Hình phạt và biện pháp thi hành hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội ở Việt Nam

Hình phạt, đặc biệt là các biện pháp thi hành hình phạt đối với pháp nhân

thương mại phạm tội ở Việt Nam đến thời điểm này vẫn là vấn đề mới mẻ và

còn nhiều tranh cãi. Dự thảo Bộ luật thi hành án hình sự (dự kiến thông qua

vào tháng 6 năm 2019) đã qua nhiều lần thảo luận nhưng cho đến nay vẫn chưa

có sự thống nhất cao về các biện pháp và trình tự, cách thức thi hành hình phạt

đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Với những nghiên cứu bước đầu, bài

viết này xác định và bàn luận các đến các yếu tố sau đây: (1) Các hình phạt đối

với pháp nhân thương mại phạm tội; (2) Đối tượng pháp nhân thương mại nào

phải chấp hành hình phạt; (3) Chủ thể thi hành hình phạt đối với pháp nhân;

và (4) Hình thức và biện pháp thi hành hình phạt đối với pháp nhân thương

mại phạm tội.

pdf 10 trang kimcuc 2440
Bạn đang xem tài liệu "Hình phạt và biện pháp thi hành hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hình phạt và biện pháp thi hành hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội ở Việt Nam

Hình phạt và biện pháp thi hành hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội ở Việt Nam
11Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Đinh Thị Mai
Vấn đề vướng mắc và khó khăn nhất về cả lý luận và thực tiễn trong chính sách thi hành án hình sự đối 
với pháp nhân thương mại phạm tội đó là 
đặc điểm của chủ thể bị thi hành án hình 
sự (là pháp nhân thương mại) khác biệt cơ 
bản với chủ thể bị thi hành án là cá nhân 
(con người cụ thể). Bên cạnh đó, các hình 
phạt được áp dụng với pháp nhân cũng 
khác hẳn về bản chất, trình tự, thủ tục và 
cách thức tiến hành so với cá nhân. Đối với 
người phạm tội là cá nhân, các hình phạt sẽ 
do cơ quan thi hành án áp dụng và cưỡng 
chế thi hành (ví dụ: áp dụng hình phạt tù 
chung thân, tù có thời hạn hay cấm đảm 
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm 
công việc nhất định, trục xuất v.v...). Đối 
với pháp nhân phạm tội, về nguyên tắc, 
các hình phạt cũng do cơ quan thi hành án 
HÌNH PHẠT VÀ BIỆN PHÁP THI HÀNH HÌNH PHẠT 
ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI PHẠM TỘI Ở VIỆT NAM
Đinh Thị Mai*
* Tiến sĩ, Phó trưởng khoa, Khoa Luật – Học viện 
Khoa học xã hội
Hình phạt, đặc biệt là các biện pháp thi hành hình phạt đối với pháp nhân 
thương mại phạm tội ở Việt Nam đến thời điểm này vẫn là vấn đề mới mẻ và 
còn nhiều tranh cãi. Dự thảo Bộ luật thi hành án hình sự (dự kiến thông qua 
vào tháng 6 năm 2019) đã qua nhiều lần thảo luận nhưng cho đến nay vẫn chưa 
có sự thống nhất cao về các biện pháp và trình tự, cách thức thi hành hình phạt 
đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Với những nghiên cứu bước đầu, bài 
viết này xác định và bàn luận các đến các yếu tố sau đây: (1) Các hình phạt đối 
với pháp nhân thương mại phạm tội; (2) Đối tượng pháp nhân thương mại nào 
phải chấp hành hình phạt; (3) Chủ thể thi hành hình phạt đối với pháp nhân; 
và (4) Hình thức và biện pháp thi hành hình phạt đối với pháp nhân thương 
mại phạm tội.
Từ khóa: Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi); pháp nhân thương mại; hình phạt 
đối với pháp nhân; đối tượng, chủ thể; hình thức, biện pháp thi hành hình phạt. 
Penalties, especially measures to implement penalties for corporate legal 
entities committing crimes in Vietnam has been new and controversial issues. 
The Draft of Law on execution of criminal judgments (expect to pass in June, 
2019) has been disussed many times; however, measures, procedures and how 
to implement penalties for corporate legal entities committing crimes have 
not totally unified yet. With the initial studying, the paper identifies and 
exchanges about following factors: (1) Penalties applied for corporate legal 
entities committing crimes; (2) Which corporate legal entities have to serve 
penalties; (3) Subjects implement penalties for legal entities; and (4) Forms and 
measures to implement penalties for corporate legal entities committing crimes.
Keywords: Law on execution of criminal judgments (amended); corporate 
