Hoàn thiện các quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Sự ra đời Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã

góp phần nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy

phạm pháp luật ở nước ta. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành Luật

Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, đã xuất hiện một

số quy định gây vướng mắc, bất cập, cần tiếp tục nghiên cứu, làm

rõ và khắc phục.

pdf 7 trang kimcuc 4260
Bạn đang xem tài liệu "Hoàn thiện các quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hoàn thiện các quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Hoàn thiện các quy định của luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT 
BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
Tóm tắt: 
Sự ra đời Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã 
góp phần nâng cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy 
phạm pháp luật ở nước ta. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành Luật 
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, đã xuất hiện một 
số quy định gây vướng mắc, bất cập, cần tiếp tục nghiên cứu, làm 
rõ và khắc phục.
Nguyễn Đặng Phương Truyền*
* ThS. Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh
Abstract 
The enforcement of the Law on Promulgation of Legal Documents 
of 2015 has provided significant contribution to improvement of 
the quality of development and promulgation of legal documents. 
However, that the enforcement of the Law on Promulgation of 
Legal Documents of 2015 for a time has appeared a number of 
provisions providing obstacles and inadequacies, which need to be 
reviewed, clarified for further improvements
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quy phạm pháp luật, văn bản 
quy phạm pháp luật.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 06/09/2018
Biên tập : 20/09/2018
Duyệt bài : 25/09/2018
Article Infomation:
Keywords: normative regulations, legal 
documents 
Article History:
Received : 06 Sep. 2018
Edited : 20 Sep. 2018
Approved : 25 Sep. 2018
1. Một số bất cập, vướng mắc của các quy 
định trong Luật Ban hành văn bản quy 
phạm pháp luật năm 2015
Thứ nhất, về khái niệm văn bản quy 
phạm pháp luật và quy phạm pháp luật1
Khi định nghĩa về văn bản quy phạm 
pháp luật (VBQPPL), thông qua việc giải 
thích thuật ngữ “quy phạm pháp luật” Luật 
1 Xem thêm Tiếp tục trao đổi về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật của Nguyễn Đặng Phương Truyền đăng trên Tạp 
chí Nghiên cứu Lập pháp số 08 (288),04/2015. Tác giả cũng đã có những phân tích, kiến nghị và trao đổi về khái niệm 
VBQPPL.
Ban hành VBQPPL năm 2015 (Luật 2015) 
đã gián tiếp khẳng định chủ thể ban hành 
VBQPPL là người có thẩm quyền. Điều này 
khắc phục những hạn chế của các Luật trước 
đây khi định nghĩa về VBQPPL, chỉ khẳng 
định VBQPPL do các cơ quan nhà nước ban 
hành. Tuy nhiên, Luật 2015 vẫn quy định 
VBQPPL ban hành theo đúng “thẩm quyền, 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
22 Số 1(377) T1/2019
hình thức, trình tự, thủ tục”. Theo chúng tôi, 
khi nói về thẩm quyền ban hành VBQPPL 
thì đã bao gồm cả “hình thức” và “tên gọi” 
VBQPPL thông qua việc quy định “thẩm 
quyền hình thức” và “thẩm quyền nội dung” 
của VBQPPL. Theo cách hiểu này, thẩm 
quyền hình thức của VBQPPL đã chứa đựng 
“tên gọi VBQPPL”. Do đó, cách liệt kê ban 
hành theo “thẩm quyền, hình thức, trình tự, 
thủ tục” là chưa thật sự thỏa đáng khi định 
nghĩa về VBQPPL.
 Mặt khác, Luật 2015 giải thích quy 
phạm pháp luật “được áp dụng lặp đi lặp 
lại nhiều lần”. Theo chúng tôi, quy phạm 
pháp luật được áp dụng nhiều lần tức là sự 
áp dụng lặp đi lặp lại quy phạm pháp luật 
đó, do đó, chỉ cần nêu “được áp dụng nhiều 
lần” là đã bao hàm “lặp đi lặp lại”. Ngoài 
ra, chúng tôi cho rằng, không nhất thiết phải 
nêu quy phạm pháp luật “được Nhà nước 
bảo đảm thực hiện” vì chính điều này dẫn 
đến việc khẳng định “được Nhà nước bảo 
đảm thực hiện” là đặc điểm của VBQPPL. 
