Hoàn thiện quy định của pháp luật thi hành án dân sự về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Trong nghiên cứu khoa học pháp lý,
“bảo đảm là trách nhiệm của một chủ thể
là cá nhân, tổ chức phải làm cho quyền, lợi
ích của chủ thể bên kia chắc chắn thực hiện
được, được giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại thì
phải bồi thường”†. Bảo đảm có thể do các bên
thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Bảo
đảm có tác dụng tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau
giữa các bên, đặt trách nhiệm cho các bên
trong việc xác lập và thực hiện cac quan hệ
pháp luật. Trong quá trình THADS, để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp đã được tuyên
trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật, người được THA có yêu cầu cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền THA quyết định áp
dụng các biện pháp mang tính quyền lực nhà
nước để đặt tài sản mà người phải THA đang
quản lý, sử dụng trong tình trạng bị hạn chế
quyền sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn
việc người phải THA tẩu tán, trốn tránh việc
THA. Những biện pháp này còn nhằm bảo
toàn tình trạng tài sản của người phải THA,
đôn đốc người phải THA tự nguyện thi hành
nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện quy định của pháp luật thi hành án dân sự về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
37Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ COMPLETING THE REGULATIONS OF CIVIL IMPLEMENTATION LAW ON MEASURES TO GUARANTEE CIVIL IMPLEMENTATION Đinh Thị Hằng* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/03/2019 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/9/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/9/2019 Tóm tắt: Thi hành án dân sự là khâu cuối cùng trong quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc giải quyết vụ việc dân sự tại tòa án tuy rất quan trọng nhưng quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đã được tòa án quyết định muốn trở thành hiện thực thì phải thông qua việc thi hành án. Tuy nhiên, để thi hành án được đảm bảo hiệu quả thì pháp luật cần phải có qui định các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự để nhằm bảo đảm cho các bên tự thỏa thuận hoặc do pháp luật qui định. Từ khóa: Thi hành án, vụ án dân sự, quyền và nghĩa vụ, đương sự. Abstract: Civil judgment execution is the fi nal stage in the process of protecting the legal rights and interests of the litigants. The resolution of a civil case in court is very important, but for the rights and obligations of the litigants in the civil cases decided by the court to become reality, it is necessary to pass the judgment execution. However, in order to make the execution of the sentence to be eff ective, the law needs to take measures to ensure civil judgment enforcement for the parties agree on themselves or by law. Keywords: Judgment execution, civil cases, rights and obligations, litigants. * Khoa Luật, Trường Đại học Mở Hà Nội Tạp chí Khoa học - Viện Đại học Mở Hà Nội 59 (09/2019) 36-43 1. Khái quát chung về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự Thực tiễn THADS cho thấy nhiều trường hợp, ngay sau khi có bản án, quyết định của tòa án, bên đương sự phải THA có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ THA hay tẩu tán, hủy hoại tài sản để không THA. Để bảo đảm chắc chắn việc THADS được thực hiện hiệu quả thì pháp luật THADS đã quy định về các BPBĐTHADS. Các quy định này được xây dựng từ nguyên lý nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là các đương sự trong bản án, quyết định của Tòa án. 38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Trong nghiên cứu khoa học pháp lý, “bảo đảm là trách nhiệm của một chủ thể là cá nhân, tổ chức phải làm cho quyền, lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn thực hiện được, được giữ gìn, nếu xảy ra thiệt hại thì phải bồi thường”†. Bảo đảm có thể do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Bảo đảm có tác dụng tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau giữa các bên, đặt trách nhiệm cho các bên trong việc xác lập và thực hiện cac quan hệ pháp luật. Trong quá trình THADS, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đã được tuyên trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được THA có yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền THA quyết định áp dụng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước để đặt tài sản mà người phải THA đang quản lý, sử dụng trong