legal entities; penalties for legal entities; subjects, forms and measures to 
implement penalties.
12
HìnH pHạt và biện pHáp tHi HànH HìnH pHạt đối với pHáp nHân... 
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
áp dụng và cưỡng chế thi hành. Tuy nhiên, 
để áp dụng hình phạt (ví dụ: hình phạt 
cấm kinh doanh, cấm huy động vốn hay 
đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, hoặc đình 
chỉ hoạt động có thời hạn trong một số lĩnh 
vực) đối với pháp nhân thương mại thì ai 
là người có thẩm quyền và nghĩa vụ thực 
thi các hình phạt này, cấm/đình chỉ hoạt 
động bằng biện pháp gì, trình tự thủ tục ra 
sao? Không thể cấm và đình chỉ hoạt động 
của pháp nhân bằng biện pháp có tính chất 
vật lý như biện pháp “đưa vào cơ sở giam 
giữ” như khi áp dụng hình phạt tù có thời 
hạn đối với cá nhân phạm tội được.
Như vậy, trong nghiên cứu về pháp 
nhân thương mại phạm tội ở Việt Nam 
hiện nay, đặt ra vấn đề cần nghiên cứu 
về các loại hình phạt và đặc biệt là ai, chủ 
thể nào có trách nhiệm thi hành hình phạt 
này, thi hành bằng biện pháp gì? Đây cũng 
chính là các vấn đề gây nhiều tranh luận 
nhất trong quá trình thảo luận và chỉnh 
lý dự thảo Luật Thi hành án hình sự (sửa 
đổi) dự kiến sẽ thông qua vào kỳ họp thứ 
7, Quốc hội Khóa XIV (tháng 6/2019).
Với những nghiên cứu bước đầu, 
chúng tôi phân tích và bước đầu đưa ra 
một số nhận định, đánh giá như sau:
1. Các hình phạt đối với pháp nhân 
thương mại phạm tội
Hình phạt là yếu tố ảnh hưởng lớn 
nhất tới chủ thể, biện pháp và cách thức 
tổ chức thi hành án hình sự. Vì vậy, cách 
tiếp cận của chúng tôi là nghiên cứu xuất 
phát từ các loại hình phạt được quy định 
có thể áp dụng cho pháp nhân thương mại 
phạm tội để đề xuất các lựa chọn chủ thể 
và cách thức, biện pháp áp dụng, thi hành 
các loại hình phạt đó một cách hiệu quả 
trên thực tế.
Theo quy định của BLHS năm 2015, 
các hình phạt đối với pháp nhân thương 
mại phạm tội bao gồm: 
- Bốn hình phạt chính, gồm: 
+ Phạt tiền (Điều 77), 
+ Đình chỉ hoạt động có thời hạn trong 
một hoặc một số lĩnh vực (Điều 78), 
+ Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn 
trong một hoặc một số lĩnh vực (Điều 79 
Khoản 1), 
+ Đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động 
(Điều 79 Khoản 2).
- Ba hình phạt bổ sung, gồm: 
+ Cấm kinh doanh, cấm hoạt động 
trong một số lĩnh vực (Điều 80)
+ Cấm huy động vốn dưới các hình 
thức: a) Cấm vay vốn của tổ chức tín dụng, 
chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc quỹ 
đầu tư; b) Cấm phát hành, chào bán chứng 
khoán; c) Cấm huy động vốn khách hàng; 
d) Cấm liên doanh, liên kết trong và ngoài 
nước; đ) Cấm hình thành quỹ tín thác bất 
động sản (Điều 81).
+ Phạt tiền (khi không áp dụng là hình 
phạt chính)
- Bốn biện pháp tư pháp, gồm:
+ Tịch thu tang vật, tiền trực tiếp liên 
quan đến tội phạm (Điều 82, Khoản 1);
+ Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi 
thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi 
(Điều 82, Khoản 1, Điểm a);
+ Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu 
(Điều 82, Khoản 1, Điểm b)
+ Buộc thực hiện một số biện pháp 
nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp 
tục xảy ra (Điều 82, Khoản 1, Điểm c).
13Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Đinh Thị Mai
Như vậy, ngoài hình phạt tiền thì các 
hình phạt chính và hình phạt bổ sung được 
áp dụng đối với pháp nhân thương mại 
đều có tính chất chung là hạn chế quyền 
thực hiện một hoặc một số, hoặc tất cả các 
hoạt động của doanh nghiệp.
Đối với hình phạt tiền, trình tự, thủ 
tục thi hành hình phạt tiền do cơ quan thi 
hành án dân sự ra quyết định thi hành theo 
quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Còn lại ba hình phạt chính và ba hình 
phạt bổ sung như trên đã phân tích đều có 
chung tính chất là liên quan đến việc giám 
sát hoặc tác động “cấm”, “đình chỉ” một, 
một số hoặc tất cả các hoạt động hoặc các 
lĩnh vực của pháp nhân thương mại.
2. Đối tượng pháp nhân thương mại 
nào phải chấp hành hình phạt
Pháp nhân thương mại chỉ bị truy cứu 
trách nhiệm hình sự và bị áp dụng hình 
