Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự

Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án có vai trò rất quan trọng nhằm

góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trên thực tiễn, việc

áp dụng pháp luật về biện pháp bảo đảm còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần

được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Bài viết đưa ra một số ý kiến liên quan

đến các quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự và

đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định này.

pdf 8 trang kimcuc 7600
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự

Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự
61Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ DUNG
Số chuyên đề 2 - 2019
1. Khái quát chung về biện pháp bảo 
đảm thi hành án dân sự
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, 
ngoài các nghĩa vụ mang tính nhân thân1 
thì phần lớn các nghĩa vụ thi hành án là 
nghĩa vụ thanh toán tiền, tài sản.2 Trước 
đây, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 
2004 chỉ quy định về các biện pháp cưỡng 
chế khi người phải thi hành án không tự 
nguyện thi hành. Tuy nhiên, thực tiễn thi 
1 Các nghĩa vụ mang tính nhân thân như: buộc 
thực hiện hoặc không được thực hiện công việc 
nhất định; giao con chưa thành niên cho người 
được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định; 
buộc nhận người lao động trở lại làm việc.
2 Đặng Ngọc Dư (2016), Một số vấn đề về các biện 
pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Tạp chí Kiểm 
sát số 19 năm 2016, tr.21-25
hành án dân sự cho thấy đến thời điểm 
áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án 
thì người phải thi hành án thường không 
còn điều kiện để thi hành án nữa và dẫn 
đến không thực hiện được việc thi hành 
án hoặc việc thi hành án phải kéo dài, tồn 
đọng. Trong các nguyên nhân dẫn đến 
thực trạng này, có một nguyên nhân rất 
quan trọng đến từ tâm lý “chây ỳ”, trốn 
tránh thi hành án của người phải thi hành 
dẫn tới việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản. Chính 
từ thực tiễn đó, yêu cầu tất yếu đặt ra là 
pháp luật thi hành án dân sự cần phải có 
cơ chế pháp lý để đảm bảo mục đích ngăn 
chặn, phòng ngừa, đảm bảo điều kiện thi 
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM 
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 
NGUYỄN THỊ DUNG*
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật dân sự và Kiểm sát dân 
sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án có vai trò rất quan trọng nhằm 
góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trên thực tiễn, việc 
áp dụng pháp luật về biện pháp bảo đảm còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần 
được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Bài viết đưa ra một số ý kiến liên quan 
đến các quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự và 
đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định này.
Từ khoá: Biện pháp bảo đảm, thi hành án dân sự, biện pháp bảo đảm thi 
hành án dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
The application of measures to secure judgment enforcement plays an 
important role in improving effectiveness of civil judgments enforcement. 
However, in reality, legal application of secure measures still faces to many 
difficulties that need to be continuously studied. The article brings out 
some matters related to legal regulations on measures to secure judgment 
enforcement and suggestions as well.
Keywords: Secure measures, civil judgments enforcement, measures to 
secure civil judgment enforcement, Law on Enforcement of Civil Judgments, 
Decree No. 62/2015/NĐ-CP.
62
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
hành án dân sự. Với tinh thần đó, Luật 
Thi hành án dân sự năm 2008 cũng như 
Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 (sau đây 
gọi chung là “Luật THADS”) đã bổ sung 
các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa 
nhằm bảo đảm cho quá trình thi hành án 
đạt kết quả, các biện pháp này gọi là các 
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và 
được quy định tại Mục 1 Chương IV cũng 
như hướng dẫn chi tiết tại các điều 13, 15, 
18, 19, 20, 23, 34 và 38 của Nghị định số 
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính 
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi 
hành một số điều của Luật THADS (sau 
đây gọi là Nghị định số 62). Cụ thể, khoản 
3 Điều 66 Luật THADS đã quy định các 
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự 
(“BPBĐTHADS”), bao gồm: 1/ Phong toả 
tài khoản; 2/ Tạm giữ tài sản, giấy tờ của 
đương sự; và 3/ Tạm dừng việc đăng ký, 
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi 
hiện trạng tài sản. 
