Hoàn thiện một số nội dung pháp luật về đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay

Việt Nam là quốc gia có đa dạng sinh học (ĐDSH) phong phú và độc đáo,

với nhiều hệ sinh thái và hàng nghìn loài động, thực vật quý, hiếm và nguy cấp. Tuy nhiên,

với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế xã hội cùng với sự quản lý tài nguyên sinh học còn

yếu kém đã làm cho ĐDSH bị suy giảm, suy thoái ngày càng nghiêm trọng. Vấn đề ĐDSH

hiện nay là đáng lo ngại, nhiều loài động, thực vật bị đe dọa và có nguy cơ tuyệt chủng mà

nguyên nhân chủ yếu là do con người sử dụng tài nguyên không hợp lý. Do đó, việc quản lý

đa dạng sinh học là thực sự cần thiết và cấp bách.

pdf 9 trang kimcuc 4040
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện một số nội dung pháp luật về đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện một số nội dung pháp luật về đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện một số nội dung pháp luật về đa dạng sinh học ở Việt Nam hiện nay
46 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
 HOÀN THIỆN MỘT SỐ NỘI DUNG PHÁP LUẬT
VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
COMPLETING A NUMBER OF LEGAL CONTENTS
ON THE BIODIVERSITY IN MY COUNTRY TODAY
Phạm Thị Hương Lan*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/03/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/9/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/9/2019
Tóm tắt: Việt Nam là quốc gia có đa dạng sinh học (ĐDSH) phong phú và độc đáo, 
với nhiều hệ sinh thái và hàng nghìn loài động, thực vật quý, hiếm và nguy cấp. Tuy nhiên, 
với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế xã hội cùng với sự quản lý tài nguyên sinh học còn 
yếu kém đã làm cho ĐDSH bị suy giảm, suy thoái ngày càng nghiêm trọng. Vấn đề ĐDSH 
hiện nay là đáng lo ngại, nhiều loài động, thực vật bị đe dọa và có nguy cơ tuyệt chủng mà 
nguyên nhân chủ yếu là do con người sử dụng tài nguyên không hợp lý. Do đó, việc quản lý 
đa dạng sinh học là thực sự cần thiết và cấp bách. 
Từ khóa: Đa dạng sinh học, quản lý, chính sách pháp luật, động, thực vật.
Abstract: Vietnam is a country with rich and unique biological diversity (biodiversity), 
with many ecosystems and thousands of rare and endangered species of fl ora and fauna. 
However, with the rapid development of the socio-economy together with the poor 
management of biological resources, the biodiversity has been reduced and increasingly 
serious. The current biodiversity problem is worrisome, many species of plants and animals 
are threatened and endangered, mainly caused by inappropriate use of human resources. 
Therefore, the management of biodiversity is really necessary and urgent.
Keywords: Biodiversity, management, policies, fl ora and fauna.
* Viện Nhà nước và Pháp luật
Tạp chí Khoa học - Viện Đại học Mở Hà Nội 58 (08/2019) 44-51
47Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
1. Đặt vấn đề
Đa dạng sinh học là sự phong phú 
về nguồn gen, về giống, loài sinh vật và hệ 
sinh thái trong tự nhiên†. Trong ĐDSH sự 
phong phú về loài bao gồm toàn bộ các sinh 
vật sống trên trái đất, từ vi khuẩn đến các 
loài thực, động vật và các loài nấm. Đa 
dạng sinh học bao gồm sự khác biệt về gen 
giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần 
thể sống cách ly nhau về địa lý cũng như 
khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống 
trong một quần thể. Đa dạng sinh học còn 
bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã 
mà trong đó các loài sinh sống và các hệ 
sinh thái, nơi mà các loài cũng như các quần 
xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của 
các mối tương tác giữa chúng với nhau. 
