học cách 
làm của quần chúng”. Đó là con đường 
dẫn đến nhận thức đúng và phương pháp, 
hành động đúng, góp phần xây dựng 
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, 
tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng 
đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ 
cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, 
ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi 
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo 
đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn 
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy 
mạnh đấu tranh phòng, chống tham 
nhũng, lãng phí, quan liêu, ... Vì vậy việc 
học tập, rèn luyện, xây dựng phong cách 
tư duy theo phong cách tư duy Hồ Chí 
Minh chính là một phần trong việc xây 
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa 
hồng, vừa chuyên”, đáp ứng với yêu cầu 
của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn 
hiện nay. 
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, 
đặc biệt là yêu cầu xây dựng Đảng trong 
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ 
chức và đạo đức, việc đẩy mạnh học tập 
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong 
cách Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ rất 
quan trọng, cần thiết, góp phần làm cho 
tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người 
thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững 
chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn 
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu 
cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững 
chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 
3. KẾT LUẬN 
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, 
việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư 
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí 
Minh là một nhiệm vụ rất quan trọng, cần 
thiết, góp phần vào xây dựng văn hóa, 
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu 
phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc 
Tổ quốc. Kế thừa và phát huy những giá 
trị của phong cách tư duy Hồ Chí Minh 
trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên 
hiện nay là việc làm có ý nghĩa thiết thực, 
trực tiếp nâng cao nhận thức về những giá 
trị to lớn trong tư tưởng, đạo đức, phong 
cách Hồ Chí Minh nói chung và phong 
cách tư duy của Người nói riêng, nhất là 
phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, 
có lý có tình của Người. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Lê Đức Thọ 
29 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2016), Chỉ thị của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm 
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, số: 05-CT/TW, Hà Nội, ngày 15 -5 -2016. 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, 
Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 
[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 
[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 
[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 
[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 26-3-2018. Ngày biên tập xong: 12-4-2018. Duyệt đăng: 23-7-2018 

File đính kèm:

  • pdfhoc_tap_phong_cach_tu_duy_hai_hoa_uyen_chuyen_co_ly_co_tinh.pdf