BPBĐTHADS có một số đặc điểm sau: 
Một là, BPBĐTHADS có tính bảo 
đảm bởi những biện pháp này khi được 
áp dụng sẽ đặt tài sản của người phải 
thi hành án trong tình trạng bị hạn chế 
quyền sử dụng, định đoạt nhằm ngăn 
chặn việc người phải thi hành án tẩu tán, 
huỷ hoại tài sản, trốn tránh thi hành án. 
BPBĐTHADS sẽ bảo toàn được tình trạng 
tài sản của người phải thi hành án, đôn 
đốc người phải thi hành án tự nguyện thi 
hành nghĩa vụ theo bản án, quyết định 
của Toà án hoặc bảo đảm hiệu quả của 
việc thi hành án dân sự trong trường hợp 
người phải thi hành án dân sự không tự 
nguyện thi hành án.
Hai là, BPBĐTHADS có tính ngăn 
chặn, phòng ngừa việc tẩu tán, huỷ hoại 
tài sản. Pháp luật thi hành án dân sự 
mặc dù không định nghĩa về biện pháp 
bảo đảm, song cũng đã quy định về mục 
đích của việc áp dụng BPBĐTHADS. Như 
vậy, BPBĐTHADS được áp dụng tại thời 
điểm hiện tại để ngăn chặn một hành vi 
của người phải thi hành án có thể xảy ra ở 
tương lai, mục đích rõ ràng được luật nêu 
ra: nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán, huỷ 
hoại tài sản và trốn tránh việc thi hành án.3 
Ba là, BPBĐTHADS có tính kịp thời, 
nhanh chóng về thời gian, đơn giản về 
thủ tục. Hiện nay, do sự phát triển mạnh 
mẽ của khoa học công nghệ trên toàn cầu, 
quá trình chuyển dịch tài sản sẽ diễn ra 
rất nhanh chóng, tạo thuận lợi cho các bên 
trong hoạt động kinh doanh, thương mại. 
Vì lẽ đó, người phải thi hành án có thể lợi 
dụng điều này để tẩu tán, huỷ hoại tài sản 
dẫn tới làm mất điều kiện thi hành án. Để 
ngăn chặn hành vi này, cơ quan, tổ chức 
có thẩm quyền thi hành án dân sự cần áp 
dụng biện pháp phù hợp, theo quy định 
của pháp luật thi hành án dân sự có thể 
áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc biện 
pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, nhược điểm 
của biện pháp cưỡng chế tại thời điểm cần 
ngăn chặn ngay lại là sự chậm trễ trong áp 
dụng, phức tạp về thủ tục sẽ tạo cơ hội cho 
người phải thi hành án tẩu tán, huỷ hoại 
tài sản. Như vậy, nếu áp dụng biện pháp 
bảo đảm sẽ kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán, 
huỷ hoại tài sản, bảo đảm cho cơ quan, tổ 
chức có thẩm quyền thi hành án dân sự có 
điều kiện tiếp tục áp dụng các biện pháp 
cưỡng chế để thi hành án dân sự.