Theo Báo cáo Quốc gia ĐDSH năm 2011, 
Việ t Nam có khoảng 49.200 loài sinh vật đã 
được xác định, bao gồm: khoảng 7.500 loài/ 
chủng vi sinh vật; khoảng 13.766 loài thực 
vật trên cạn và dưới nước; khoảng 10.300 
loài động vật trên cạn; khoảng 2.000 loài 
động vật không xương sống và cá ở nước 
ngọt; dưới biển, có trên 11.000 loài sinh vật 
biển. Tuy nhiên, do con người và những thay 
đổi của khí hậu đã ảnh hưởng nghiêm trọng 
đến ĐDSH làm suy giảm, thậm trí nhiều loài 
có nguy cơ tiệt chủng. Báo cáo quốc gia về 
đa dạng sinh học (2005, 2011, 2014, 2015) 
cho thấy từ 1980 đến 2016 đa dạng sinh học 
ở nước ta bị suy thoái nghiêm trọng. Các 
hệ sinh thái bị ảnh hưởng và bị khai thác 
quá mức; diện tích rừng, đặc biệt là rừng tự 
nhiên, bị thu hẹp một cách đáng báo động. 
Tốc độ tuyệt chủng của một số loài đang 
† Khoản 5 Điều 3 Luật Đa dạng sinh học
ngày càng tăng. Các nguyên nhân chính gây 
suy giảm ĐDSH bao gồm: mất rừng, chia 
cắt phân mảnh rừng và thay đổi mục đích sử 
dụng đất, đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ 
tầng, khai thác gỗ rừng, đào ao nuôi trồng 
thủy sản; suy thoái hệ sinh thái từ khai thác 
quá mức như thu hái lâm sản ngoài gỗ tự 
nhiên, săn trộm và buôn bán động vật hoang 
dã, đánh bắt thủy sản quá mức; và ô nhiễm. 
2. Quan điểm, chính sách, pháp luật 
của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát 
triển bền vững đa dạng sinh học
Trước nguy cơ cạn kiệt, suy thoái 
ĐDSH Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI 
đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về 
“Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, 
tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ 
môi trường”. Quan điểm về bảo vệ môi 
trường được khẳng định “Môi trường là 
vấn đề toàn cầu. Bảo vệ môi trường vừa là 
mục tiêu vừa là một nội dung cơ bản của 
phát triển bền vững. Tăng cường bảo vệ môi 
trường phải theo phương châm ứng xử hài 
hòa với thiên nhiên, theo quy luật tự nhiên, 
phòng ngừa là chính; kết hợp kiểm soát, 
khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường, 
bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; 
lấy bảo vệ sức khỏe nhân dân làm mục tiêu 
hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án 
gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức 
khỏe cộng đồng”. Nhằm thực hiện mục tiêu 
đặt ra “bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh 
học” Nghị quyết đã giao nhiệm vụ cho các 
cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện các nội 
dung cụ thể: 1) Bảo vệ, phục hồi, tái sinh 
rừng tự nhiên, đẩy mạnh trồng rừng, nhất 
48 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
là rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển, 
rừng đầu nguồn. Ngăn chặn có hiệu quả nạn 
phá rừng, cháy rừng. Sớm dừng khai thác gỗ 
rừng tự nhiên; 2) Tăng cường quản lý, mở 
rộng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên 
hiện có tại những nơi có đủ điều kiện và đẩy 
nhanh việc thành lập các khu bảo tồn thiên 
nhiên mới. Ưu tiên nguồn lực cho bảo vệ 
cảnh quan, sinh thái, di sản thiên nhiên; 3) 
Bảo vệ nghiêm ngặt các loài động vật hoang 
dã, các giống cây trồng, cây dược liệu, vật 
nuôi có giá trị, loài quý hiếm có nguy cơ bị 
tuyệt chủng. Ngăn chặn sự xâm nhập, phát 
triển của sinh vật ngoại lai xâm hại; 4) Tăng 
cường quản lý rủi ro từ sinh vật biến đổi 
gen. Đây chính là quan điểm của Đảng về 
bảo vệ ĐDSH cho thấy Đảng ta rất quan tâm 
và chú trọng đến việc bảo tồn và phát triển 
bền vững ĐDSH. Quan điểm trong Nghị 
quyết cũng là kim chỉ nam để Nhà nước ban 
hành các chính sách, pháp luật bảo vệ môi 
trường nói chung và ĐDSH nói riêng. 
Tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: 
“Quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ 
môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu 
nhiều mặt còn hạn chế; pháp luật, chính sách 
thiếu đồng bộ; thanh tra, kiểm tra, giám sát, 
xử lý vi phạm chưa nghiêm (...). Tình trạng 
ô nhiễm môi trường chậm được cải thiện; ô 
nhiễm môi trường ở nhiều nơi còn nghiêm 
trọng, nhất là tại một số làng nghề, lưu 
vực sông; xử lý vi phạm môi trường chưa 
nghiêm. Ý thức bảo vệ môi trường của một 
bộ phận người dân và doanh nghiệp chưa 
cao. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên, nhất là hệ 
‡ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, 
tr258-259.
sinh thái rừng, đất ngập nước, thảm thực 
vật biển giảm cả về diện tích và chất lượng. 
Công tác bảo vệ rừng còn bất cập, tình trạng 
chặt phá và cháy rừng còn xảy ra. Nhiều loài 
sinh vật, nguồn gen quý đứng trước nguy cơ 
tuyệt chủng cao. Việc khắc phục hậu quả về 
ô nhiễm môi trường do chiến tranh để lại 
còn nhiều khó khăn... Sử dụng năng lượng 
tái tạo (điện sinh khối, điện gió, điện mặt 
trời,...) còn ít”‡. Như vậy, công tác quản lý 
nhà nước về tài nguyên nói chung và ĐDSH 
nói riêng có nhiều vướng mắc trong cả việc 
ban hành chính sách, pháp luật và cả việc 
thực hiện trong quá trình triển khai.
Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của 
Đảng Nhà nước ta đã ban hành khá nhiều 
các văn bản quy phạm pháp luật trong đó 
phải kể đến như: Luật Lâm nghiệp; Luật 
Đất đai; Luật Bảo vệ môi trường; Luật Tài 
nguyên nước; luật Thủy sản; Luật Đa dạng 
sinh học... Trong đó có Luật Đa dạng sinh 
học được đánh giá là rất tiến bộ, có tầm 
nhìn, hệ thống và tiếp cận đầy đủ các cam 
kết và chuẩn mực quốc tế về bảo tồn đa 
dạng sinh học. Đây là khung luật đầu tiên 
của Việt Nam quy định về bảo tồn và phát 
triển bền vững đa dạng sinh học; quyền và 
nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân 
trong bảo tồn và phát triển bền vững đa 
dạng sinh học.
Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ đã 
ban hành các văn bản chỉ đạo về bảo tồn 
ĐDSH như: Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 
8/1/2014 về Phê duyệ t quy hoạch tổng thể 
bảo tồn ĐDSH của cả nước đến năm 2020, 
49Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
định hướng đến năm 2030; Quyết định số 
1250/QĐ-TTg ngày 31/7/2013 phê duyệ t 
chiến lược quốc gia về ĐDSH đến năm 2020, 
tầm nhìn đến năm 2030...và các văn bản 
Nghị định, Thông tư hướng dẫn liên quan 
đến ĐDSH.
Nhằm giảm những nguy cơ, đe dọa 
đến cân bằng hệ sinh thái, bảo tồn ĐDSH 
được Đảng và Nhà nước ta đã và đang 
từ ng bước triển khai đồng bộ nhiều giải 
pháp, trong đó, đẩy mạnh công tác quản lý 
và hoàn thiệ n hành lang pháp lý bảo tồn 
ĐDSH được quan tâm đặ c biệ t.Trong thời 
gian qua Nhà nước đã ban hành khung pháp 
lý tương đối đầy đủ liên quan đến bảo tồn 
ĐDSH là cơ sở pháp lý để quản lý, bảo tồn 
và phát triển ĐDSH.