tình trạng bị hạn chế quyền sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn việc người phải THA tẩu tán, trốn tránh việc THA. Những biện pháp này còn nhằm bảo toàn tình trạng tài sản của người phải THA, đôn đốc người phải THA tự nguyện thi hành nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy, BPBĐTHADS có thể được hiểu “là biện pháp pháp lý mang tính quyền lực Nhà nước do CHV áp dụng nhằm đặt động sản hoặc bất động sản của người phải THA trong tình trạng bi hạn chế quyền sử dụng, định đoạt hoặc bị cấm định đoạt, nhằm ngăn chặn người phải THA tẩu tán, định đoạt tài sản, trốn tránh việc THA, đồng thời đôn đốc người phải THA tự nguyện thực hiện † Nguy ễn Hữu Đắc (Trưởng ban biên soạn,1999), Từ điển Luật học, Nxb.Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 27. ‡ Trần Anh Tuấn (2009), “Bản chất pháp lý của BPBĐTHADStheoLTHADS”, Nghiên cứu lập pháp, (16), tr. 50 – 54. § Lê Thu Hà, (chủ biên, 2010), Giáo trình Kỹ năng THADS, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 167. nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của Tòa án".‡Hiểu một cách cụ thể hơn thì BPBĐTHADS bao gồm các biện pháp cụ thể và các biện pháp này do pháp luật quy định, được CHV áp dụng nhằm bảo toàn tài sản, ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA. Các BPBĐTHA có những đặc tính nổi bật như tính bảo đảm, tính quyền lực nhà nước, tính ngăn chặn, phòng ngừa việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, và tính kịp thời, nhanh chóng về thời gian, đơn giản về thủ tục. Với mục đích nhằm bảo toàn tình trạng tài sản hiện có của người phải THA, tránh việc họ tẩu tán tài sản, đôn đốc họ tự nguyện thi hành nghĩa vụ THADS của mình, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm góp phần bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được THA trên thực tế, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án. Khi bị áp dụng BPBĐTHA thì người phải THA sẽ nhận thức được giải pháp có lợi hơn cả đối với họ là tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án, nếu không họ sẽ bị cưỡng chế THA và như vậy các BPBĐTHADS còn là tiền đề, cơ sở cho việc thực hiện các BPCCTHA sau này. Việc áp dụng các BPBĐTHADS còn mang lại những giá trị kinh tế - xã hội nhất định, góp phần ổn định các quan hệ xã hội trong lĩnh vực THADS, đồng thời góp phần nâng cao ý thức pháp luật của đương sự§. 39Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Việc quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được xuất phát từ yêu cầu nhà nước phải bảo vệ trên thực tế quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được ghi nhận trong pháp luật, xuất phát từ thực tiễn phức tạp của việc thi hành án, từ những khó khăn của việc THADS trong nền kinh tế thị trường. Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động thi hành án dân sự là pháp luật cần phải quy định đầy đủ, đa dạng các biện pháp bảo đảm THADS để có thể áp dụng linh hoạt các biện pháp đó theo phương thức áp dụng một hoặc kết hợp một số biện pháp để đảm bảo ngăn chặn, phòng ngừa được việc tẩu tán tài sản, trốn tránh thi hành án, đảm bảo án của tòa thuộc diện án có điều kiện để THADS. 2. Quy định của pháp luật thi hành án dân sự hiện hành về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự Hiện nay các BPBĐTHADS được quy định trong LTHADS 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015 (sau đây gọi tắt là LTHADS 2014) bao gồm các biện pháp sau: 2.1. Biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ Biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải THA được quy định tại Điều 67LTHADS 2014, theo đó điều kiện áp dụng biện pháp này được quy định tại khoản 1: “Việc phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được thực hiện trong trường hợp người phải THA có tài khoản, tài sản gửi giữ”. Mục đích của biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải THA là giữ nguyên được hiện trạng tiền, tài sản gửi tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, Kho bạc nhà nước, nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc THA. Cơ sở để quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm này là dựa trên yêu cầu của đương sự hoặc tự CHV thấy cần thiết phải áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 66 LTHADS 2014. Thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa là của CHV và khi áp dụng biện pháp này CHV không phải thông báo trước cho đương sự để hạn chế hành vi tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải THA. Phong tỏa được áp dụng trong trường