Bởi lẽ, bản chất của các văn bản quản lý nhà 
nước là do các chủ thể có thẩm quyền trong 
bộ máy nhà nước ban hành thì đương nhiên 
các văn bản này dù là VBQPPL hay văn bản 
hành chính không chứa quy phạm pháp luật 
vẫn phải được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Thứ hai, về việc xác định văn bản 
quản lý nhà nước là VBQPPL
Luật 2015 cùng với Nghị định số 
34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính 
phủ đã góp phần làm sáng tỏ các đặc điểm 
của VBQPPL, giúp các cơ quan, các chức 
danh nhà nước khi ban hành các văn bản 
quản lý nhà nước có cơ sở xác định những 
2 Ví dụ khoản 3, Điều 3 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP đã chỉ ra các trường hợp Nghị quyết của HĐND và Quyết định 
của UBND không phải là VBQPPL.
3 Ví dụ Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội của HĐND cấp huyện, cấp xã.
4 Xem Công văn số 4218/BTP-VĐCXDPL ngày 28/11/2016 của Bộ Tư pháp về việc trả lời một số quy định của Luật 
Ban hành VBQPPL năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP và Bản tổng hợp và trả lời kiến nghị tại Hội nghị sơ kết 
và giao ban công tác tư pháp khu vực phía Nam 6 tháng đầu năm 2017.
văn bản nào mình ban hành là VBQPPL 
những văn bản nào không phải là VBQPPL2.
Tuy nhiên, trên thực tế, chính quyền 
địa phương nhiều nơi vẫn còn lúng túng 
trong việc xác định các văn bản quản lý nhà 
nước do mình ban hành có phải là VBQPPL 
hay không3. Điều này xuất phát từ quy định 
của điểm l, khoản 3 Điều 3 Nghị định số 
34/2016/NĐ-CP quy định các Nghị quyết, 
Quyết định của HĐND và UBND không có 
nội dung quy định tại các Điều 27, 28, 29 
và 30 của Luật 2015 thì không được xem là 
VBQPPL. Trong khi đó Điều 30 Luật 2015 
quy định, HĐND cấp huyện, cấp xã ban 
hành Nghị quyết, UBND cấp huyện, cấp xã 
ban hành Quyết định để quy định những vấn 
đề được luật giao. Quy định này có nghĩa 
là chính quyền địa phương cấp huyện, cấp 
xã muốn ban hành VBQPPL thì vấn đề đó 
phải được giao trong luật của Quốc hội chứ 
không phải được giao trong văn bản khác 
(như nghị định, thông tư). Chính điều này 
gây ra khó khăn, lúng túng trong thực tiễn 
thực hiện. Vì vậy, một số địa phương đã có 
văn bản hỏi ý kiến Bộ Tư pháp về việc xác 
định văn bản của chính quyền địa phương 
như nghị quyết của HĐND công bố danh 
mục thu hồi đất, quy hoạch đất trồng lúa 
hoặc nghị quyết về phát triển kinh tế - xã 
hội của HĐND cấp huyện, cấp xã là văn bản 
hành chính hay VBQPPL. Tuy nhiên, Bộ 
Tư pháp chỉ khẳng định “để xác định nghị 
quyết này có phải là VBQPPL hay không thì 
cần phải đối chiếu nội dung cụ thể của nghị 
quyết với khái niệm VBQPPL và khái niệm 
quy phạm pháp luật tại Điều 2 và Điều 3 của 
Luật 2015”4. 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 1(377) T1/2019
Thứ ba, về hệ thống VBQPPL
Luật 2015 bổ sung thẩm quyền ban 
hành VBQPPL của chính quyền địa phương 
ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt để 
phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 
2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa 
phương năm 2015. Đồng thời, Luật 2015 đã 
bãi bỏ hình thức VBQPPL liên tịch giữa Ủy 
ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) hoặc 
Chính phủ với năm cơ quan trung ương của 
tổ chức chính trị - xã hội, chỉ giữ lại hình 
thức VBQPPL liên tịch giữa UBTVQH 
hoặc Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban 
trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Mặt 
khác, Luật cũng bãi bỏ hình thức chỉ thị của 
UBND các cấp. Điều này góp phần đảm bảo 
cho hệ thống VBQPPL ở nước ta thống nhất, 
gọn nhẹ hơn. 