3. Một số nội dung pháp luật cần 
hoàn thiện trong quản lý đa dạng sinh học 
ở nước ta hiện nay
Thể chế các quan điểm, chính sách của 
Đảng Nhà nước ta đã bản hành các văn bản 
quan trọng để bảo vệ ĐDSH trong đó phải 
kể đến là Luật Đa dạng sinh học, Luật Lâm 
nghiệp, Luật Thủy sản... và các văn bản pháp 
lý hướng dẫn thi hành khác. 
Đa dạng sinh học là sự phong phú về 
gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự 
nhiên thuộc quản lý của nhiều Bộ ban ngành 
khác nhau và cả cộng đồng dân cư. Bộ Tài 
nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước 
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về đa 
dạng sinh học. Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và 
Phát triển nông thôn quản lý nhà nước và tổ 
§ Khoản 20 Điều 3 Luật Đa dạng sinh học
chức thực thi pháp luật về lâm nghiệp trong 
phạm vi cả nước. Bộ Nông nghiệp và phát 
triển nông thôn cũng là cơ quan đầu mối giúp 
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về 
thủy sản và có trách nhiệm quản lý nhà nước 
về hoạt động thủy sản trong phạm vi cả nước; 
xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy 
hoạch, kế hoạch, đề án về hoạt động thủy 
sản... Tuy nhiên, trong quá trình quản lý cần 
hoàn thiện một số quy định về Luật Đa dạng 
sinh học. Cụ thể: 
Việc phân loại loài nguy cấp, quý, hiếm 
được ưu tiên bảo vệ có sự khác nhau giữa 
Luật Đa dạng sinh học và các Luật khác
Trong quá trình quản lý đa dạng sinh 
học về phân loại loài giữa Luật Đa dạng sinh 
học và Luật Lâm nghiệp đưa ra tiêu chí và 
ban hành danh mục về loài nguy cấp, quý, 
hiếm được ưu tiên bảo vệ khác nhau nên việc 
thống nhất quản lý giữa Bộ Tài nguyên và 
môi trường với Bộ Nông nghiệp và phát triển 
nông thôn có nhiều khó khăn.
 Theo quy định của Luật Đa dạng sinh 
học thì loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu 
tiên bảo vệ là loài hoang dã, giống cây trồng, 
giống vật nuôi, vi sinh vật và nấm đặc hữu, 
có giá trị đặc biệt về khoa học, y tế, kinh tế, 
sinh thái, cảnh quan, môi trường hoặc văn 
hóa - lịch sử mà số lượng còn ít hoặc bị đe 
dọa tuyệt chủng§. Theo đó thì tiêu chí xác 
định loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, 
hiếm được ưu tiên bảo vệ phải đáp ứng yêu 
cầu sau: 
50 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Thứ nhất là số lượng cá thể còn ít hoặc 
đang bị đe dọa tuyệt chủng được xác định cụ 
thể như sau:
- Đối với loài động vật hoang dã, thực 
vật hoang đã được xác định là loài có số lượng 
cá thể còn ít hoặc bị đe dọa tuyệt chủng khi 
có một trong các điều kiện sau:
a) Suy giảm quần thể ít nhất 50% theo 
quan sát hoặc ước tính trong mười (10) năm 
gần nhất hoặc ba (03) thế hệ cuối tính đến 
thời điểm đánh giá; hoặc được dự báo suy 
giảm ít nhất 50% trong 10 năm hoặc ba (03) 
thế hệ tiếp theo tính từ thời điểm đánh giá;
b) Nơi cư trú hoặc phân bố ước tính 
dưới 500 km2 và quần thể bị chia cắt nghiêm 
trọng hoặc suy giảm liên tục về khu vực phân 
bố, nơi cư trú;
c) Quần thể loài ước tính dưới 2.500 
cá thể trưởng thành và có một trong các điều 
kiện: suy giảm liên tục theo quan sát hoặc 
ước tính số lượng cá thể từ 20% trở lên trong 
năm (05) năm gần nhất hoặc hai (02) thế hệ 
cuối tính đến thời điểm đánh giá; suy giảm 
liên tục số lượng cá thể trưởng thành, cấu 
trúc quần thể có dạng bị chia cắt và không có 
tiểu quần thể nào ước tính có trên 250 cá thể 
trưởng thành hoặc chỉ có một tiểu quần thể 
duy nhất;
d) Quần thể loài ước tính có dưới 250 
cá thể trưởng thành;
đ) Xác suất bị tuyệt chủng ngoài tự 
nhiên của loài từ 20% trở lên trong vòng 20 
năm tiếp theo hoặc năm (05) thế hệ tiếp theo 
tính từ thời điểm lập hồ sơ.
