Hình ảnh tế bào học trong viêm tuyến giáp De Quervain: Qua 36 trường hợp chọc hút kim nhỏ

Mục đích: Xác định đặc điểm tế bào học của viêm giáp De Quervain.

Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 36 trường hợp viêm tuyến giáp De Quervain được

ghi nhận tại khoa giải phẫu bệnh, bệnh viện C Đà Nẵng qua phương pháp chọc hút kim nhỏ trong 5 năm từ

2001-2006.

Kết quả: Viêm giáp De Quervain chiếm tỷ tệ 5%, tỷ lệ chẩn đoán phù hợp với kết quả mô bệnh học là

89%. Tế bào khổng lồ nhiều nhân có trong 89%, tế bào dạng biểu mô là 97%.

Kết luận: Hình ảnh viêm hạt trên tiêu bản chọc hút kim nhỏ tuyến giáp cho phép nghĩ đến đầu tiên là

viêm giáp De Quervain chẩn đoán tế bào học vẫn là một phương pháp hiệu quả có giá trị trong phân biệt

giữa tổn thương viêm và u ở tuyến giáp.

pdf 5 trang kimcuc 3800
Bạn đang xem tài liệu "Hình ảnh tế bào học trong viêm tuyến giáp De Quervain: Qua 36 trường hợp chọc hút kim nhỏ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hình ảnh tế bào học trong viêm tuyến giáp De Quervain: Qua 36 trường hợp chọc hút kim nhỏ