phạt khi thỏa mãn đầy đủ các căn cứ sau:
2.1. Thỏa mãn yếu tố về chủ thể
Không phải mọi pháp nhân đều phải 
chịu trách nhiệm hình sự, chỉ có những 
pháp nhân thương mại được thành lập và 
hoạt động thỏa mãn các điều kiện sau đây1 
mới thỏa mãn yếu tố về chủ thể: 
- Được thành lập theo quy định của Bộ 
luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp hoặc các 
luật khác có liên quan; 
- Có cơ quan điều hành, có điều lệ hoạt 
động rõ ràng và hợp pháp, có con dấu riêng 
do người đại diện quản lý và sử dụng;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp 
nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài 
sản của mình;
1 Theo quy định tại Điều 75, Bộ luật dân sự năm 2015.
- Nhân danh mình tham gia quan hệ 
pháp luật một cách độc lập.
Những pháp nhân có thực hiện hoạt 
động thương mại (như cơ quan nhà nước, 
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã 
hội,) nhưng không có mục tiêu chính là 
tìm kiếm lợi nhuân, lợi nhuận nếu có cũng 
không được phân chia cho các thành viên, 
thì không phải là chủ thể của trách nhiệm 
hình sự. 
Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 
2 Điều 75 của Bộ luật Dân sự năm 2015 
thì: “1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân 
có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi 
nhuận được chia cho các thành viên. 2. Pháp 
nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các 
tổ chức kinh tế khác”2. 
Như vậy, chỉ những loại hình pháp 
nhân cụ thể sau đây mới phải chịu trách 
nhiệm hình sự và thi hành hình phạt (nếu 
có), bao gồm: (1) doanh nghiệp và (2) các tổ 
chức kinh tế khác có mục tiêu là tìm kiếm 
lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các 
thành viên.
- Pháp nhân thương mại là doanh 
nghiệp
Theo quy định của pháp luật Việt 
Nam hiện hành, các chủ thể được coi là 
doanh nghiệp phải thỏa mãn các điều kiện 
là doanh nghiệp được quy định trong Bộ 
luật Dân sự năm 2015, Luật Đầu tư năm 
2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật 
Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật Các 
tổ chức tín dụng năm 2010, Luật Chứng 
khoán năm 2006. 
Theo đó, các doanh nghiệp này bao gồm:
2 Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015.
14
HìnH pHạt và biện pHáp tHi HànH HìnH pHạt đối với pHáp nHân... 
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
- Các công ty, doanh nghiệp, gồm: Công 
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; 
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành 
viên trở lên; Công ty cổ phần, Công ty 
hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân, Doanh 
nghiệp nhà nước.
- Các tổ chức hoạt động kinh doanh, bảo 
hiểm, gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm, Doanh 
nghiệp môi giới bảo hiểm, Doanh nghiệp 
môi giới bảo hiểm nước ngoài được phép 
hoạt động tại Việt Nam (gồm: Công ty trách 
nhiệm hữu hạn bảo hiểm, Công ty trách nhiệm 
hữu hạn môi giới bảo hiểm, Chi nhánh doanh 
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài)
- Các tổ chức tín dụng ngân hàng, gồm: 
Ngân hàng thương mại (bao gồm cả ngân 
hàng liên doanh và ngân hàng 100% vốn 
nước ngoài); Ngân hàng thương mại 
trong nước được thành lập, tổ chức dưới 
hình thức công ty cổ phần (trừ Ngân hàng 
thương mại nhà nước được thành lập, tổ 
chức dưới hình thức công ty trách nhiệm 
hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở 
hữu 100% vốn điều lệ), Ngân hàng thương 
mại nhà nước được thành lập, tổ chức 
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu 
hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 
100% vốn điều lệ.
- Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, 
gồm: Công ty tài chính (bao gồm cả công ty 
tài chính trong nước, công ty tài chính liên 
doanh và công ty tài chính 100% vốn nước 
ngoài, Công ty cho thuê tài chính (bao gồm 
cả công ty cho thuê tài chính trong nước, 
công ty cho thuê tài chính liên doanh và 
công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước 
ngoài; Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng 
khác (bao gồm cả các tổ chức tín dụng phi 
ngân hàng khác trong nước, các tổ chức tín 