hợp người phải THA có nghĩa vụ trả tiền và họ có tiển, tài sản để thi hành án. Khi biện pháp này được áp dụng sẽ cô lập, đặt tài khoản, tài sản của người phải THA trong tình trạng bị phong tỏa, không thể sử dụng được, ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản, tài sản nơi gửi giữ. Biện pháp này sẽ là cơ sở để sau đó áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải THA. Theo quy định tại Điều 67 của LTHADS và Điều 20 Nghị định 62/2015/NĐ-CP thì khi áp dụng biện pháp này CHV phải ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ. Quyết định này phải xác định rõ số tiền, tài sản bị phong tỏa. CHV giao quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ cho người đại diện theo pháp luật của Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và lập biên bản về việc giao quyết định. Biên bản phải có chữ ký của CHV, người nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ. Trường hợp người nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ không ký thì phải có chữ ký của người chứng kiến. Trường hợp cần phong tỏa ngay tài khoản, tài sản của 40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion người phải THA ở nơi gửi giữ mà chưa ban hành quyết định phong tỏa thì CHV lập biên bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải THA phong tỏa tài khoản, tài sản đó. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập biên bản, CHV phải ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản. Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ được ban hành sau khi CHV lập biên bản phong tỏ a với trường hợp trên phải được gửi ngay cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi có tài khoản, tài sản đã bị phong tỏa. Trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức không nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ thì CHV lập biên bản về việc không nhận quyết định, có chữ ký của người làm chứng hoặc chứng kiến và tiến hành niêm yết quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ của người phải THA tại trụ sở cơ quan, tổ chức đó. Trường hợp người đại diện theo pháp luật hoặc người có trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức không nhận quyết định phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật và phải bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra. Kể từ thời điểm nhận được quyết định hoặc biên bản về việc phong tỏa tài khoản, Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản phải thực hiện ngay yêu cầu của CHV về phong tỏa tài khoản, tài sản. CHV có trách nhiệm bảo mật các thông tin về tài khoản, tài sản của người phải THA bị áp dụng biện pháp bảo đảm khi được Kho bạc Nhà nước, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi ¶ Vũ Chiến Hà (2011), “Những vướng mắc khi phong tỏa tài khoản để THA”, Dân chủ & Pháp luật, (Số chuyên đề về THADS 07), tr.13-15. ** Lê Thu Hà, tlđd chú thích 18, tr. 170. có tài khoản, tài sản cung cấp. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ, CHV phải áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc ra quyết định chấm dứt việc phong tỏa. Áp dụng quy định về biện pháp phong tỏa trên hiện đang tồn tại vướng mắc cần được khắc phục vì có các quan điểm khác nhau.Có quan điểm cho rằng: Phong tỏa tài khoản là phong tỏa toàn bộ tài khoản (cả chiều vào và chiều ra của tài khoản)¶. Có quan điểm cho rằng phong tỏa tài khoản nên được hiểu là biện pháp nghiệp vụ làm cho mọi hoạt động “tiền ra” từ một tài khoản nhất định bị hạn chế và kiểm soát**. Việc phong tỏa tài khoản sẽ chỉ hạn chế giao dịch đầu ra của chủ tài khoản thông qua tài khoản đó, vì thế CHV chỉ phong tỏa chiều ra (chiều giải ngân) của tài khoản, không phong tỏa chiều vào của tài khoản, có như vậy lượng tiền vào tài khoản vẫn hoạt động bình thường và trong trường hợp tiền trong tài khoản không đủ để khấu trừ thì rất có thể do có khoản tiền nào đó chuyển vào tài khoản nên người phải THA lại có thêm, có đủ tiền để THA. Vì thực tiễn đang chưa có sự đồng nhất về quan điểm nên để thống nhất trong hoạt động thi hành án thì trong thời gian tới chúng ta cần phải có văn bản hướng dẫn rõ ràng về vấn đề này. 2.2. Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự được quy định tại Điều 68 LTHADS 2014 và được hướng dẫn tại Điều 41Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 18 Nghị định 62/2015/NĐ-CP, theo đó hai biện pháp tạm giữ tài sản và tạm giữ giấy tờ có thể được CHV áp dụng một cách độc lập hoặc áp dụng đồng thời tùy theo từng trường hợp để đảm bảo hiệu quả của việc THADS. Tạm giữ tài sản của đương sự là biện pháp thường được tiến hành trên các động sản mà người phải THA đang quản lý, sử dụng dưới phương thức tạm giữ tài sản, đặt những động sản này trong tình trạng bị hạn chế quyền sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn người phải THA tẩu tán, định đoạt tài sản, trốn tránh việc THA††. Biện pháp này sau đó sẽ chuyển đổi thành biện pháp kê biên, bán đấu giá nếu người phải THA không tự nguyện THA và đã xác định được tài sản bị tạm giữ đó thuộc sở hữu của người phải THA. Ngoài ra, biện pháp tạm giữ tài sản mà người phải THA đang quản lý, sử dụng có thể được áp dụng trong trường hợp người phải THA phải thi hành nghĩa vụ trả vật. Trong trường hợp này, biện pháp tạm giữ tài sản là tiền đề cho việc cưỡng chế trả đồ vật cho người được THA. Tạm giữ giấy tờ của đương sự là biện pháp thường được tiến hành trên các động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản thông qua việc tạm giữ các giấy tờ liên quan đến động sản, bất động sản mà người phải THA đang quản lý, sử dụng‡‡. Biện pháp này là tiền đề, cơ sở cho việc thực hiện biện pháp cưỡng chế thu giữ giấy tờ có giá, kê biên quyền sở hữu trí tuệ, kê biên phương tiện giao thông, cưỡng chế †† Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột, Giáo trình Công tác THADS Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 194. ‡‡ Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột, tlđd chú thích 41, tr. 194 – 195. trả giấy tờ nếu xác định được các tài sản, giấy tờ bị tạm giữ thuộc sở hữu của người phải THA. Việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự được thể hiện bằng quyết định. Quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải xác định rõ loại tài sản, giấy tờ bị tạm giữ. CHV phải giao quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ cho đương sự hoặc tổ chức, cá nhân đang quản lý, sử dụng. Trường hợp cần tạm giữ ngay tài sản, giấy tờ mà chưa ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ thì CHV yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập biên bản về việc tạm giữ. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, CHV phải ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải ghi rõ tên người bị tạm giữ tài sản, giấy tờ; loại tài sản, giấy tờ bị tạm giữ; số lượng, khối lượng, kích thước và các đặc điểm khác của tài sản, giấy tờ bị tạm giữ. Tài sản tạm giữ là tiền mặt thì phải ghi rõ số lượng tờ, mệnh giá các loại tiền, nếu là ngoại tệ thì phải ghi là tiền nước nào và trong trường hợp cần thiết còn phải ghi cả số sê ri trên tiền.Tài sản tạm giữ là kim khí quý, đá quý phải niêm phong trước mặt người bị tạm giữ tài sản hoặc thân nhân của họ. Trường hợp người bị tạm giữ tài sản, giấy tờ hoặc thân nhân của họ không đồng ý chứng kiến việc niêm phong thì phải có mặt của người làm chứng. Trên niêm phong phải ghi rõ loại tài sản, số lượng, khối lượng và các đặc điểm khác của tài sản đã niêm phong, có chữ ký của CHV, người bị tạm giữ hoặc thân nhân của họ hoặc người làm 42 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion chứng. Việc niêm phong phải ghi vào biên bản tạm giữ tài sản. Trong thời hạn 10, kể từ ngày có có căn cứ xác định tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải THA ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế. Việc ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ cho người có quyền sở hữu, sử dụng được thực hiện trong trường hợp có căn cứ xác định, tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải THA hoặc thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải THA nhưng đã thực hiện xong nghĩa vụ của mình. Khi trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ, CHV yêu cầu người đến nhận xuất trình các giấy tờ chứng minh là người bị tạm giữ tài sản, giấy tờ hoặc là người được người đó ủy quyền. CHV yêu cầu người đến nhận kiểm tra về số lượng, khối lượng, kích thước và các đặc điểm khác của tài sản, giấy tờ bị tạm giữ dưới sự chứng kiến của thủ kho CQTHADS hoặc người được giao bảo quản. Đồng thời, việc trả lại tài sản, giấy tờ phải lập thành biên bản. Trường hợp trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ mà đương sự không nhận thì CQTHADS xử lý theo quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 126 LTHADS. Theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-CP, khi áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự chỉ áp dụng đến mức tương ứng với nghĩa vụ THA và các chi phí cần thiết. Các tài sản tạm giữ phải do đương sự quản lý, sử dụng, không nên áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản đối với các tài sản không được kê biên tại Điều 87 LTHADS§§. Do yêu cầu của mục §§ Điều 87 LTHADS 2014 đích ngăn chặn nên LTHADS 2014 không quy định bắt buộc phải xác định tài sản, giấy tờ bị tạm giữ thuộc quyền sở hữu của đương sự nên CHV có thể áp dụng ngay biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ. Thực tiễn áp dụng quy định về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ cho thấy đang tồn tại những hạn chế, khó khăn nhất định như: - Cơ chế đảm bảo cho việc bồi thường khi yêu cầu tạm giữ tài sản, giấy tờ không đúng gây thiệt hại cho người phải THA hoặc người thứ ba vẫn chưa được quy định.Mặc dù khoản 2 Điều 66 LTHADS 2014 có quy định người yêu cầu CHV áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình, trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường nhưng bồi thường như thế nào, hình thức bồi thường ra sao thì chưa có quy định cụ thể, vì vậy nhiều CHV đã không dám áp dụng “ngay” biện pháp tạm giữ tài sản khi đương sự có yêu cầu khi chưa tiến hành xác minh chính xác về chủ sở hữu tài sản bởi CHV lo thiệt hại xảy ra. Thực tế cũng cho thấy tất cả các đơn đề nghị áp dụng biện pháp tạm giữ trong thời gian qua của người yêu cầu áp dụng chỉ dừng lại ở việc “cam kết sẽ bồi thường”. - Trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ của các Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong việc thực hiện biện pháp bảo đảm này cũng chưa được quy định cụ thể, dẫn đến việc áp 43Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion dụng không thống nhất, ảnh hưởng đến quá trình áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ cũng như quá trình tổ chức THA. - Việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của người phải THA là phần vốn góp trong các tổ chức, doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn bởi CHV rất e ngại khi xử lý quyền tài sản này vì thường không nhận được đự đồng thuận từ phía các tổ chức, doanh nghiệp do việc xử lý phần vốn góp sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh đồng thời thay đổi điều lệ, cơ cấu nhân sự của tổ chức, doanh nghiệp. 2.3. Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản Biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản hiện nay được sửa đổi, bổ sung tại Điều 69 trong LTHADS 2014 và được hướng dẫn tại Điều 19 của Nghị định 62/2015/NĐ-CP. Theo đó, CHV có quyền quyết định áp dụng biện pháp này trong trường hợp cần ngăn chặn hoặc phát hiện đương sự có hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn tránh việc THA. Biện pháp này sẽ là tiền đề cho việc áp dụng các BPCCTHA như kê biên, xử lý tài sản của người phải THA; cưỡng chế trả vật, chuyển quyền sử dụng đất. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm này phải ra quyết định. Quyết định đó phải được gửi ngay cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để thực hiện. Kể từ thời điểm nhận được quyết định, cơ quan đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan không được thực hiện việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng hoặc thay đổi hiện trạng tài sản cho đến khi nhận được quyết định của CHV về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc chấm dứt tạm dừng việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải THA, CHV phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế theo quy định của LTHADS; trường hợp có căn cứ xác định tài sản không thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người phải THA thì CHV phải ra quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản cho thấy biện pháp này vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn bởi những hạn chế, khó khăn nhất định như: - Chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không thực hiện tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản chưa được quy định cụ thể. Nghị định 62/2015/ NĐ-CP quy định kể từ thời điểm nhận được quyết định về việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, cơ quan đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không được thực hiện việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng hoặc thay đổi hiện trạng tài sản cho đến khi nhận được quyết định của CHV về chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản nhưng cách thức xử lý ra sao lại chưa quy định. 44 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion - Cơ chế đảm bảo cho việc bồi thường thiệt hại xảy ra khi tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng không đúng cũng chưa được quy định cụ thể. Mặc dù khoản 2 Điều 66 LTHADS 2014 quy định việc yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba phải bồi thường nhưng chưa có cơ chế đảm bảo cho việc bồi thường xảy ra hay bồi thường như thế nào? Đây là một khó khăn cần phải có giải pháp khắc phục ngay. 