Hình ảnh tế bào học trong viêm tuyến giáp De Quervain: Qua 36 trường hợp chọc hút kim nhỏ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 23 
HÌNH ẢNH TẾ BÀO HỌC TRONG VIÊM TUYẾN GIÁP 
DE QUERVAIN: QUA 36 TRƯỜNG HỢP CHỌC HÚT KIM NHỎ 
Trần Hòa*, Trần Việt Khoa**, ĐoànThị Trinh*** 
TÓM TẮT 
Mục đích: Xác định đặc điểm tế bào học của viêm giáp De Quervain. 
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu 36 trường hợp viêm tuyến giáp De Quervain được 
ghi nhận tại khoa giải phẫu bệnh, bệnh viện C Đà Nẵng qua phương pháp chọc hút kim nhỏ trong 5 năm từ 
2001-2006. 
Kết quả: Viêm giáp De Quervain chiếm tỷ tệ 5%, tỷ lệ chẩn đoán phù hợp với kết quả mô bệnh học là 
89%. Tế bào khổng lồ nhiều nhân có trong 89%, tế bào dạng biểu mô là 97%. 
Kết luận: Hình ảnh viêm hạt trên tiêu bản chọc hút kim nhỏ tuyến giáp cho phép nghĩ đến đầu tiên là 
viêm giáp De Quervain chẩn đoán tế bào học vẫn là một phương pháp hiệu quả có giá trị trong phân biệt 
giữa tổn thương viêm và u ở tuyến giáp. 
ABSTRACT 
FINE NEEDLE ASPIRATION OF DE QUERVAIN’S THYROIDITIS A CYTOLOGIC 
REPORT OF 36 CASES 
Tran Hoa, Tran Viet Khoa, Doan Thi Trinh 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 – Supplement of No 3 - 2007: 23 – 27 
Purpose: Describes mainly cytological features of De Quervain’s thyroiditis. 
Methods: Review 36 cases FNAs of thyroid from patients with De Quervain’s thyroiditis were 
examined in the Department of pathology of C Da Nang hospital, Viet Nam in 5 years (2001-2005). 
Results: De Quervain’s thyroiditis occupied 5%, cytological and pathologic results have the same 
diagnosis in 89% cases. The cytological appearances: multinucleated giant cells in 89 %, and epithelioid 
cells in 97 % of cases. 
Conclusion: The disease can be diagnosed with aspiration cytology, diagnosis is based on granuloma 
with giant cells, epithelioid cells and lymphocytes. The fine needle aspiration is a accurate and valuable 
method for the differentiated diagnosis between inflammation and neoplasm.. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm tuyến giáp bán cấp De Quervain 
(VDQ) là bệnh lý tương đối ít gặp, lâm sàng có 
thể chẩn đoán được khi bệnh ở giai đoạn cấp. 
Tuy nhiên, trong quá trình tiến triển của 
bệnh, ở giai đoạn muộn, lâm sàng rất dễ nhầm 
với những bệnh cảnh có liên quan đến tổn 
thương bướu và dạng bướu của tuyến giáp. 
Việc chẩn đoán phân biệt giữa viêm và bướu 
là một điều cần thiết để có được một hướng 
điều trị thích hợp cho bệnh nhân. 
Chọc hút tế bào học kim nhỏ (FNA) được 
xem là một phương tiện thiết thực và hữu ích 
giúp cho lâm sàng định bệnh.Qua 36 trường 
hợp VDQ được ghi nhận, chúng tôi đánh giá 
lại những biểu hiện tế bào học của bệnh lý này 
để rút kinh nghiệm cho công việc FNA được 
tốt hơn trong chẩn đoán. 
* Khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện C Đà Nẵng 
** Khoa Ngoại Bệnh viện C Đà Nẵng 
*** Bệnh viện Vĩnh Toàn Đà Nẵng. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007 
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh– Tế Bào Bệnh Học 24 
ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
- Thu thập số liệu bệnh nhân được làm 
FNA tuyến giáp tại khoa giải phẫu bệnh trong 
5 năm từ năm 2001-2006. 
- Ghi nhận hình ảnh tế bào học dưới kính 
hiển vi quang học thông thường với phương 
pháp nhuộm Giemsa. 
- Đối chứng với những kết quả mô bệnh 
học của những bệnh nhân được chẩn đoán 
viêm giáp VDQ trước và sau khi có kết quả 
giải phẫu bệnh. 
- Xem lại tiêu bản và rút kinh nghiệm. 
KẾT QUẢ 
Ghi nhận được 36 trường hợp VDQ được chẩn 
đoán mô bệnh học 
Bệnh nhân VDQ 36 tr/h 
Bệnh nhân bệnh tuyến giáp 7218 tr/h 
Tỷ lệ 5% 
Giá trị chẩn đoán giữa tế bào học và mô bệnh 
học 
Phù hợp 
Nhầm lẫn sang 
viêm tuyến giáp 
loại khác 
Nghi ngờ ung 
thư 
Tổng cộng 