dụng phi ngân hàng khác liên doanh và 
các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác 
100% vốn nước ngoài).
- Các pháp nhân thực hiện kinh doanh 
chứng khoán, gồm: Công ty chứng khoán 
(bao gồm cả công ty chứng khoán không 
có vốn đầu tư nước ngoài và công ty chứng 
khoán có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt 
Nam); Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng 
khoán (bao gồm cả công ty quản lý quỹ 
đầu tư chứng khoán không có vốn đầu tư 
nước ngoài và công ty quản lý quỹ có vốn 
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam), Công ty 
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán (gọi là 
công ty quản lý quỹ), Công ty đại chúng, 
Công ty đầu tư chứng khoán, Sở giao dịch 
chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng 
khoán, Ngân hàng giám sát.
- Pháp nhân thương mại là các tổ chức 
kinh tế khác
Pháp nhân là các tổ chức kinh tế khác có 
mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận 
được chia cho các thành viên theo chúng 
tôi bao gồm 5 loại hình sau: Hộ kinh doanh; 
Hợp tác xã; Liên hiệp hợp tác xã; Đơn vị sự 
nghiệp công lập có mục tiêu chính là tìm 
kiếm lợi nhuận; Tổ chức khác có hoạt động 
sản xuất, kinh doanh có thu nhập.
Đến nay, theo báo cáo của Vụ pháp chế 
- Bộ công thương tại Ủy ban tư pháp của 
Quốc hội: “Tính đến thời điểm 01/01/2017 
cả nước có gần 5,9 triệu đơn vị kinh tế, hành 
chính, sự nghiệp, mỗi năm tăng bình quân 
2,6%. Số lượng lao động trong các đơn vị là 
26,9 triệu người. Trong đó, doanh nghiệp 
là khu vực dẫn đầu về mức tăng số lượng 
và thu hút lao động với 518 nghìn doanh 
nghiệp thực tế đang tồn tại. Khối doanh 
nghiệp thu hút 14,1 triệu lao động, bình 
15Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Đinh Thị Mai
quân hàng năm số lượng doanh nghiệp 
tăng 8,7%. Cả nước có 13,56 nghìn hợp tác 
xã, thu hút 206,6 nghìn lao động. Số lượng 
các Hợp tác xã thuộc ngành nông nghiệp, 
lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỉ trọng 51%, 
công nghiệp và xây dựng chiếm 19,5%, 
dịch vụ chiếm 29,5%. Số lượng cơ sở sản 
xuất kinh doanh cá thể là 5,1 triệu, thu hút 
8,7 triệu lao động”3.
2.2. Thỏa mãn yếu tố về hành vi 
phạm tội
Hành vi do pháp nhân thương mại 
thực hiện phải thỏa mãn: gây nguy hiểm 
cho xã hội, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa 
gây ra thiệt hại cho các mối quan hệ xã hội 
được luật hình sự bảo vệ. 
- Những hành vi nguy hiểm đó phải 
được quy định là tội phạm, bao gồm 33 tội 
danh được liệt kê trong tại Điều 76 BLHS 
năm 2015.
- Hành vi phạm tội được thực hiện 
nhân danh pháp nhân thương mại;
- Hành vi phạm tội được thực hiện vì 
lợi ích của pháp nhân thương mại, tức là 
hành vi của chủ thể hướng tới mục đích 
nhất định của pháp nhân, bao gồm lợi ích 
về tài chính, vật chất, kinh tế Trường 
hợp tội phạm được thực hiện bởi người 
đại diện hợp pháp của pháp nhân nhưng 
không nhằm mang lại một lợi ích cho 
pháp nhân thì pháp nhân không phải chịu 
TNHS;
- Hành vi phạm tội được thực hiện có 
sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của 
pháp nhân thương mại.
3 Ngô Đức Minh, của Vụ pháp chế - Bộ công 
thương tại Ủy ban tư pháp của Quốc hội – Báo cáo 
tại Phiên tọa đàm về thi hành án hình sự đối với 
pháp nhân thương mại” ngày 28/2-01/3/2019.
2.3. Thỏa mãn yếu tố về lỗi
Lỗi của pháp nhân thương mại trong 
việc thực hiện tội phạm phải là lỗi cố ý 
hoặc vô ý thực hiện hành vi trái pháp luật 
hình sự, dựa trên nhận thức và ý chí của 
chủ thể thực hiện hành vi đó.
2.4. Thỏa mãn yếu tố về thời hiệu
Chưa hết thời hiệu truy cứu trách 
nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2 và 
Khoản 3 Điều 27 của BLHS năm 2015.
3. Chủ thể thi hành hình phạt đối với 
pháp nhân 
Cần xác định được ai, cơ quan nào có 
thẩm quyền, nghĩa vụ và có thể thực hiện 
được các hình phạt đối với pháp nhân thương 
mại phạm tội?
Như đã phân tích ở trên, pháp nhân 
là đối tượng của thi hành án hình sự gồm 
hai nhóm chính: Pháp nhân thương mại 
là doanh nghiệp và Pháp nhân thương 
mại là các tổ chức kinh tế khác4. Xét theo 
tính chất của các hoạt động giao dịch của 