Tuy nhiên, khoản 11 Điều 4 Luật 2015 
chỉ quy định “VBQPPL của chính quyền địa 
phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc 
biệt” mà không nói rõ VBQPPL này có hình 
thức (tên gọi) là gì. Căn cứ Điều 29 của Luật 
2015, “HĐND ở đơn vị hành chính - kinh tế 
đặc biệt ban hành nghị quyết, UBND ở đơn 
vị hành chính - kinh tế đặc biệt ban hành 
quyết định theo quy định của Luật này và 
các luật khác có liên quan”, có thể xác định 
HĐND, UBND ở đơn vị hành chính - kinh 
tế đặc biệt ban hành hình thức VBQPPL là 
nghị quyết và quyết định.
Thứ tư, về thời điểm VBQPPL có hiệu 
lực và trường hợp VBQPPL hết hiệu lực
Về thời điểm VBQPPL có hiệu lực: 
Luật 2015 quy định, “thời điểm có hiệu lực 
của toàn bộ hoặc một phần VBQPPL được 
quy định tại văn bản đó nhưng không sớm 
hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký 
ban hành đối với VBQPPL của cơ quan nhà 
5 Xem khoản 1, Điều 151 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
6 Trước đây, Luật Ban hành VBQPPL của HĐND, UBND năm 2004 quy định thời điểm có hiệu lực của VBQPPL của 
cấp xã không sớm hơn 05 ngày kể từ ngày HĐND thông qua hoặc Chủ tịch UBND ký ban hành.
7 Các chức danh nhà nước.
nước trung ương; không sớm hơn 10 ngày 
kể từ ngày ký ban hành đối với VBQPPL 
của HĐND; UBND cấp tỉnh; không sớm 
hơn 07 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với 
VBQPPL của HĐND, UBND cấp huyện và 
cấp xã”5. So với trước đây, Luật 2015 điều 
chỉnh thời điểm có hiệu lực của VBQPPL 
của chính quyền cấp xã là không sớm hơn 7 
ngày kể từ ngày ký ban hành (giống với cấp 
huyện)6.
Tuy nhiên, quy định nêu trên vẫn còn 
một số bất cập, vướng mắc cần được làm rõ. 
Trước hết, Luật quy định, “thời điểm có hiệu 
lực của toàn bộ hoặc một phần VBQPPL 
được quy định tại văn bản đó nhưng không 
sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc 
ký ban hành đối với VBQPPL của cơ quan 
nhà nước trung ương...”. Như vậy, Luật chỉ 
đề cập đến VBQPPL của “cơ quan nhà nước 
trung ương” mà không đề cập đến VBQPPL 
của người có thẩm quyền7 (Chủ tịch nước, 
Thủ tướng Chính phủ).
Mặt khác, trước đây, đối với VBQPPL 
của chính quyền địa phương, mốc thời gian 
để quy định thời điểm có hiệu lực là thời 
điểm HĐND thông qua (đối với nghị quyết 
hoặc thời điểm Chủ tịch UBND ký ban hành 
(đối với quyết định, chỉ thị). Quy định hiện 
nay của Luật 2015 không rõ ràng thời điểm 
có hiệu lực của các VBQPPL của chính 
quyền địa phương (không sớm hơn 10 hoặc 
7 ngày kể từ ngày ký ban hành) gây vướng 
mắc cho các địa phương trong thực tiễn thi 
hành. Do đó, Bộ Tư pháp phải giải thích mốc 
thời điểm này theo Luật 2015 được hiểu là 
thời điểm Chủ tịch HĐND ký chứng thực 
nghị quyết. Tuy nhiên, theo chúng tôi, thực 
tiễn cho thấy, mốc thời điểm này nên tính từ 
thời điểm HĐND thông qua Nghị quyết là 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 1(377) T1/2019
phù hợp hơn. Bởi lẽ, nghị quyết là VBQPPL 
thuộc thẩm quyền của HĐND thì phải chọn 
mốc có thời điểm có hiệu lực của VBQPPL 
của HĐND là “không sớm hơn kể từ ngày 
HĐND thông qua Nghị quyết” chứ không 
quy định thời điểm có hiệu lực của VBQPPL 
của HĐND “không sớm hơn kể từ ngày 
Chủ tịch HĐND ký chứng thực Nghị quyết”.