32 3 1 36 
89% 8,3% 2,7% 100% 
Hình ảnh tế bào học 
Tế bào khổng lồ 32 89% 
Tế bào dạng biểu mô 35 97% 
Limpho bào 36 100% 
Tế bào nang tuyến giáp 23 50% 
Dịch keo 01 2,7% 
Bọt bào - - 
Tế bào bất thường 1 2,7% 
BÀN LUẬN 
Bệnh cảnh lâm sàng của viêm giáp De 
Quervain đến làm FNA 
Các triệu chứng ban đầu của giai đoạn cấp 
tính trong VDQ thường bị bệnh nhân bỏ qua 
hoăc nhầm lẩn sang bệnh lý khác ở vùng đầu 
cổ. Khi bệnh nhân ở giai đoạn muộn VDQ có 
hình ảnh của một tổn thương không đối xứng 
hoặc có một nốt đơn độc ở thuỳ giáp,do biểu 
hiện lâm sàng không điển hình,nên tất cả bệnh 
nhân đến làm FNA tại đơn vị chúng tôi luôn 
được chẩn đoán là phình giáp hoặc bướu cổ 
đơn thuần. 
Tỷ lệ VDQ/bệnh lý tuyến giáp có làm FNA 
của chúng tôi vào khoảng 5%, điều này phù 
hợp với ghi nhận của Martino về VDQ cũng có 
tỷ lệ giống như vậy(9). Hình ảnh lâm sàng thể 
hiện như một tổn thương dạng bướu cũng đã 
được nhiều y văn đề cập, có đến 1/4 trường 
hợp VDQ thể hiện hình ảnh dang nốt khu trú 
ở thuỳ tuyến giáp(2). 
Với tỷ lệ gặp là 5% cho thấy đây là một tỷ 
lệ cần lưu ý để lâm sàng xem xét lại trong việc 
khai thác lại tiền sử của bệnh nhân trong quá 
trình thăm khám. 
Việc chẩn đoán phân biệt giữa VDQ với 
tổn thương bướu và dạng bướu là một vấn đề 
khó khăn của lâm sàng chứ không phải của 
chẩn đoán giải phẫu bệnh(18), hơn 2/3 trường 
hợp VDQ đã bị lâm sàng nghi ngờ ác tính(16). 
Đa số VDQ được làm chẩn đoán tế bào học 
khi tổn thương u viêm dạng hạt được hình 
thành rõ ở giai đoạn muộn(7). 
Như thế việc thực hiện FNA tuyến giáp 
vẫn là vấn đề đáng quan tâm và thiết thực hỗ 
trợ cho lâm sàng. 
Về giá trị của FNA trong chấn đoán viêm giáp 
De Quervain 
Anderson cho rằng việc chẩn đoán VDQ 
có thể thực hiện được bằng chẩn đoán tế bào 
học(6). Tỷ lệ phù hợp giữa tế bào học và mô 
bệnh học trong chẩn đoán VDQ của chúng tôi 
là 89% đã cho thấy FNA vẩn có giá trị và tin 
cậy cho lâm sàng và phù hợp với nhận định 
nêu trên. 
Qua chẩn đoán tế bào học có thể làm giảm đi 
tỷ lệ phẫu thuật tuyến giáp không cần thiết đối 
với các trường hợp VDQ dạng nốt. Các tác giả 
khác cũng nhận định rằng đã giảm từ 67% xuống 
còn 43% tổng số các trường hợp phẫu thuật(8). 
Sự nhầm lẫn giữa một VDQ với các trường 
hợp viêm giáp khác về mặt chẩn đoán tế bào 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 25 
học là 8,3%, thật sự không có ý nghĩa trong 
vấn đề điều trị ngoại khoa của lâm sàng, vẫn 
có khả năng loại trừ tổn thương dạng bướu 
khi xem xét trở lại việc điều trị bệnh nhân. 
Trong một nghiên cứu khác cho thấy có 
đến 7/59 trường hợp VDQ (11,9%) không 
được phát hiện trong lần chẩn đoán đầu tiên 
khi làm FNA. 
Như thế sự nhầm lẫn sang một viêm tuyến 
giáp loại khác của VDQ trong chẩn đoán đoán 
tế bào học của chúng tôi đối với lâm sàng có 
thể chấp nhận được. 
Lester Layfield(8) cũng cho rằng chẩn đoán 
phân biệt giữa VDQ với viêm giáp mạn tính 
Hashimoto là một khó khăn vì hình ảnh tế bào 
viêm có một sự giao thoa.Tuy nhiên hình ảnh 
chuyển sản tế bào Hurthle, tế bào limpho 
trung tâm mầm là tiêu chuẩn để chẩn đoán 
phân biệt. 
Sự vắng mặt hoại tử bã đậu, số lượng 
tương bào không nhiều cũng là những tiêu 
chuẩn để chẩn đoán phân biệt giữa VDQ với 
các tổn thương viêm đặc hiệu khác như lao, 
giang mai(7,12). 
Kích thước và số lượng tế bào khổng lồ 
trong VDQ có vẻ lớn và nhiều hơn các loại 
viêm khác(2,14). 
Biểu hiện lâm sàng sẽ giúp cho ta chẩn 
đoán phân biệt giữaVDQ với viêm giáp do sờ 
nắn. Trong viêm giáp do sờ nắn tổn thương 
nhỏ,có xu hướng lan toả(2,18). Hình ảnh tế bào 
học có biểu hiện bất thường làm cho chúng tôi 
gặp khó khăn trong chẩn đoán nghi ngờ ác 
tính chỉ gặp 1 trường hợp tỷ lệ # 2,7 % tổng số 
VDQ.Biểu hiện bất thường về mặt tế bào cũng 
đã được các tác giả khác đề cập trong một 