pháp nhân, có thể phân loại hoạt động của 
pháp nhân thành ba nhóm chính, bao gồm: 
nhóm “hoạt động tự thân”, nhóm “hoạt 
động với chủ thể công” và nhóm “hoạt 
động với chủ thể tư”5.
Để xác định chủ thể và trình tự thủ 
tục thi hành án hình sự đối với pháp nhân 
thương mại phạm tội, hoàn toàn có thể dựa 
vào 2 cách phân loại trên. Hoặc xác định 
cách thức thi hành theo các loại hình phạt.
Tuy nhiên, để xác định cơ quan nào là 
cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm, 
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong thi 
4 Xem mục 1.1 và 1.2 của bài viết này.
5 Xem mục 3. của bài viết này.
16
HìnH pHạt và biện pHáp tHi HànH HìnH pHạt đối với pHáp nHân... 
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
hành án hình sự đối với pháp nhân thương 
mại phạm tội cũng như đề xuất trình tự, 
thủ tục thi hành án phù hợp với từng chủ 
thể thi hành, theo nghiên ... ủ tục hành chính (chỉ cần đăng ký doanh 
nghiệp là có thể hoạt động)
Các pháp nhân thương mại được 
kinh doanh tất cả những ngành, nghề mà 
pháp luật không cấm (quyền tự do kinh 
doanh). Đối với loại pháp nhân thương 
mại này, công tác theo dõi, giám sát, bảo 
đảm thi hành án thuộc thẩm quyền chính 
của các cơ quan quản lý doanh nghiệp là 
cơ quan đăng ký kinh doanh các cấp và 
cơ quan thuế.
Như vậy, cơ quan quản lý nhà nước 
trong thi hành án hình sự đối với pháp 
nhân kinh doanh các ngành, nghề không 
yêu cầu điều kiện kinh doanh, thủ tục 
hành chính là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Sở 
Kế hoạch và Đầu tư (các cấp) và Cục thuế.
Hiện nay, cơ chế phối hợp liên thông 
điện tử tự động giữa các cơ quan đăng ký 
kinh doanh và cơ quan thuế thông qua quy 
trình tạo và sử dụng mã số doanh nghiệp. 
Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối công khai 
thông tin doanh nghiệp, đơn vị trực thuộc 
của doanh nghiệp có hành vi vi phạm pháp 
luật về doanh nghiệp và đầu tư. Cục thuế 
công khai danh sách các doanh nghiệp, 
đơn vị trực thuộc của doanh nghiệp trên 
địa bàn có vi phạm pháp luật về thuế. Hình 
thức công khai thông tin về xử lý doanh 
nghiệp phạm tội của từng cơ quan được 
thực hiện trên Cổng thông tin điện tử của 
mỗi ngành theo quy trình công khai thông 
tin điện tử riêng của từng cơ quan.
- Nhóm 2: Pháp nhân thuộc các ngành, 
nghề thuộc kinh doanh có điều kiện
Đối với các ngành, nghề thuộc kinh 
doanh có điều kiện (gồm 243 ngành, nghề 
theo quy định của Luật đầu tư6) thì các 
pháp nhân muốn hoạt động cần phải có 
giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, 
hoặc giấy phép hoạt động (gọi là tiền kiểm).
Cơ quan quản lý nhà nước trong thi 
hành án hình sự đối với pháp nhân kinh 
doanh các ngành, nghề có điều kiện là cơ 
quan quản lý nhà nước được giao chủ trì về 
quản lý nhà nước đối với ngành, nghề đầu 
tư, kinh doanh có điều kiện, tức chính là cơ 
quan nhà nước trực tiếp thực hiện thủ tục 
hành chính (tiền kiểm) theo quy định của 
pháp luật. (Cơ quan có thẩm quyền cấp, 
thu hồi, sửa đổi giấy chứng nhận đủ điều 
kiện (hoặc giấy tờ có giá trị tương đương) 
cho pháp nhân thương mại). Ví dụ: Ủy 
ban chứng khoán (đối với Các pháp nhân 
thực hiện kinh doanh chứng khoán), Ngân 
hàng nhà nước (đối với Các tổ chức tín dụng 
ngân hàng).
Tuy nhiên, không phải tất cả 243 ngành 
nghề này đều có kết quả quản lý nhà nước 
6 Xem Phụ lục IV Luật đầu tư (sửa đổi năm 2016)
17Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Đinh Thị Mai
là một loại giấy chứng nhận đủ điều kiện 
kinh doanh, giấy phép kinh doanh... (tức 
là quản lý theo phương pháp tiền kiểm). 
Theo chỉ đạo chung của Chính phủ, nhiều 
ngành nghề trong số 243 ngành, nghề này 
dần được chuyển từ quản lý dạng tiền 
kiểm sang dạng hậu kiểm, tức là diện kinh 
doanh chỉ được kiểm soát trong quá trình 
doanh nghiệp hoạt động thông qua thanh 
tra, kiểm tra chứ không nhất thiết phải 
kiểm tra và cấp phép trước khi hoạt động7.
Và như vậy, đối với các ngành, nghề, 
hoạt động mà quản lý nhà nước về điều 
kiện kinh doanh theo chế độ hậu kiểm thì 
về thực tiễn, việc thi hành các hình phạt 
(các biện pháp cấm kinh doanh, cấm hoạt 
động...) được thực hiện tương tự như các 