Luật 2015 dành một chương (Chương 
XII) quy định về ban hành VBQPPL theo 
trình tự, thủ tụ rút gọn8. Theo đó, Điều 146 
Luật 2015 quy định các trường hợp VBQPPL 
được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn: 
(1) Trường hợp khẩn cấp theo quy định của 
pháp luật về tình trạng khẩn cấp; trường hợp 
đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên 
tai, dịch bệnh, cháy, nổ; trường hợp cấp bách 
để giải quyết những vấn đề phát sinh trong 
thực tiễn theo quyết định của Quốc hội; (2) 
Trường hợp để ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc 
một phần của VBQPPL trong một thời hạn 
nhất định (3) Trường hợp cần sửa đổi ngay 
cho phù hợp với VBQPPL mới được ban 
hành. Mặc dù, so với Luật 2008, quy định 
này phù hợp hơn, nhưng theo chúng tôi, 
Luật 2015 vẫn chưa quy định đối với trường 
hợp bãi bỏ VBQPPL, bởi theo quy định, 
VBQPPL chỉ được bãi bỏ bằng VBQPPL. 
Do đó, trường hợp cần bãi bỏ VBQPPL thì 
VBQPPL ban hành để bãi bỏ VBQPPL nên 
được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn 
để VBQPPL bãi bỏ VBQPPL có hiệu lực thi 
hành ngay.
8 Xem Điều 146 - 149 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
9 Trên thực tế vấn đề này đang tạo ra sự không thống nhất và khó khăn trong thực hiện việc ngưng hiệu lực các Thông 
tư của các Bộ. Ví dụ như trường hợp Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư 53/2017/TT-BTNMT để ngưng 
hiệu lực khoản 5 Điều 6 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT về việc ghi đầy đủ tên thành viên hộ gia đình trên sổ đỏ. 
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 05/12/2017. Như vậy Thông tư có hiệu lực sau 1 ngày kể từ ngày ký. 
 Trường hợp Bộ Khoa học và Công nghệ lại hoàn toàn khác, ngày 25/5/2017 Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành 
Thông tư số 05/2017/TT-BKHCN ngưng hiệu lực một phần Thông tư số 13/2015/TT-BKHCN ngày 21/7/2015 về việc 
sửa đổi, bổ sung Thông tư số 23/2010/TT-BKHCN ngày 29/12/2010 hướng dẫn bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ. 
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15/7/2017. Có lẽ vì Luật Ban hành VBQPPL không quy định thẩm quyền ban hành 
VBQPPL theo trình tự rút gọn cho Bộ trưởng nên Bộ không quy định Thông tư để ngưng hiệu lực Thông tư số 13/2015/
TT-BKHCN có hiệu lực kể từ ngày ký mà Bộ phải quy định theo đúng Điều 151 Luật 2015.
Mặt khác, Điều 147 Luật 2015 trao 
thẩm quyền cho UBTVQH, Chủ tịch nước, 
Thủ tướng Chính phủ, Thường trực HĐND 
cấp tỉnh quyết định việc xây dựng, ban 
hành VBQPPL của mình theo trình tự, thủ 
tục rút gọn. Như vậy chỉ có các VBQPPL 
của UBTVQH, Chủ tịch nước, Thủ tướng 
Chính phủ, HĐND cấp tỉnh được ban hành 
theo trình tự, thủ tục rút gọn. Điều này dẫn 
đến việc các chủ thể khác như Bộ trưởng, 
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ không được 
ban hành VBQPPL theo trình tự, thủ tục rút 
gọn. Trên thực tế, phát sinh tình huống Bộ 
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ cần 
ban hành VBQPPL theo trình tự thủ tục rút 
gọn để “ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một 
phần của VBQPPL trong một thời hạn nhất 
định”. Các chủ thể này đã sử dụng hình thức 
ban hành thông tư để ngưng hiệu lực các quy 
định trong thông tư do chính mình ban hành 
và các Bộ đã có cách quy định rất khác nhau 
và không thống nhất9.