- Đối với giống cây trồng được xác 
định là giống có số lượng cá thể còn ít hoặc 
bị đe dọa tuyệt chủng khi có một trong các 
điều kiện sau:
a) Hệ số đa dạng nguồn gen của giống 
thấp hơn 0,25;
b) Tỷ lệ hộ trồng dưới 10% tổng số hộ 
trồng tại nơi xuất xứ;
c) Diện tích trồng dưới 0,5 héc ta đối 
với nhóm cây lương thực, thực phẩm; dưới 
0,3 héc ta đối với nhóm cây công nghiệp 
hàng năm; dưới 0,1 héc ta đối với nhóm 
cây rau, cây hoa; hoặc số lượng dưới 250 cá 
thể đối với nhóm cây công nghiệp lâu năm; 
dưới 500 cá thể đối với nhóm cây ăn quả, 
cây cảnh.
 - Đối với giống vật nuôi được xác định 
là giống có số lượng cá thể còn ít hoặc bị 
đe dọa tuyệt chủng khi số lượng con giống 
thuần chủng dưới 100 cá thể cái giống và 
dưới 05 cá thể đực giống, hoặc toàn bộ đàn 
có số lượng cá thể dưới 120.
- Đối với loài vi sinh vật, nấm được xác 
định là loài có số lượng còn ít hoặc bị đe dọa 
tuyệt chủng khi loài bị suy giảm quần thể ít 
nhất 50% trong thời gian mười (10) năm tính 
tới thời điểm đánh giá và đang sống trong 
môi trường bị hủy hoại nghiêm trọng.
Thứ hai là loài đặc hữu hoặc có một 
trong các giá trị đặc biệt về khoa học; y tế; 
kinh tế; sinh thái, cảnh quan, môi trường và 
văn hóa - lịch sử. Cụ thể bao gồm:
- Loài có giá trị đặc biệt về khoa học là 
loài mang nguồn gen quý, hiếm để bảo tồn và 
chọn tạo giống.
51Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
- Loài có giá trị đặc biệt về y tế là loài 
mang các hợp chất có hoạt tính sinh học 
quan trọng được sử dụng trực tiếp hoặc làm 
nguyên liệu điều chế các sản phẩm y dược.
- Loài có giá trị đặc biệt về kinh tế là 
loài có khả năng sinh lợi cao khi được thương 
mại hóa.
- Loài có giá trị đặc biệt về sinh thái, 
cảnh quan và môi trường là loài giữ vai trò 
quyết định trong việc duy trì sự cân bằng 
của các loài khác trong quần xã; hoặc có 
tính đại diện hay tính độc đáo của khu vực 
địa lý tự nhiên.
- Loài có giá trị đặc biệt về văn hóa - 
lịch sử là loài có quá trình gắn với lịch sử, 
truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán 
của cộng đồng dân cư¶. Các tiêu chí xác định 
loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm 
đưa ra cho thấy khá bao quát gồm cả trong 
nông nghiệp và lâm nghiệp.
Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn 
Luật Lâm nghiệp thì có sự phân chia theo 
danh mục các loài thực vật rừng, động vật 
rừng đang bị đe dọa tuyệt chủng và các loài 
thực vật rừng, động vật rừng chưa bị đe dọa 
tuyệt chủng nhưng có nguy cơ bị đe dọa**. 