pháp nhân tự do kinh doanh.
- Nhóm 3: Pháp nhân kinh doanh một 
số hoạt động phải thực hiện thủ tục hành 
chính trước khi thực hiện hoạt động (giấy 
phép, chứng chỉ hành nghề và các giấy tờ 
tương đương) 
Hiện nay, theo Điều 8, Khoản 2, Điểm 
a, Nghị định 92/2017 về kiểm soát thủ tục 
hành chính, các thủ tục hành chính được 
thực hiện theo các phương thức sau:
- Pháp nhân thương mại đề nghị cơ 
quan quản lý có thẩm quyền cấp giấy 
phép, chấp thuận, xác nhận... trước khi 
pháp nhân thực hiện hoạt động (hành 
chính - tiền kiểm).
- Pháp nhân đăng ký với cơ quan quản 
lý nhà nước có thẩm quyền để được hoạt 
động. Tuy nhiên, việc đăng ký có thể cần 
có kết quả trả lời (mới được hoạt động) 
7 Ngô Đức Minh, của Vụ pháp chế - Bộ công 
thương tại Ủy ban tư pháp của Quốc hội – Báo cáo 
tại Phiên tọa đàm về thi hành án hình sự đối với 
pháp nhân thương mại” ngày 28/2-01/3/2019.
hoặc không cần trả lời (sau một thời gian 
nhất định mà không phản hồi thì doanh 
nghiệp được tự động thực hiện).
- Pháp nhân thông báo hoạt động của 
mình đến cơ quan quản lý nhà nước có liên 
quan mà không cần trả lời là có đồng ý hay 
không của cơ quan quản lý nhà nước (hành 
chính - hậu kiểm). Riêng đối với hình thức 
thứ 3 này, thủ tục hành chính được thực 
hiện theo chế độ hậu kiểm nên việc thi 
hành các biện pháp cấm kinh doanh, cấm 
hoạt động lại được thực hiện tương tự như 
các pháp nhân tự do kinh doanh (thuộc 
nhóm 1).
Và như vậy, ngoài pháp nhân được 
thực hiện thủ tục hành chính – hậu kiểm 
(nêu trên), đối với 2 hình thức hành chính 
tiền kiểm còn lại, Cơ quan quản lý nhà 
nước trong thi hành án hình sự đối với 
pháp nhân kinh doanh các ngành, nghề có 
điều kiện là cơ quan quản lý nhà nước trực 
tiếp thực hiện thủ tục hành chính theo quy 
định của pháp luật.
Ví dụ: 
- Cơ quan Hải quan, các hãng vận tải, 
cảng vụ hàng không, các đại lý hải quan... 
khi thực hiện các hình phạt cấm / đình chỉ 
hoạt động xuất nhập khẩu, hoặc: 
- Ngân hàng nhà nước, các cảng vụ 
hàng không, doanh nghiệp bảo hiểm, công 
ty chứng khoán... khi thực hiện hình phạt 
đình chỉ hoạt động giao dịch tài chính đối 
với pháp nhân phạm tội.
4. hình thức và biện pháp thi hành án 
hình phạt đối với pháp nhân thương mại 
phạm tội
Hình thức và biện pháp thi hành án 
hình phạt đối với pháp nhân là một vấn đề 
mới, cả thực tiễn và lý luận về chính sách 
18
HìnH pHạt và biện pHáp tHi HànH HìnH pHạt đối với pHáp nHân... 
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
pháp luật thi hành án hình sự chưa được 
nghiên cứu. Hiện nay, đây cũng là vấn đề 
có nhiều ý kiến và được bàn luận khá sôi 
nổi tại các phiên họp góp ý Dự thảo Bộ 
luật thi hành án hình sự sửa đổi năm 2019. 
Qua nghiên cứu, tác giả cho rằng: 
- Về hình thức thi hành hình phạt đối với 
pháp nhân:
Xét về nguyên tắc, có hai hình thức 
chính trong thi hành hình phạt đối với 
pháp nhân, gồm:
- Tự nguyện thi hành: Ngay sau khi bản 
án có hiệu lực pháp luật, pháp nhân thương 
mại phạm tội có nghĩa vụ chấp hành bản án 
và các quyết định thi hành án của cơ quan 
thi hành án và của các cơ quan quản lý Nhà 
nước có liên quan về thi hành án.
- Cưỡng chế thi hành: Trường hợp 
pháp nhân không tự nguyện chấp hành 
án hoặc chấp hành án không đầy đủ thì bị 
áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. 
Các biện pháp cưỡng chế chưa được quy 
định trong luật, tuy nhiên, theo Điều 178, 
Dự thảo Luật Thi hành án hình sự sửa đổi, 
bổ sung năm 2018 (lần 6) bao gồm:
+ Buộc chấm dứt ngay hoạt động đã bị 
Tòa án đình chỉ hoặc cấm;
+ Buộc thông tin công khai về hoạt 
động đã bị Tòa án đình chỉ hoặc cấm 
trên các phương tiện theo quy định của 
pháp luật;
+ Niêm phong, tạm giữ tài liệu, chứng 
từ, dữ liệu điện tử, con dấu của pháp nhân 
thương mại;
+ Phong tỏa tài khoản;
+ Kê biên tài sản.
- Về biện pháp thi hành hình phạt đối với 
pháp nhân: 
Đây thực sự là một vấn đề khó, xuất 
phát từ đặc điểm “không phải là thể nhân” 
của pháp nhân thương mại. Việc thi hành 
hình phạt đối với pháp nhân do vậy, hoàn 
toàn khác biệt về tính chất và biện pháp thi 
hành so với việc thi hành hình phạt đối với 
cá nhân phạm tội. 