nghiên cứu của Ofner C cho thấy 13/31 (42%) 
trường hợp VDQ và của Sabb có 1/14 (7,1 %) 
trường hợp VDQ có hình ảnh tế bào nghi ngờ 
ác tính(13,15). Nhưng những biểu hiện này chỉ được 
thấy khi VDQ ở giai đoạn cấp. 
Y văn đã ghi nhận có hình ảnh hoạt động của 
nhân ở các tế bào xơ non trong giai đoạn cấp và 
các tế bào biểu mô cũng thể hiện hình ảnh bất 
thường nhẹ do phản ứng viêm(2,5,7). Có lẽ đây 
chính là những nguyên nhân đã gây ra những 
khó khăn cho việc chẩn đoán VDQ khi chúng tôi 
còn ít kinh nghiệm để đánh giá tiêu bản. 
Sự thay đổi hình thái tế bào trong giai 
đoạn viêm cấp được thể hiện trên tiêu bản là 
chuyện đương nhiên. Vấn đề điều trị, theo dõi 
và làm lại FNA sẽ có kết luận chính xác hơn. 
Chẩn đoán VDQ bằng phương pháp tế bào 
học chọc hút ở những tổn thương giai đoạn muộn 
vẫn là phương pháp có giá trị đáng tin cậy. 
Về hình ảnh tế bào học trên tiêu bản 
Theo Lester Layfield(8): Các tiêu chuẩn về 
hình ảnh tế bào để chẩn đoán VDQ: 
- Tế bào khổng lồ nhiều nhân 
- Thâm nhiễm hổn hợp các tế bào viêm và 
mô bào. 
- Tế bào nang thoái hoá 
- Chất nền gồm những mảnh vụn tế bào và 
dịch keo. 
- U hạt 
Theo tác giả Garcia(4): 
- Các tế bào nang có những hạt trong 
không bào và/hoặc những tế bào nang có 
chuyển dạng. 
- Tế bào khổng lồ nhiều nhân 
- Tế bào dạng biểu mô (bán liên) 
- Có nền viêm mạn hoặc cấp tính 
- Vắng mặt các tế bào nang tăng hoạt, 
phồng bào, các limpho bào chuyển dạng. 
Ngoài ra các tác giả khác đều nhấn mạnh 
hình ảnh viêm hạt gồm tế bào khổng lồ nhiều 
nhân, tế bào dạng biểu mô trong VDQ. 
Trong những trường hợp VDQ được 
chúng tôi ghi nhận: hình ảnh tế bào khổng lồ 
và tế bào dạng biểu mô luôn có mặt hầu hết 
trên tiêu bản có tỷ lệ lần lượt là 89% và 97%. 
Điều này cũng phù hợp với nhận định của y 
văn và các tác giả khác như: Tamas 
Solymosi(16) 95% tiêu bản có tế bào khổng lồ và 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007 
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh– Tế Bào Bệnh Học 26 
Sabb(15) 100% tiêu bản có tế bào này. 
Hình ảnh tế bào khổng lồ nhiều nhân được 
coi là tiêu chuẩn không cần bàn cãi của 
VDQ(16). Theo Ngô Thu Thoa để chẩn đoán 
VDQ là có từ 2 –6 tế bào khổng lồ trên 1 vi 
trường lớn(10). 
Số lượng và kích thước của tế bào khổng lồ 
nhiều nhân luôn được các tác giả nhấn 
mạnh(2,14,17). Đây cũng còn là tính chất để chẩn 
đoán phân biệt giữa hình ảnh tế bào này trong 
VDQ với sự có mặt tế bào khổng lồ trong ung 
thư biểu mô tuyến giáp thể nhú(8.14). Số lượng 
nhân của tế bào khổng lồ trong ung thư thể 
nhú ít hơn trong VDQ(8). Ở VDQ số lượng 
nhân của tế bào khổng lồ có khi lên đến hằng 
trăm nhân(11). 
Ngoài ra cũng cần lưu ý để phân biệt giữa 
hình ảnh tế bào khổng lồ với hình ảnh nang 
giáp còn nguyên vẹn trên những bệnh nhân 
phình giáp(2,8). 
Trong ung thư biểu mô tuyến giáp thể nhú 
thường thể hiện hình ảnh viêm hạt trong tổn 
thương dang bọc (nang), trong khi đó VDQ 
không có liên quan đến hình ảnh dạng bọc. 
Dịch keo thường không tìm thấy trong bất kỳ 
giai đoạn nào của VDQ(7). Điều này phù hợp 
với ghi nhận của chúng tôi hình ảnh chất dịch 
keo chỉ thấy 1/36 trường hơp (2,7%) tổng số 
bệnh nhân VDQ. 
Sự có mặt tế bào dạng biểu mô (bán liên) 
cũng đại diện cho hình ảnh viêm hạt, có thể 
coi đây là một tiêu chuẩn cùng vơi thăm khám 
lâm sàng để nghĩ đến VDQ khi thiếu vắng tế 
bào khổng lồ. Tế bào dạng biểu mô hầu như 
không có mặt trong các trường hợp viêm giáp 
không đặc hiệu khác. Ung thư biểu mô tuyến 
giáp thể nhú được loại trừ khi tiêu bán có tế 
bào dạng biểu mô(2). 
Trên tiêu bản có các tế bào dạng biểu mô, 
vài tế bào khổng lồ nhiều nhân và ít limphô 
bào được xem là những biểu hiện của 
VDQ(1,11). 
Sự vắng mặt một hoặc nhiều hơn hình ảnh 
các tế bào nêu trên không thể loại trừ được 
một trường hợp VDQ nhưng sẽ làm tăng thêm 