Việc phân loại căn cứ theo loại “bị đe dọa 
tuyệt chủng” và “chưa bị đe dọa tuyệt chủng 
nhưng có nguy cơ bị đe dọa” mà không đưa 
¶ Nghị định số 160/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy đinh về tiêu chí xác 
định loài và chế độ quản lý loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
** Điều 4 Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Chính phủ quy định về quản 
lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn án quốc tế các loài 
động vật, thực vật hoang dã nguy cấp.
ra tiêu chí cụ thể thì rất khó thực hiện. Như 
vậy, việc phân chia và các tiêu chí xác định 
trong lĩnh vực lâm nghiệp không thống nhất 
với các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đa 
dạng sinh học dẫn đến khó khăn trong quản 
lý đa dạng sinh học giữa Bộ Tài nguyên và 
môi trường với Bộ Nông nghiệp và phát triển 
nông thôn. 
Việc phân loại loài nguy cấp, quý, 
hiếm được ưu tiên bảo vệ không thống nhất, 
có sự chồng chéo sẽ gây khó khăn trong việc 
áp dụng văn bản đối với các cơ quan thực thi 
khác như: cơ quan hải quan; các cơ quan có 
thẩm quyền tại cửa khẩu; các cơ quan thông 
tin đại chúng khi đưa tin, tuyên truyền về 
loài này.
Các quy định về quản lý loài 
ngoại lai xâm hại thiếu quy định cụ thể để 
thực hiện trên thực tiễn
Các quy định về loài ngoại lai xâm 
hại cũng đang có nhiều quy định bất cập, loài 
ngoại lai xâm hại được hiểu là loài lấn chiếm 
nơi sinh sống hoặc gây hại đối với các loài 
sinh vật bản địa, làm mất cân bằng sinh thái 
tại nơi chúng xuất hiện và phát triển ví dụ 
như: Tôm hùm đỏ, cây mai dương, ốc bươu 
vàng, cây trinh nữ móc...
Luật Đa dạng sinh học đã có những quy 
định về quản lý loài ngoại lai xâm hại, nhưng 
52 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
triển khai trong thực tế rất khó do chưa có sự 
thống nhất giữa hai Bộ Tài nguyên và Môi 
trường và Bộ Nông nghiệp phát triển nông 
thôn về trách nhiệm của các Bộ trong việc 
khảo nghiệm loài ngoại lai có nguy cơ xâm 
hại. Việc khảo nghiệm loài ngoại lai có nguy 
cơ xâm hại rất quan trọng nhưng trách nhiệm 
thực hiện lại không rõ ví dụ về ốc bươu vàng 
có thời gian chúng ta để nhập vào nước ta và 
nhân rộng ở phạm vi cả nước nếu chúng ta 
làm tốt việc khảo nghiệm thì sẽ không để xảy 
ra những tác hại không đáng có đối với sản 
xuất nông nghiệp trong cả thời gian dài.
Đối với hoạt động kiểm soát việc nuôi 
trồng loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại để 
ngăn ngừa và kiểm soát sự lây lan, giảm 
đến mức thấp nhất tác hại của chúng. Hoạt 
động kiểm soát do Bộ Tài nguyên và Môi 
trường chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp 
và Phát triển nông thôn, bộ, cơ quan ngang 
bộ có liên quan quy định việc khảo nghiệm 
và việc cấp phép nuôi trồng, phát triển loài 
ngoại lai. Tuy nhiên, hiện nay thiếu các văn 
bản hướng dẫn quy định về chức năng, nhiệm 
vụ cụ thể của Bộ Tài nguyên và môi trường 
cũng như Bộ Nông nghiệp và phát triển nông 
thôn trong việc kiểm soát việc nuôi trồng loài 
ngoại lai có nguy cơ xâm hại. Bộ Tài nguyên 
và môi trường với vai trò là cơ quan trường 
chủ trì phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn, bộ, cơ quan ngang bộ có liên 
quan nhưng cơ chế phối hợp thi hành chưa 
được quy định rõ nên việc triển khai trên thực 
tế còn nhiều bất cập. Ví dụ về việc kiểm soát 
Tôm hùm đỏ thời gian qua rất lúng túng vì 
trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các Bộ 
ban ngành chưa rõ ràng.