Về các trường hợp VBQPPL hết hiệu 
lực. Điều 154 Luật Ban hành VBQPPL năm 
2015 quy định bốn trường hợp VBQPPL 
hết hiệu lực: (1) Hết thời hạn có hiệu lực đã 
được quy định trong văn bản; (2) Được sửa 
đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng VBQPPL 
mới của chính cơ quan nhà nước đã ban 
hành văn bản đó; (3) Bị bãi bỏ bằng một văn 
bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; 
(4) VBQPPL hết hiệu lực thì VBQPPL quy 
định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng 
thời hết hiệu lực”. Trong số các trường hợp 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 1(377) T1/2019
nêu trên, trường hợp (2) VBQPPL hết hiệu 
lực khi “được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế 
bằng VBQPPL mới của chính cơ quan nhà 
nước đã ban hành văn bản đó”10 chưa đảm 
bảo tính thống nhất, vì trên thực tế, vẫn có 
thể VBQPPL được thay thế bằng VBQPPL 
không phải của chính cơ quan đó mà bằng 
VBQPPL của chủ thể có thẩm quyền như 
nghị định của Chính phủ thay thế quyết định 
của Thủ tướng Chính phủ, luật của Quốc hội 
thay thế pháp lệnh của UBTVQH 
Trường hợp (3) quy định VBQPPL hết 
hiệu lực khi “bị bãi bỏ bằng một văn bản của 
cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, nhưng 
thực tế vẫn xảy ra trường hợp VBQPPL hết 
hiệu lực khi bị người có thẩm quyền (chức 
danh nhà nước có thẩm quyền) bãi bỏ, ví dụ 
Thủ tướng có thẩm quyền bãi bỏ VBQPPL 
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang 
Bộ, Chủ tịch UBND cấp trên có thẩm 
quyền bãi bỏ VBQPPL của UBND cấp dưới 
trực tiếp11... 
Bên cạnh đó, trường hợp (4) quy định, 
“VBQPPL hết hiệu lực thì VBQPPL quy 
định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng 
thời hết hiệu lực” được bổ sung nhằm khẳng 
định các VBQPPL quy định chi tiết thi hành 
các VBQPPL hết hiệu lực thì cũng hết hiệu 
lực. Quy định này nhằm khắc phục tình trạng 
áp dụng các VBQPPL chi tiết khi VBQPPL 
được hướng dẫn chi tiết đã hết hiệu lực. Để 
thực hiện được quy định này, yêu cầu đặt 
ra là phải có ngay các VBQPPL mới hướng 
dẫn chi tiết thi hành. Tuy nhiên, thực trạng 
hiện nay cho thấy, “tình trạng nợ đọng văn 
bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành 
còn khá phổ biến”12. 
10 Khoản 2, Điều 154 Luật Ban hành VBQPPL năm 2015.
11 Xem Luật 2015, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP.
12 Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ 
Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến 
năm 2020.
13 Điều 156 của Luật 2015.
Thứ năm, về nguyên tắc áp dụng 
VBQPPL
Luật 2015 tiếp tục kế thừa các quy 
định về nguyên tắc áp dụng VBQPPL được 
quy định trong các Luật Ban hành VBQPPL 
trước đây và có sự bổ sung cho phù hợp13.. 
Đặc biệt Luật 2015 đã bổ sung nguyên tắc 
quan trọng, “việc áp dụng VBQPPL trong 
nước không được cản trở việc thực hiện điều 
ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam 
là thành viên. Trong trường hợp VBQPPL 
trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng 
hòa XHCN Việt Nam là thành viên có quy 
định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp 
dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ 
Hiến pháp”. Quy định này phù hợp với xu 
thế hội nhập quốc tế và tuân thủ cam kết của 
nước ta trong thực hiện các điều ước quốc 
tế, đồng thời cũng đảm bảo tính tối thượng 
của Hiến pháp quốc gia.
Luật 2015 quy định “Trong trường 
hợp các VBQPPL có quy định khác nhau về 
cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu 
lực pháp lý cao hơn” và “Trong trường hợp 
các VBQPPL do cùng một cơ quan ban hành 
có quy định khác nhau về cùng một vấn đề 
thì áp dụng quy định của VBQPPL ban hành 
sau”. Tuy nhiên, Luật 2015 chưa dự liệu hết 
các trường hợp phát sinh trong thực tế. Ví 
dụ, trường hợp hai thông tư do hai Bộ hoặc 
liên bộ ban hành nhưng lại có quy định khác 
nhau về một vấn đề. Ví dụ: Thông tư liên 
tịch số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 
03/09/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và 
Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, 
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản 
lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh 
tế, khu kinh tế cửa khẩu và Thông tư số 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 1(377) T1/2019
32/2014/TT-BLĐTBXH ngày 01/12/2014 
của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội 
hướng dẫn ủy quyền thực hiện một số nhiệm 
vụ quản lý nhà nước về lao động trong khu 
công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và 
khu công nghệ cao cùng quy định về việc 
Ban Quản lý Khu kinh tế nhận thông báo 
làm thêm giờ của doanh nghiệp trong khu 
công nghiệp, khu kinh tế nhưng quy định 
tổng số giờ làm thêm trong một năm ở hai 
văn bản lại khác nhau14. 