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về các BĐTHADS Từ thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện đang bộc lộ những khó khăn, vướng mắc nên pháp luật về các BPBĐTHADS cần phải sửa đổi, bổ sung những vấn đề sau: Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung quy định về biện pháp phong tỏa, cụ thể là: - Cần phải có văn bản hướng dẫn rõ ràng về biện pháp phong tỏa tài khoản theo hướng phong tỏa cả chiều ra và chiều vào của tài khoản hay chỉ phong tỏa chiều ra của tài khoản. Theo tác giả để bảo đảm hiệu quả của thi hành án thì pháp luật chỉ cần quy định phong tỏa chiều ra của tài khoản. - Vì LTHADS năm 2014 đã bổ sung thêm biện pháp phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ vào Điều 67 nên để tương thích với Điều 66 trước đó thì cần bổ sung cụm từ “tài sản nơi gửi giữ” vào điểm a khoản 3 Điều 66. Như vậy Điều 66 LTHADS 2014 nên sửa đổi, bổ sung là: “3. Các BPBĐTHA bao gồm: a) Phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ; b) Tạm giữ tài sản, giấy tờ; c) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản”. Thứ hai, cần sửa đổi, bổ sung quy định về biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, cụ thể là: - Cần quy định bổ sung về cơ chế đảm bảo cho việc bồi thường khi yêu cầu tạm giữ tài sản, giấy tờ không đúng gây thiệt hại cho người phải THA hoặc người thứ ba. - Cần có quy định cụ thể hơn về trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ của các Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong việc thực hiện biện pháp bảo đảm tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự để việc áp dụng biện pháp này được thống nhất, thuận lợi cho việc áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ cũng như quá trình tổ chức THA. - Cần có hướng dẫn hợp lý về việc thi hành nghĩa vụ của người phải THA là phần vốn góp trong các tổ chức, doanh nghiệp để CHV không còn e ngại khi xử lý quyền tài sản này vì họ nhận được đự đồng thuận từ phía các tổ chức, doanh nghiệp do việc xử lý phần vốn góp Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về biện pháp tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản, cụ thể là: - Cần bổ sung quy định về chế tài đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không thực hiện tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. Đặc biệt là cần có quy định bổ sung về cách thức xử lý khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không được thực hiện việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử 45Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion dụng hoặc thay đổi hiện trạng tài sản cho đến khi nhận được quyết định của CHV về chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản. - Cần quy định bổ sung về cơ chế đảm bảo cho việc bồi thường thiệt hại xảy ra khi tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự không đúng. Mặc dù khoản 2 Điều 66 LTHADS 2014 quy định việc yêu cầu áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc người thứ ba phải bồi thường nhưng chưa có cơ chế đảm bảo cho việc bồi thường xảy ra hay bồi thường như thế nàothì chưa quy định rõ nên LTHADS 2014 cần bổ sung quy định về mức bồi thường, hình thức bồi thường, phương thức bồi thường đồng thời tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về các vấn đề nêu trên về bồi thường, song những nội dung đó không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Tài liệu tham khảo: 1. Luật thi hành án dân sự năm 2008 2. Luật thi hành án dân sự năm 2014. 3. Nghị định 62/2015/NĐ-CP 4. Nguyễn Hữu Đắc (Trưởng ban biên soạn,1999), Từ điển Luật học, Nxb.Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 5. Trần Anh Tuấn (2009), “Bản chất pháp lý của BPBĐTHADStheoLTHADS”, Nghiên cứu lập pháp, (16) 6. Lê Thu Hà, (chủ biên, 2010), Giáo trình Kỹ năng THADS, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 7. Vũ Chiến Hà (2011), “Những vướng mắc khi phong tỏa tài khoản để THA”, Dân chủ & Pháp luật, (Số chuyên đề về THADS 07) 8. Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột, Giáo trình Công tác THADS Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. Địa chỉ tác giả: Khoa Luật - Trường Đại học Mở Hà Nội Email: hangdt@hou.edu.vn
File đính kèm:
- hoan_thien_quy_dinh_cua_phap_luat_thi_hanh_an_dan_su_ve_cac.pdf