Hơn nữa, để hoạt động kiểm soát việc 
nuôi trồng loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại 
hiệu quả không thể không nói đến vai trò tham 
gia của cộng đồng dân cư, tổ chức trong việc 
phát hiện, ngăn ngừa và diệt trừ nhưng Luật 
Đa dạng sinh học lại thiếu các quy định cụ 
thể về vấn đề nay nên hầu như không khuyến 
khích được người dân thực hiện.
Việc thiếu nhân lực cơ quan trong 
cơ quan quản lý đa dạng sinh học dẫn đến 
quản lý chưa hiệu quả mong muốn nhưng 
việc kết hợp và phát huy vai trò của cộng 
đồng dân cư, tổ chức trong quản lý đa dạng 
sinh học cũng chưa được chú trọng
Trong công tác quản lý hiện nay năng 
lực quản lý về công tác đa dạng sinh học 
của các ngành còn yếu do thiếu nhân lực. 
Các tỉnh hiện nay có Sở tài nguyên và môi 
trường chịu trách nhiệm quản lý chung về 
quản lý đa dạng sinh học, Sở Nông nghiệp 
và phát triển nông thôn quản lý đa dạng sinh 
học liên quan đến lĩnh vực ngành như lâm 
nghiệp và thủy sản. Tuy nhiên, nhân lực 
quản lý còn rất ít biên chế chỉ có từ 2 đến 3 
người còn đến cấp xã thì vẫn kiêm nghiệm 
dẫn đến công tác quản lý đa dạng sinh học 
còn hạn chế do đó rất cần có sự tham gia 
của cộng đồng dân cư, tổ chức là rất cấp 
thiết. Thực tiễn người dân địa phương đã 
thực hiện quản lý và bảo tồn đa dạng sinh 
học qua nhiều thế kỷ và các tập quán truyền 
thống của các nhóm dân tộc thiểu số là rất 
quý đối với việc quản lý bảo tồn đa dạng 
sinh học. Hiện nay, Luật Đa dạng sinh học 
lại thiếu những quy định cụ thể để phát huy 
vai trò của cộng đồng dân cư, tổ chức. Việc 
53Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
quy định vai trò và trách nhiệm quản lý của 
công đồng dân cư, tổ chức trong bảo tồn đa 
dạng sinh học là công nhận cộng đồng thôn 
bản có thể được giao quản lý các loài động 
vật quý hiếm, các khu bảo tồn... 
4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện 
công tác quản lý đa dạng sinh học
Trước những bất cập nêu trên, hoàn 
thiện các quy định pháp lý tạo hành lang cho 
hoạt động quản lý bảo tồn đa dạng sinh học là 
cần thiết. Dưới đây là một số kiến nghị cụ thể:
Một là, trong thời gian tới cần quy 
định cụ thể về quản lý đa dạng sinh học giữa 
Bộ tài nguyên và môi trường với Bộ Nông 
nghiệp và phát triển nông thôn trong quản 
lý loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên 
bảo vệ. Trong các văn bản luật cần quy định 
thuộc thẩm quyền của Bộ Tài nguyên và môi 
trường và thẩm quyền quản lý của Bộ Nông 
nghiệp phát triển nông thôn trong việc ban 
hành tiêu chí và danh mục loài nguy cấp, 
quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. 