2. Một số vướng mắc trong thực tiễn 
áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án 
dân sự
Thực tế cho thấy, các BPBĐTHADS 
được quy định tại Luật THADS và Nghị 
định 62 đã đặt những cơ sở pháp lý đầu 
3 Khoản 1 Điều 66 Luật THADS.
63Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ DUNG
Số chuyên đề 2 - 2019
tiên để Chấp hành viên tiến hành các hoạt 
động thi hành án nhằm kịp thời ngăn chặn 
việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh 
việc thi hành án của người phải thi hành 
án, đảm bảo sự thượng tôn pháp luật qua 
việc bảo đảm thi hành một cách triệt để và 
hiệu quả các bản án, quyết định có hiệu 
lực pháp luật. Tuy nhiên, có thể nhận thấy 
rằng, quy định về các BPBĐTHADS vẫn 
tồn tại những bất cập trong cả quy định 
chung về các BPBĐTHADS lẫn các quy 
định cụ thể về từng biện pháp, dẫn đến 
thực tế là các Chấp hành viên rất hạn chế 
áp dụng các biện pháp này vì một số khó 
khăn, vướng mắc như sau: 
Thứ nhất, sự không rõ ràng, mâu thuẫn 
trong các quy định pháp luật:
Một là, cách quy định của Luật 
THADS hiện tại là một điều luật quy định 
chung về các BPBĐTHADS, liền sau đó là 
các điều luật về từng biện pháp. Theo quy 
định tại khoản 3 Điều 66 Luật THADS thì 
các biện pháp bảo đảm thi hành án bao 
gồm: 1/ Phong tỏa tài khoản; 2/ Tạm giữ 
tài sản, giấy tờ; 3/ Tạm dừng việc đăng 
ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về 
tài sản. Tuy nhiên, điều luật ngay sau đó, 
Điều 67 lại quy định về biện pháp phong 
toả tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ. Do vậy, 
có thể thấy phạm vi điều chỉnh của Điều 
67 là rộng hơn phạm vi của biện pháp bảo 
đảm đầu tiên tại khoản 3 Điều 66.
Hai là, về đối tượng được yêu cầu áp 
dụng biện pháp bảo đảm được quy định 
tại điểm a khoản 1 Điều 7, Điều 7a và 
khoản 1 Điều 66. Cụ thể, điểm a khoản 
1 Điều 7 quy định người được thi hành 
án có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp 
bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế 
thi hành án. Còn theo quy định của Điều 
7a thì thấy rằng người phải thi hành án 
không có quyền yêu cầu áp dụng biện 
pháp bảo đảm. Trong khi đó, khoản 1 Điều 
66 về biện pháp bảo đảm thi hành án thì 
quy định: “Chấp hành viên có quyền tự mình 
hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương 
sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành 
án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài 
sản, trốn tránh việc thi hành án.” Như vậy, 
ở đây “đương sự” có thể yêu cầu để Chấp 
hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm thi 
hành án, mà “đương sự” bao gồm người 
được thi hành án, người phải thi hành án.4 
Do đó, tồn tại sự mâu thuẫn giữa các quy 
định trong Luật THADS, cụ thể giữa quy 
định về quyền của người phải thi hành án 
và khoản 1 Điều 66 Luật THADS.
Ba là, các quy định pháp luật hiện tại 
chưa có hướng dẫn cụ thể về thời hạn mà 
Chấp hành viên phải ra quyết định áp 
dụng biện pháp bảo đảm theo yêu cầu của 
đương sự. Điều này dẫn đến việc áp dụng 
trên thực tế phụ thuộc vào ý chí chủ quan 
và không thống nhất giữa các Chấp hành 
viên. Trong thực tế, có trường hợp, Chấp 
hành viên ra ngay quyết định áp dụng 
biện pháp bảo đảm sau khi nhận được 
đơn đề nghị từ đương sự, nhưng cũng có 
trường hợp phải vài ngày sau, hoặc lâu 
hơn, Chấp hành viên mới ra quyết định 
áp dụng biện pháp bảo đảm. Việc chậm 
trễ này có thể ảnh hưởng đến kết quả tổ 
chức thi hành, ảnh hưởng đến quyền, lợi 
ích hợp pháp của người được thi hành án.
Bốn là, về người có thẩm quyền ký 
quyết định áp dụng BPBĐTHADS trong 
trường hợp đương sự có đơn yêu cầu thi 
hành án kèm theo yêu cầu áp dụng biện 
pháp bảo đảm thi hành án ngay. Luật 
THADS hiện tại chưa có quy định giải 
quyết về việc trong trường hợp này ai sẽ 
là người ký quyết định. Bởi theo Luật định 
4 Khoản 1 Điều 3 Luật THADS
64
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
thì quyết định áp dụng các biện pháp bảo 
đảm thi hành án là do Chấp hành viên 
ký.5 Tuy nhiên, trong trường hợp đương 
sự yêu cầu cùng lúc với nộp đơn yêu cầu 
thi hành án thì thời điểm này Thủ trưởng 
cơ quan thi hành án chưa ra quyết định 
thi hành án và chưa phân công cho Chấp 
hành viên tổ chức thi hành. 