Như mục trên đã phân tích, các hình 
phạt (hình phạt chính và hình phạt bổ 
sung) được áp dụng đối với pháp nhân, 
ngoài hình phạt tiền được giao cho cơ 
quan thi hành án dân sự thực hiện theo 
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (hiện 
không có vướng mắc gì, có thể dễ dàng 
thực hiện) thì các hình phạt còn lại đều 
có chung đặc điểm là hạn chế quyền thực 
hiện một hoặc một số, hoặc tất cả các hoạt 
động của doanh nghiệp.
Như vậy, xét theo đặc điểm này, chúng 
tôi chỉ ra hai tính chất đặc trưng quyết định 
tới biện pháp thi hành án hình sự đối với 
pháp nhân, bao gồm:
- Thứ nhất, tự thân pháp nhân không 
thực hiện hành vi (giao dịch) nếu không có 
người đại diện.
- Thứ hai, hoạt động của pháp nhân 
được hình thành bởi hành vi của người đại 
diện và hành vi của đối tác.
Như vậy, khi áp dụng hình phạt đối 
với pháp nhân, tức là cần tác động tới hành 
vi của người đại diện hoặc hành vi của đối 
tác (hoặc cả hai) để đình chỉ, tạm đình chỉ, 
cấm, hoặc đình chỉ vĩnh viễn một (hoặc 
một số, toàn bộ) hoạt động (hoặc lĩnh vực) 
của pháp nhân.
Như vậy, để xác định được phương 
pháp, chủ thể và cả trình tự, thủ tục thi 
hành án hình sự đối với pháp nhân, cần 
xác định dựa trên đặc điểm, tính chất của 
19Khoa học Kiểm sátSố 03 - 2019
Đinh Thị Mai
các hoạt động của pháp nhân.
Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng 
có thể phân loại hoạt động của pháp nhân 
thành ba nhóm, bao gồm:
- Nhóm 1, nhóm “hoạt động tự thân”: 
Các hoạt động pháp nhân tự làm mà 
không cần phối hợp hay giao dịch với bất 
kỳ chủ thể thứ 2 nào, như: vận hành máy 
móc, tự sản xuất, gia công, hoạt động điều 
hành quản lý doanh nghiệp...
- Nhóm 2, nhóm “hoạt động với chủ thể 
công”: Các hoạt động có giao dịch với cơ 
quan nhà nước.
- Nhóm 3, nhóm “hoạt động với chủ thể 
tư”: Các hoạt động có giao dịch với một 
bên chủ thể tư (như mua bán hàng hóa, 
cung cấp dịch vụ, thuê mướn lao động, 
chuyển quyền sở hữu đối với tài sản v.v...)8
Như vậy, đối với loại hoạt động của 
pháp nhân ở nhóm 1, chúng tôi đặt tên là 
“hoạt động tự thân”. Đây là các loại hoạt 
động mang tính vật lý diễn ra tại trụ sở 
(sản xuất, vận chuyển, xây dựng, vận 
hành, điều hành... doanh nghiệp) thì việc 
xác định trách nhiệm thi hành án đối với 
loại hoạt động này hoàn toàn thuộc về cơ 
quan thi hành án hình sự chuyên trách (áp 
dụng các biện pháp để giám sát/ cấm/ đình 
chỉ các hoạt động này của doanh nghiệp 
tại trụ sở). Ví dụ: dừng hoạt động sản xuất 
thì cơ quan thi hành án niêm phong máy 
móc, nhà xưởng và cử người giám sát.
Đối với loại hoạt động nhóm thứ 2: 
“hoạt động với chủ thể công”. Đây là nhóm 
8 Đậu Anh Tuấn: “Cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực 
hoạt động của pháp nhân thương mại và xác định trách 
nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong thi hành 
án đối với pháp nhân thương mại”- Báo cáo tại Phiên 
tọa đàm về thi hành án hình sự đối với pháp nhân 
thương mại” ngày 28/2-01/3/2019.
hoạt động giao dịch với cơ quan nhà nước 
thì cơ quan thi hành án hình sự chuyên 
trách cần gửi thông báo đến cho cơ quan 
nhà nước tương ứng (mà doanh nghiệp 
đang có hoặc sẽ có hoạt động giao dịch) 
để yêu cầu cơ quan nhà nước dừng, tạm 
dừng, hoặc đình chỉ vĩnh viễn hoạt động 
đối với pháp nhân thương mại theo hình 
phạt bị áp dụng. Ví dụ: Doanh nghiệp phải 
thi hành hình phạt cấm mua bán, phát 
hành chứng khoán thì cơ quan thi hành án 
yêu cầu Ủy ban chứng khoán Nhà nước 
cấm hoạt động mua bán, phát hành của 
doanh nghiệp.
Đối với loại hoạt động nhóm thứ 3, 
“hoạt động với chủ thể tư”. Đây là loại hoạt 
động phức tạp nhất trong thi hành án hình 
sự đối với pháp nhân. Vì pháp nhân thực 
hiện giao dịch với bên thứ 2 là chủ thể tư 
(với cá nhân khác, với pháp nhân khác, với 
một chủ thể bất kỳ khác...)9, nên một mặt, 
cơ quan thi hành án yêu cầu doanh nghiệp 
phải tự nguyện thực hiện hình phạt, mặt 
khác, cơ quan thi hành án cần có hình thức 
thông báo rộng rãi đến các chủ thể tư (và 
rộng rãi công chúng) với nội dung: toàn bộ 
các giao dịch được pháp nhân thực hiện 
trong phạm vi bị cấm/ bị đình chỉ (theo nội 