những điều kiện để cho chúng ta chẩn đoán 
phân biệt với bệnh lý về bướu giáp khác(4). 
Vấn đề khai thác lâm sàng, theo dõi và làm 
lại FNA là cần thiết để có một chẩn đoán tế 
bào học thích hợp. 
KẾT LUẬN 
Qua 36 trường hợp Viêm tuyến giáp De 
Quervain (VDQ) được ghi nhận tại khoa Giải 
phẫu bệnh bệnh viện C Đà nẵng từ 2001 đến 
2006 cho thấy : 
- Tổn thương giống bướu của VDQ chiếm 
tỷ lệ 5% tổng số bệnh lý tuyến giáp đến làm 
choc hút tế bào học kim nhỏ (FNA). 
- Tỷ lệ chẩn đoán phù hợp giữa tế bào học 
và mô bệnh học là 89%, chỉ có 2,7% gặp khó 
khăn trong chẩn đoán là nghi ngờ ác tính. 
- Sự có măt của hình ảnh viêm hạt nổi bật 
là tế bào khổng lồ nhiều nhân, tế bào dạng 
biểu mô (bán liên) trên tiêu bản chọc hút từ 
tuyến giáp có thể coi là đặc điểm cho phép 
nghĩ đến VDQ. 
- Chẩn đoán tế bào học vẫn là phương 
pháp có hiệu quả để phân biệt giữa viêm và 
bướu trong bệnh lý tuyến giáp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. AndraR F, Mary KS (1998)-Thyroid aspirasition 
cytopathology –in: Atkinson-Atlas of difficult diagnoses 
in cytopathology-W.B Sauders company p 434 
2. DeMay (1998)-Thyroid-in: Richard Demay-The art and 
science of cytopathology-ASCP- CD-ROM. 
3. Duininck TM, VanHeẻden JA (2002) De quervain`s 
thyroiditis surgical experience-Endocr pract 2002 Jul-
Aug.8(4)255-8. 
4. Garcia S, (1997) –Fine needle aspiration of subacute 
granulomatouss thyroiditis (De Quervain’s thyroiditis): a 
clinico-cytologic review of 35 cases-Diagn-cytopathol 1997 
Mar,16(3) 214-20. 
5. Huygo GD (1991) Thyroid in: Marluse Bibo –
Comprehensive cytopathology-WB Saunders company.p 
651. 
6. Kaarle OF (1990)-Thyroid gland –in: John M.Kissane-
Anderson`s pathology-Vol 2 ninth edition –The CV Mosby 
company p 1551. 
7. Kim R G (2004) Thyroid gland fine needle aspirasition-in: 
Morden cytopathology-Churchill Livingstons p 741. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 11 * Phụ bản Số 3 * 2007 Nghiên cứu Y học 
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh – Tế Bào Bệnh Học 27 
8. Lester Layfield (1997)-Thyroid and Parathyroid-in:Lester 
Layfield-Cytopathology of the Head and neck-ASCP 165-
166. 
9. Martino E, Burrattil, Bactalenal (1987) High prevalence of 
subacute thyroiditis during summer season in Italy – 
J.endocrinol invest-1987-10-321323. 
10. Ngô Thu Thoa (1989) -Chẩn đoán tế bào học tuyến giáp 
trạng – trong: Chẩn đoán tế bào học các khối u ác tính - 
Bệnh viện K Hà nội trang 47 
11. Nguyen GK, Lee MKW.,(2005) Fine needle aspiration of 
the thyroid-An overview-in:Cytojournal 2:12. 
12. Nguyễn Vượng, Lê Trung Thọ (1983) chẩn đoán tế bào 
học một số bệnh của tuyến giáp – trong: Tổng quan và 
chuyên khảo ngắn -Chẩn đoán tế bào học một số bệnh 
thường gặp qua chọc hút tổn thương bằng kim nhỏ-Viện 
thông tin thư viện y học Trung Ương, trang 82-83. 
13. Ofner C, Hittmain A,(1994) Fine needle aspiration of 
subacute De Quervain’s thyroiditis in a endemic goitre 
area – Cytopathology 1994,Feb 5(1) 33-40. 
14. Phillip F, Jamie LC., Thomes FK (1989) Thyroid in: Fine 
needle aspiration cytopathology lymph node, thyroid & 
salivarry gland p 103-104. 
15. Sabb NS, Salti I (2006)-Subacute thyroiditis: fine neeedle 
aspiration cytopathology of 14 cases presenting with 
thyroid nodules- Diagn-cytopathol 2006 Jan. 34(1): 18-23. 
16. Tamas S (1999) Subacute grạnulomatous (De Quervain’s) 
thyroiditis-in: The thyroid CD –Medi-cico-CD-ROM. 
17. Tosten L (1989) Aspiration biopsy cytopathology of 
thyroid-in:Joseph A.Línk-Clinical aspiration cytology- 
second Edition –J.B Lippincott company –p 65. 
18. William AM (1984) –Tumor like lessions in: Tumor of 
thyroid gland-Supplement-AFIP-s6. 

File đính kèm:

  • pdfhinh_anh_te_bao_hoc_trong_viem_tuyen_giap_de_quervain_qua_36.pdf