Năm là, Luật THADS và các văn bản 
hướng dẫn thi hành mới chỉ quy định một 
cách chung chung về các dấu hiệu “ tẩu 
tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành 
án”6 Trong thực tế, rất khó xác định 
những dấu hiệu này bởi người phải thi 
hành án còn có nhiều hành vi nhằm thực 
hiện giao dịch bình thường trong quá 
trình sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, 
và vì vậy dễ dàng cho đương sự khiếu 
nại, và để an toàn, Chấp hành viên rất ít 
khi áp dụng biện pháp bảo đảm.
Sáu là, khoản 2 Điều 67 Luật THADS 
có đoạn quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá 
nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải 
thực hiện ngay yêu cầu của Chấp hành viên về 
phong tỏa tài khoản, tài sản. Biên bản, quyết 
định phong tỏa tài khoản, tài sản trong trường 
hợp này phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát 
nhân dân cùng cấp,” và các văn bản hướng 
dẫn đều quy định cụ thể trách nhiệm của 
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc 
không thực hiện quyết định phong toả tài 
khoản, tài sản ở nơi gửi giữ,7 tuy nhiên, lại 
5 Biểu mẫu C15 đến C19 Phụ lục V Thông tư số 
01/2016/TT-BTP ban hành ngày 01 tháng 02 năm 
2016 hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản 
lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong thi 
hành án dân sự.
6 Khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự.
7 Khoản 1 Điều 14 Thông tư liên tịch số 02/2014/
TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN do Bộ 
trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Lao động 
- Thương binh và Xã hội - Thống đốc Ngân hàng 
Nhà nước Việt Nam ban hành
chưa có văn bản pháp luật nào giải thích 
thế nào là “thực hiện ngay”. Chính vì điều 
này, việc hợp tác giữa các cơ quan quản lý 
tài khoản, tài sản của người phải thi hành 
án với cơ quan thi hành án dân sự còn hạn 
chế, chưa kịp thời dẫn đến việc áp dụng 
biện pháp này còn khó khăn. 
Bảy là, theo quy định thì việc thu thập 
thông tin về tài khoản của người phải thi 
hành án có thể do người yêu cầu áp dụng 
biện pháp phong toả tài khoản thực hiện 
hoặc cũng có thể do Chấp hành viên thực 
hiện. Tuy nhiên, việc thu thập thông tin về 
tài khoản từ phía người được thi hành án 
trở nên càng khó khăn hơn khi phải xác 
định và cung cấp cho cơ quan thi hành án 
dân sự số tài khoản, số dư tài khoản của 
người phải thi hành án làm căn cứ để tổ 
chức thi hành án (ra quyết định phong toả 
tài khoản). Bởi lẽ, các ngân hàng, tổ chức 
tín dụng thường viện dẫn Điều 17, Điều 
104 Luật các tổ chức tín dụng về nghĩa vụ 
bảo mật thông tin khách hàng để từ chối 
cung cấp thông tin khi người được thi 
hành án muốn tự xác minh.
Tám là, khoản 2 Điều 66 Luật THADS 
quy định về trách nhiệm bồi thường của 
người yêu cầu áp dụng biện pháp bảo 
đảm. Theo đó, trong trường hợp yêu cầu 
áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng 
mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng 
biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ 
ba thì người yêu cầu phải bồi thường. 
Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trường 
hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp 
bảo đảm không đúng gây thiệt hại, tuy 
nhiên rất khó để giải quyết bồi thường 
bởi chưa có các quy định cụ thể về các nội 
dung như mức bồi thường, hình thức bồi 
thường, phương thức bồi thường. Theo 
đó, cần phải xác định rõ việc bồi thường 
tuân theo các quy định về bồi thường thiệt 
65Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ DUNG
Số chuyên đề 2 - 2019
hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân 
sự hay quy định cụ thể việc bồi thường, 
đồng thời tôn trọng sự thỏa thuận của các 
bên về các vấn đề nêu trên về bồi thường, 
song các nội dung đó không được trái 
pháp luật, đạo đức xã hội.