2. Một số kiến nghị 
Thứ nhất, hoàn thiện khái niệm 
VBQPPL 
Về khái niệm VBQPPL, chúng tôi cho 
rằng, “VBQPPL là văn bản do cơ quan nhà 
nước, chức danh nhà nước15 ban hành hoặc 
phối hợp ban hành theo Luật định16, trong đó 
có các quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt 
buộc chung, được áp dụng nhiều lần đối với 
mọi đối tượng hay một nhóm đối tượng, để 
điều chỉnh các quan hệ xã hội”17. 
Thứ hai, hoàn thiện quy định về hệ 
thống VBQPPL
Đối với VBQPPL của chính quyền 
địa phương, thay vì quy định: nghị quyết 
của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung 
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), nghị 
quyết của HĐND huyện, quận, thị xã, thành 
phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố 
trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung 
là cấp huyện), nghị quyết của HĐND xã, 
14 Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV quy định Ban Quản lý khu kinh tế nhận thông báo về việc tổ chức 
làm thêm từ 200 giờ đến 300 giờ trong một năm của doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế theo ủy quyền 
của Sở Lao động Thương binh và Xã hội. Thông tư 32/2014/TT-BLĐTBXH quy định Ban Quản lý Khu kinh tế nhận 
thông báo của doanh nghiệp trong khu công nghiệp việc tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm”.
15 Hoặc có thể sử dụng cụm từ “người có thẩm quyền” , “cá nhân có thẩm quyền”.
16 Hoặc có thể sử dụng cụm từ “theo quy định của pháp luật”.
17 Xem Bài viết “Một số ý kiến tiếp tục trao đổi về khái niệm VBQPPL”, Nguyễn Đặng Phương Truyền, Tạp chí Nghiên 
cứu Lập pháp, số 08 (288), tháng 4/2015.
18 Điều 59 Dự thảo Luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc quy định tổ chức 
chính quyền địa phương ở đặc khu gồm HĐND và UBND, xem Dự thảo 7, Dự thảo Luật trình cho ý kiến tại kỳ 
họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV, 
aspx?ItemID=1319&TabIndex=1&LanID=1513
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp 
xã), chỉ cần quy định “nghị quyết của HĐND 
các cấp”, đồng thời, thay vì quy định: quyết 
định của UBND cấp tỉnh, quyết định của 
UBND cấp huyện, quyết định của UBND 
cấp xã chỉ cần quy định: “quyết định của 
UBND các cấp”. 