Hai là, việc phân loại loài của Bộ Tài 
nguyên và môi trường và Bộ Nông nghiệp 
và phát triển nông thông nên về loài nguy 
cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ cần coi 
Luật Đa dạng sinh học là văn bản luật gốc và 
các luật khác liên quan đến đa dạng sinh học 
phải tuân theo. Như vậy, Luật Lâm nghiệp 
quy định về vấn đề quản lý loài thuộc danh 
mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên 
bảo vệ thì cần căn cứ vào Luật Đa dạng sinh 
học, trường hợp danh mục thiếu thì có thể 
bổ sung trong trường hợp còn loài nguy cấp, 
quý, hiếm nào chưa nằm trong các Danh mục 
theo Luật Đa dạng sinh học. 
Ba là, cần tăng cường xây dựng và hoàn 
thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về ngăn 
ngừa và kiểm soát loài ngoại lai xâm hại. 
Cần quy định rõ cơ chế phối hợp giữa Bộ Tài 
nguyên và môi trường với các cơ quan liên 
quan như Bộ Nông nghiệp phát triển nông 
thôn; cơ quan hải quan, các tổ chức khác.
Bốn là, bổ sung các quy định cụ thể 
nhằm kết hợp và phát huy vai trò của cộng 
đồng dân cư, tổ chức trong quản lý đa dạng 
sinh học. Việc xây dựng, ban hành các chính 
sách khuyến khích mọi nguồn lực trong cộng 
đồng dân cư, tổ chức tham gia quản lý đa 
dạng sinh học cũng nhằm nâng cao nhận thức 
của cộng đồng về tầm quan trọng của đa dạng 
sinh học. Việc xây dựng các quy định pháp 
luật cần theo cộng đồng dân cư vừa trực tiếp 
tham gia quản lý nhưng đồng thời cũng được 
chia sẻ lợi ích, tăng nguồn thu từ khai thác 
giá trị đa dạng sinh học.
Việc thể chế đúng và đầy đủ theo quan 
điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước là một 
đòi hỏi cấp bách nhằm bảo vệ môi trường nói 
chung và đa dạng sinh học nói riêng ở nước 
ta hiện nay. Việc xây dựng các văn bản quy 
phạm pháp luật cần đảm bảo sự thống nhất 
và tính khả thi trong thực tiễn là yếu tố quan 
trọng. Để đạt được điều đó, cần phải rà soát 
lại các văn bản giữa các bộ, ngành về quản lý 
đa dạng sinh học nhằm đảm bảo tính hiệu quả 
trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo:
 1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
 2. Chiến lược quốc gia về ĐDSH đến năm 2020, 
tầm nhìn đến năm 2030.
54 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
 3. Luật Bảo vệ môi trường 2014 và các văn bản 
dưới luật kèm theo.
 4. Luật Đa dạng sinh học 2008 và các văn bản 
dưới luật kèm theo.
 5. Quyết định 218/QĐ-TTg ngày 07/02/2014 của 
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quản 
lý hệ thống rừng đặc dụng, khu bảo tồn biển, khu 
bảo tồn vùng nước nội địa Việt Nam đến năm 
2020, tầm nhìn đến năm 2030.
 6. Nghị định sô 160/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 
11 năm 2013 của Chính phủ về quy định tiêu chí 
xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc Danh 
mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
7. Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22 tháng 
01 năm 2019 của Chính phủ quy định về quản lý 
thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm 
và thực thi Công ước về buôn án quốc tế các loài 
động vật, thực vật hoang dã nguy cấp.
8. Quyết định số 1896/2012/QĐ-TTg ngày 17 
tháng 12 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ 
phê duyệt đề án ngăn ngừa và kiểm soát sinh vật 
ngoại lai xâm hại ở Việt Nam đến 2020
9. Thông tư liên tịch số 27/2013/TTLT-BTNMT-
BNNPTNT ngày 26 tháng 9 năm 2013 của Bộ 
Tài nguyên và Môi trường, Bộ NN-PTNT quy 
định tiêu chí xác định loài ngoại lai xâm hại và 
ban hành danh mục loài ngoại lai xâm hại
Địa chỉ tác giả: Viện Nhà nước và Pháp luật
Email: lanhlgvn@gmail.com

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_mot_so_noi_dung_phap_luat_ve_da_dang_sinh_hoc_o_v.pdf