Chín là, khoản 4 Điều 68 quy định về 
việc “Chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ 
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp 
các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh 
quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương 
sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan 
về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền 
sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm 
giữ,” giúp Chấp hành viên sớm xác định 
có hay không có tranh chấp đối với tài 
sản, và tăng thêm trách nhiệm của Chấp 
hành viên nhằm tránh xâm phạm đến 
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và 
người thứ ba. Tuy nhiên, điều luật chưa 
quy định rõ khoảng thời gian để đương 
sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan 
thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu xác 
định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài 
sản, giấy tờ.
Thứ hai, chưa có quy chế phối hợp giữa 
chính quyền địa phương, các cơ quan, tổ chức 
có liên quan với các cơ quan thi hành án hoặc 
quan hệ phối hợp chưa được nhiệt tình, triệt để
Mặc dù Luật THADS trao quyền cho 
Chấp hành viên được áp dụng các biện 
pháp bảo đảm thi hành án tại bất cứ thời 
điểm nào của quá trình thi hành án nhằm 
ngăn chặn hành vi tẩu tán, huỷ hoại tài 
sản của người phải thi hành án. Tuy nhiên, 
việc thực hiện BPBĐTHADS cần có sự 
tham gia của các đối tượng như cơ quan 
thi hành án dân sự, đương sự, các tổ chức 
tín dụng, công an, bảo hiểm, các cơ quan 
chính quyền địa phương, Thế nhưng, 
cho đến nay, ngoài một số quy định tại 
Chương VIII Luật THADS về trách nhiệm 
phối hợp của một số cơ quan, mới chỉ có 
các quy chế phối hợp của cơ quan công 
an với cơ quan thi hành án trong cưỡng 
chế thi hành án,8 hoặc trách nhiệm của các 
cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong 
hoạt động tạm giữ tài sản, giấy tờ để thi 
hành án,9 hay quy chế phối hợp giữa ngân 
hàng, tổ chức tín dụng với cơ quan thi 
hành án trong công tác thi hành án dân 
sự,10 mà không có một quy định chung 
trong Luật THADS về trách nhiệm của cơ 
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong 
việc phối hợp và bồi thường thiệt hại nếu 
có xảy ra do không thực hiện hoặc thực 
hiện không đúng yêu cầu phối hợp của 
cơ quan thi hành án dân sự. Do vậy, trên 
thực tế lực lượng công an thường từ chối 
không hỗ trợ khi được Chấp hành viên 
yêu cầu trong khi áp dụng các biện pháp 
bảo đảm thi hành án, hay một số cơ quan, 
tổ chức không thực hiện đúng nghĩa vụ, 
trách nhiệm trong việc tạo điều kiện hỗ 
trợ, phối hợp, tham gia công tác thi hành 
án như: không tống đạt các loại giấy tờ, 
quyết định về thi hành án cho các đương 
sự, không tạo điều kiện cho cơ quan thi 
hành án xác minh điều kiện thi hành án, 
cưỡng chế, kê biên, định giá tài sản.11 
3. Kiến nghị hoàn thiện 
Để bảo đảm sự thống nhất trong các 
8 Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA 
giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an chỉ quy định cụ 
thể về việc phối hợp bảo vệ trong cưỡng chế thi 
hành án dân sự. 
9 Khoản 1 Điều 68 Luật THADS, Khoản 1 Điều 18 
Nghị định 62
10 Quy chế phối hợp số 01/QCLN/NHNNVN-BTP 
giữa Ngân hàng nhà nước Việt Nam với Bộ Tư 
pháp trong hoạt động thi hành án dân sự ngày 
18/3/2015.
11 Hà Minh Thảo, Công tác thi hành án dân sự ở 
Lạng Sơn Thực trạng và giải pháp, Nghề Luật số 
06 năm 2015, tr.60-63.