Mặt khác, cần quy định rõ hình thức 
và thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính 
quyền địa phương ở đơn vị hành chính - 
kinh tế đặc biệt. Quy định này cần chú ý đến 
quy định của Luật Đơn vị hành chính - kinh 
tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú 
Quốc nếu Luật này được Quốc hội thông 
qua. Theo chúng tôi, nếu Quốc hội thông 
qua phương án chính quyền địa phương ở 
đây vẫn có HĐND và UBND18 thì ghép quy 
định thẩm quyền và hình thức VBQPPL 
vào chung quy định đối với HĐND, UBND 
các cấp. Theo đó quy định “nghị quyết của 
HĐND các cấp và HĐND ở đơn vị hành 
chính - kinh tế đặc biệt” và “quyết định của 
UBND các cấp và UBND ở đơn vị hành 
chính - kinh tế đặc biệt”.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về thời 
điểm VBQPPL có hiệu lực
Theo chúng tôi, cần quy định thống 
nhất mốc tính thời điểm có hiệu lực của 
VBQPPL của chính quyền địa phương 
“không sớm hơn... kể từ ngày VBQPPL 
được thông qua hoặc ký ban hành”. Để đảm 
bảo tính hệ thống, cần khẳng định cả thời 
điểm có hiệu lực của VBQPPL do các chức 
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 1(377) T1/2019
danh nhà nước ở trung ương ban hành. Đồng 
thời, cần bổ sung thời điểm có hiệu lực của 
VBQPPL của chính quyền địa phương ở 
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Do đó, 
chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 
1 Điều 152 Luật 2015 như sau:
“ Điều 151. Thời điểm có hiệu lực của 
VBQPPL
1. Thời điểm có hiệu lực của toàn bộ 
hoặc một phần của VBQPPL được quy định 
tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày 
kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối 
với VBQPPL của cơ quan nhà nước, chức 
danh nhà nước ở trung ương; không sớm hơn 
10 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban 
hành đối với VBQPPL của HĐND; UBND 
cấp tỉnh; không sớm hơn 07 ngày kể từ ngày 
thông qua hoặc ký ban hành đối với VBQPPL 
của HĐND, UBND cấp huyện, cấp xã và ở 
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về trường 
hợp VBQPPL hết hiệu lực
Chúng tôi kiến nghị sửa đổi, bổ sung 
Điều 154 Luật 2015 như sau:
“ Điều 154. Trường hợp VBQPPL hết 
hiệu lực
VBQPPL hết hiệu lực toàn bộ hoặc 
một phần trong các trường hợp sau đây:
1. Hết thời hạn có hiệu lực đã được 
quy định trong văn bản;
2. Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế 
bằng VBQPPL mới của cơ quan nhà nước, 
người có thẩm quyền;
3. Bị bãi bỏ bằng văn bản của cơ quan 
nhà nước, người có có thẩm quyền;
4. VBQPPL hết hiệu lực thì VBQPPL 
quy định chi tiết thi hành, văn bản đó cũng 
đồng thời hết hiệu lực.
19 Ví dụ, Luật Doanh nghiệp năm 2015 đã quy định áp dụng Luật Doanh nghiệp và các luật chuyên ngành: “Trường hợp 
luật chuyên ngành có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan 
của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của Luật đó”.
5. VBQPPL không còn đối tượng 
điều chỉnh”.
Thứ năm, hoàn thiện quy định liên 
quan đến ban hành VBQPPL theo trình tự 
thủ tục rút gọn
Chúng tôi kiến nghị sửa đổi Điều 
146 Luật 2015, bổ sung trường hợp bãi bỏ 
VBQPPL cũng là trường hợp VBQPPL 
được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn 
để VBQPPL này có hiệu lực thi hành ngay 
và VBQPPL bị bãi bỏ ngay sau khi bị bãi bỏ 
sẽ hết hiệu lực.
Bên cạnh đó, cần bổ sung thẩm quyền 
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang 
Bộ trong việc ban hành VBQPPL theo trình 
tự thủ tục rút gọn. 
Thứ sáu, bổ sung nguyên tắc áp dụng 
VBQPPL
Luật 2015 cần quy định việc áp 
dụng VBQPPL trong các trường hợp các 
VBQPPL sau đây quy định về cùng một vấn 
đề nhưng có quy định khác nhau: (1) Nghị 
quyết của UBTVQH và Nghị quyết liên tịch 
giữa UBTVQH với Đoàn Chủ tịch Ủy ban 
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; (2) 
Thông tư của Bộ trưởng và Thông tư của Bộ 
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ khác 
và với các Thông tư liên tịch. Bởi lẽ những 
trường hợp này rất khó xác định VBQPPL 
nào có hiệu lực pháp lý cao hơn và những 
trường hợp này cũng không phải là trường 
hợp VBQPPL do cùng một cơ quan ban hành 
mà Luật 2015 đã quy định. Do đó, chúng 
tôi cho rằng, cần xem xét, bổ sung nguyên 
tắc áp dụng VBQPPL trong Điều 146 Luật 
2015 theo hướng quy định ưu tiên áp dụng 
VBQPPL quy định về lĩnh vực đó (văn bản 
chuyên ngành). Đây là nguyên tắc mà nhiều 
VBQPPL hiện nay đã có quy định19■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 1(377) T1/2019

File đính kèm:

  • pdfhoan_thien_cac_quy_dinh_cua_luat_ban_hanh_van_ban_quy_pham_p.pdf