dung bản án) đều bị coi là vô hiệu, nếu cá 
nhân hoặc pháp nhân vẫn cố tình giao dịch 
(trong phạm vi bị cấm/ bị đình chỉ) thì có 
thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo 
quy định.
Như vậy, tùy thuộc vào từng đặc điểm 
của các loại hoạt động của pháp nhân mà 
9 Đậu Anh Tuấn: “Cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực 
hoạt động của pháp nhân thương mại và xác định trách 
nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong thi hành 
án đối với pháp nhân thương mại”- Báo cáo tại Phiên 
tọa đàm về thi hành án hình sự đối với pháp nhân 
thương mại” ngày 28/2-01/3/2019.
20
HìnH pHạt và biện pHáp tHi HànH HìnH pHạt đối với pHáp nHân... 
Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2019
trong việc xác định hình thức và biện pháp 
thi hành án hình sự phù hợp. 
Trong đó:
- Khi thi hành các hình phạt liên quan 
đến các “hoạt động tự thân” của pháp 
nhân, nên giao cho cơ quan thi hành án 
hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành 
án hình sự cấp quân khu ưu tiên áp dụng 
biện pháp giám sát đối với những hoạt 
động “mang tính vật lý” như sản xuất, vận 
chuyển, xây dựng, hoạt động quản lý, điều 
hành, vận hành tại trụ sở của pháp nhân 
phải thi hành án.
- Khi thi hành các hình phạt liên quan 
đến các “hoạt động với chủ thể công” của 
pháp nhân, nên giao, phối hợp chặt chẽ 
với các cơ quan quản lý nhà nước chủ trì 
về quản lý nhà nước đối với ngành, nghề 
đầu tư, kinh doanh có điều kiện (đối với 
pháp nhân thương mại kinh doanh có điều 
kiện) và giao cho cơ quan nhà nước trực 
tiếp thực hiện thủ tục hành chính (đối với 
pháp nhân thương mại phải thực hiện thủ 
tục “hành chính – tiền kiểm”) ngừng/ hạn 
chế/ từ chối/ cấm/ đình chỉ hoặc xử lý các 
hoạt động theo các mức hình phạt tương 
ứng đã được tuyên đối với pháp nhân.
- Khi thi hành các hình phạt liên quan 
đến các “hoạt động với chủ thể tư” của 
pháp nhân, cần thông qua các cơ chế phối 
hợp, giám sát và kiểm soát phù hợp, linh 
hoạt. Ví dụ: Yêu cầu pháp nhân báo cáo, 
Chính cơ quan quản lý từ chối giao dịch có 
liên quan, hoặc thông báo rộng rãi tới các 
chủ thể tư để buộc chủ thể tư phải dừng 
các giao dịch bị cấm, nếu vẫn giao dịch thì 
giao dịch đó bị vô hiệu và có thể bị xử lý 
theo pháp luật./.
TÀi LiỆU ThaM KhẢO
1. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp năm 2014.
2. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Văn phòng Quốc hội (2013), Văn bản hợp nhất 
Luật Chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18 
tháng 12 năm 2013 của Văn phòng Quốc hội.
4. Văn phòng Quốc hội (2013), Văn bản hợp nhất 
Luật Kinh doanh bảo hiểm số 12/VBHN-VPQH 
ngày 23 tháng 7 năm 2013 của Văn phòng Quốc hội.
5. Văn phòng Quốc hội (2014), Văn bản hợp nhất 
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/VBHN-
VPQH ngày 11 tháng 12 năm 2014 của Văn phòng 
Quốc hội.
6. Văn phòng Quốc hội (2017), Văn bản hợp nhất 
Luật Các tổ chức tín dụng số 07/VBHN-VPQH 
ngày 12 tháng 12 năm 2017 của Văn phòng 
Quốc hội.
7. Văn phòng Quốc hội (2018), Văn bản hợp nhất Luật 
Đầu tư số 06/VBHN-VPQH ngày 29 tháng 6 năm 
2018 của Văn phòng Quốc hội.
8. Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về 
thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 và về hiệu lực 
thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
9. TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Nhận diện pháp nhân 
thương mại trong Luật Thi hành án hình sự (sửa 
đổi), bài tham luận Hội thảo “Chính sách pháp 
luật thi hành án hình sự...” Học viện KHXH, 
tháng 4.2019.
10. Ngô Đức Minh, của Vụ pháp chế - Bộ công 
thương tại Ủy ban tư pháp của Quốc hội – Báo 
cáo tại Phiên tọa đàm về thi hành án hình sự 
đối với pháp nhân thương mại” ngày 28/2-
01/3/2019.
11. Đậu Anh Tuấn: “Cơ quan quản lý nhà nước lĩnh 
vực hoạt động của pháp nhân thương mại và xác 
định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước 
trong thi hành án đối với pháp nhân thương mại”- 
Báo cáo tại Phiên tọa đàm về thi hành án hình 
sự đối với pháp nhân thương mại” ngày 28/2-
01/3/2019.

File đính kèm:

  • pdfhinh_phat_va_bien_phap_thi_hanh_hinh_phat_doi_voi_phap_nhan.pdf