66
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm 
trong thi hành án dân sự, và nâng cao hiệu 
quả của việc áp dụng các BPBĐTHADS 
trong thực tế, tác giả đưa ra một số kiến 
nghị sau: 
Thứ nhất, chỉnh sửa, bổ sung làm rõ 
các quy định có liên quan hiện còn đang 
gây mâu thuẫn, không rõ ràng:
Trước hết, cần bổ sung cụm từ “tài sản 
ở nơi gửi giữ” vào điểm a khoản 3 Điều 66 
để đồng bộ với tên gọi của biện pháp bảo 
đảm “phong toả tài khoản, tài sản ở nơi 
gửi giữ” được quy định tại Điều 67 Luật 
THADS. Như vậy, Điều 66 Luật THADS 
nên sửa đổi, bổ sung là:
“Các biện pháp bảo đảm thi hành án bao gồm:
a) Phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ;
b) Tạm giữ tài sản, giấy tờ;
c) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, 
thay đổi hiện trạng về tài sản.”
Ngoài ra, để thể hiện sự logic và tránh 
gây tranh cãi về việc ra quyết định áp 
dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án 
trước khi người phải thi hành án được 
thông báo hợp lệ về quyết định thi hành 
án hay sau khi nhận được quyết định thi 
hành án, đề nghị các cơ quan có thẩm 
quyền sớm quy định về thời hạn ra quyết 
định áp dụng các biện pháp bảo đảm 
thi hành án. Theo khoản 1 Điều 66 Luật 
THADS thì “ Chấp hành viên có quyền 
tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản 
của đương sự áp dụng ngay biện pháp 
bảo đảm”. Như vậy về nguyên tắc, 
Chấp hành viên phải áp dụng ngay biện 
pháp bảo đảm khi có yêu cầu bằng văn 
bản của đương sự, song Luật THADS và 
các văn bản hướng dẫn chưa quy định 
rõ thời hạn giải quyết cụ thể. Do vậy để 
tránh việc áp dụng dựa vào ý chí chủ 
quan, có thể quy định ngay khi có yêu cầu 
của đương sự hoặc sau mấy ngày thì cần 
thiết quy định một cách cụ thể để Chấp 
hành viên có căn cứ rõ ràng về thời hạn 
giải quyết trong việc tiến hành áp dụng 
biện pháp bảo đảm, đồng thời cũng hạn 
chế được tình trạng khiếu nại không đáng 
có của đương sự về thời hạn ra quyết định 
áp dụng biện pháp bảo đảm. Do đó, đề 
xuất sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 66 
Luật THADS như sau:
“Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc 
theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp 
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm 
ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn 
tránh việc thi hành án. Thời hạn ra quyết định 
áp dụng là không quá 05 ngày làm việc kể từ 
ngày có yêu cầu bằng văn bản của đương sự. 
Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, 
Chấp hành viên không phải thông báo trước 
cho đương sự”.
Một vấn đề khác liên quan đến người 
có thẩm quyền ký quyết định áp dụng 
BPBĐTHADS trong trường hợp đương 
sự có đơn yêu cầu thi hành án kèm theo 
yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm thi 
hành án ngay. Trên thực tế hiện đang 
tồn tại hai hướng quan điểm về người 
có thẩm quyền ký quyết định áp dụng 
BPBĐTHADS trong trường hợp cần phải 
áp dụng BPBĐTHADS ngay khi nhận 
được cùng lúc đơn yêu cầu thi hành án dân 
sự và đơn yêu cầu áp dụng BPBĐTHADS. 
Quan điểm thứ nhất cho rằng Thủ trưởng 
cơ quan thi hành án đồng thời cũng là 
Chấp hành viên, do đó, trong trường hợp 
đương sự gửi đơn yêu cầu thi hành án 
kèm theo yêu cầu áp dụng biện pháp bảo 
đảm, thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án 
ra quyết định thi hành án, đồng thời là 
người ký quyết định áp dụng biện pháp 
bảo đảm thi hành án, sau đó phân công 
cho Chấp hành viên giải quyết việc thi 
67Khoa học Kiểm sát
NGUYỄN THỊ DUNG
Số chuyên đề 2 - 2019
hành án. Trong khi đó, quan điểm thứ hai 
cho rằng, quyết định áp dụng biện pháp 
bảo đảm thi hành án là do Chấp hành viên 
trực tiếp giải quyết việc thi hành án ký, do 
đó, trong trường hợp này Thủ trưởng cơ 
quan thi hành án ra quyết định thi hành 
án, sau đó phân công cho Chấp hành viên 
giải quyết việc thi hành án. Chấp hành 
viên nào được phân công giải quyết hồ sơ 
thi hành án sẽ ký quyết định áp dụng biện 
pháp bảo đảm thi hành án. 
Theo ý kiến của tác giả, thực tế là việc 
áp dụng biện pháp bảo đảm từ thời điểm 
có quyết định thi hành án sẽ khó đảm bảo 
được tính bảo đảm, ngăn chặn và kịp thời 
phòng ngừa trong nhiều trường hợp của 
các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, 
dẫn tới không còn điều kiện để thi hành 
án, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm 
không phát huy được hiệu quả. Do vậy, 
đề xuất cần phải bổ sung quy định về thời 
điểm yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm 
thi hành án dân sự, theo đó: Bản án, quyết 
định có hiệu lực thi hành là căn cứ, cơ sở cho 
việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án 
dân sự. Quy định như vậy có thể tạo ra sự 
bao quát được các trường hợp phát sinh 
việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản và trốn tránh 
thi hành án trước khi có quyết định thi 
hành án. Quy định về việc áp dụng biện 
pháp bảo đảm trước khi có quyết định thi 
hành án cũng cần quy định cụ thể các vấn 
đề sau: 1/ Căn cứ áp dụng biện pháp bảo 
đảm; 2/ Quyền yêu cầu áp dụng; 3/ Hình 
thức nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp 
bảo đảm; 4/ Thẩm quyền quyết định áp 
dụng biện pháp bảo đảm.
Liên quan đến trách nhiệm bồi thường 
trong trường hợp người phải thi hành án 
yêu cầu áp dụng BPBĐTHADS không 
đúng dẫn tới gây thiệt hại cho người phải 
thi hành án, người thứ ba có liên quan: Có 
thể thấy trách nhiệm bồi thường cần được 
đặt ra do yêu cầu không đúng của đương 
sự gây thiệt hại cho phía đương sự còn 
lại hoặc bên thứ ba. Do vậy, đề nghị bổ 
sung quy định về việc người yêu cầu áp 
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân 
sự phải nộp một khoản tiền đặt trước khi 
nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp bảo 
đảm thi hành án dân sự để đảm bảo việc 
bồi thường có thể thực thi được trên thực 
tế sau này. Không những thế, cần phải 
quy định cụ thể về mức bồi thường, hình 
thức bồi thường, phương thức bồi thường. 
Các quy định này có thể dẫn chiếu theo 
quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015, 
đồng thời cũng cần phải tôn trọng sự thỏa 
thuận của các bên về các vấn đề nêu trên.
Ngoài ra, Luật THADS cũng như các 
văn bản hướng dẫn cần có giải đáp hợp lý 
về các dấu hiệu của người phải thi hành 
án để áp dụng BPBĐTHADS; hay quy 
định cụ thể về thời gian thực hiện của các 
cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý 
tài khoản, tài sản của người phải thi hành 
án theo yêu cầu của Chấp hành viên về 
phong toả tài khoản, tài sản; cũng như có 
những hướng dẫn cần thiết trong trường 
hợp người được thi hành án tự xác minh 
thông tin về tài khoản, số dư tài khoản 
của người phải thi hành án làm căn cứ 
yêu cầu áp dụng các BPBĐTHADS. 
Thứ hai, xây dựng quy chế phối hợp 
giữa cơ quan thi hành án dân sự và cơ 
quan công an, cơ quan, tổ chức khác có 
liên quan không chỉ trong việc cưỡng 
chế thi hành án mà còn cả trong việc áp 
dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án. 
Thắt chặt hơn nữa các chế tài đối với các 
cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc 
từ chối phối hợp thực hiện yêu cầu của 
cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành 
viên. Cần phải có quy định rõ ràng về 
68
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM...
Khoa học Kiểm sát Số chuyên đề 2 - 2019
trách nhiệm phối hợp và về hậu quả pháp 
lý đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân 
đối với việc không thực hiện hoặc thực 
hiện không đúng yêu cầu phối hợp của 
cơ quan thi hành án. Khi có quy định sẽ 
có tính chất gây “áp lực” lên các cơ quan, 
tổ chức, cá nhân hữu quan, và là điều 
cần thiết để cơ quan thi hành án dân sự 
có cơ sở vững chắc khi yêu cầu sự phối 
hợp, hỗ trợ từ phía các cơ quan, tổ chức, 
cá nhân hữu quan. Hiện nay mới chỉ có 
quy định tại khoản 2 Điều 20 Nghị định 
62 quy định về trách nhiệm của cơ quan, 
tổ chức, cá nhân nơi có tài khoản, tài sản 
đã bị phong toả trong trường hợp không 
nhận quyết định phong toả tài khoản, tài 
sản ở nơi gửi giữ và quy định này là chưa 
đủ để có cơ sở giải quyết các trường hợp 
khác. Chính vì lý do này, tác giả đề xuất 
bỏ phần “ cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu 
quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực 
hiện yêu cầu của Chấp hành viên trong việc 
tạm giữ tài sản, giấy tờ,” do đó, sửa đổi 
khoản 1 Điều 68 thành: “Chấp hành viên 
đang thực hiện nhiệm vụ thi hành án có quyền 
tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi 
hành án mà đương sự, tổ chức, cá nhân khác 
đang quản lý, sử dụng.” Và bổ sung khoản 
4 Điều 66 Luật THADS như sau:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có 
trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu 
cầu của Chấp hành viên trong việc áp dụng 
các biện pháp bảo đảm thi hành án. Trường 
hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan không 
thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu 
của Chấp hành viên trong việc áp dụng các 
biện pháp bảo đảm thi hành án phải chịu trách 
nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường nếu 
có thiệt hại xảy ra.”
Tóm lại, xuất phát từ yêu cầu đổi mới, 
phát triển đất nước, cải cách tổng thể nền 
tư pháp và hội nhập quốc tế sâu rộng, 
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói 
chung và pháp luật thi hành án dân sự 
nói riêng là cần thiết và phù hợp. Việc cơ 
quan thi hành án thực hiện các biện pháp 
bảo đảm thi hành án là một trong những 
biện pháp đảm bảo hiệu lực thi hành của 
bản án, quyết định của Toà án, khôi phục 
lại quyền, lợi ích hợp pháp cho đương 
sự, đồng thời cũng là thể hiện sự nghiêm 
minh của pháp luật. Do đó, cần phải hoàn 
thiện hơn nữa các quy định của pháp luật 
về thi hành án dân sự nói chung, quy định 
về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân 
sự nói riêng nhằm tạo điều kiện cho Chấp 
hành viên có căn cứ pháp lý cụ thể, rõ 
ràng để ra các quyết định chính xác, hợp 
tình, hợp lý, góp phần nâng cao hiệu quả 
công tác thi hành án dân sự, bảo đảm cho 
một Nhà nước pháp quyền, và đáp ứng 
được yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập 
quốc tế./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Duy Bằng (2014), Bàn về những khó khăn 
khi thực thi biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, 
Dân chủ và Pháp luật. Số chuyên đề: Thực hiện 
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 /2014, tr. 
96 - 105.
2. Chính phủ, Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy 
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số 
điều của Luật Thi hành án dân sự.
3. Đặng Ngọc Dư (2016), Một số vấn đề về 
các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Kiểm 
sát số 19/2016, tr.21-25.
4. Hoàng Thị Thanh Hoa (2019), Một số vướng mắc 
trong thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành 
án, Dân chủ và Pháp luật số 5/2019, tr. 48-52.
5. Lê Quang Tiến (2013), Thực tiễn áp 
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án trên địa bàn 
thành phố Hà Nội, Dân chủ và Pháp luật. Số 
4/2013, tr. 52-54.
6. Hà Minh Thảo (2015), Công tác thi hành án dân 
sự ở Lạng Sơn - Thực trạng và giải pháp, Nghề 
Luật số 06/2015, tr.60-63.
7. Quốc Hội, Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
8. Quốc Hội, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 
sửa đổi, bổ sung năm 2014.

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_quy_dinh_phap_luat_ve_bien_phap_bao_dam_trong_thi.pdf