Hiệu quả sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ sớm trên các bệnh nhân nguy cơ cao được phẫu thuật tim hở

Đặt vấn đề: Sử dụng bóng đối xung sớm cho các bệnh nhân có nguy cơ cao cần phẫu thuật tim hở ngày

càng trở nên phổ biến trên thế giới.

Mục tiêu: Xác định hiệu quả sử dụng BĐXNĐMC sớm có cải thiện về: tỉ lệ tử vong trong thời gian nằm

hồi sức và trong vòng 30 ngày đầu sau mổ, tỉ lệ nhiễm trùng, tỉ lệ suy thận cấp sau mổ, thời gian thở máy, thời

gian nằm hồi sức, tỷ lệ biến chứng do bóng so với nhóm bệnh nhân dùng BĐXNĐMC muộn hay không.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 200 ca, chia làm 2 nhóm, nhóm

đặt bóng sớm (đặt trước mổ hoặc trong mổ) và nhóm đặt bóng muộn (đặt bóng sau mổ). Phân tích thống kê và

xử lý số liệu 2 nhóm với phần mềm Stata.

Kết quả: Nhóm đặt sớm giảm nguy cơ tương đối về tử vong tại hồi sức 65% với RR = 0,344 ( KTC 95%

0,137 – 0,867 , p = 0,024 ), giảm 58% nguy cơ tử vong trong vòng 30 ngày sau mổ với RR = 0,411 ( KTC 95%

0,196 – 0,859, p = 0,018 ), giảm nhiễm trùng sau mổ: 26% so với 73% (p <0,001). giảm="" suy="" thận="" cấp="" sau="" mổ="">

27% so với 49% (p = 0,002), giảm thời gian thở máy sau mổ: 3 ngày so với 9 ngày ( p < 0,001="" ),="" giảm="" thời="">

nằm hồi sức sau mổ : 7 ngày so với 14 ngày ( p < 0,001="">

Kết luận: sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ sớm rất hiệu quả với các bệnh nhân có nguy cơ cao

được phẫu thuật tim hở.

pdf 6 trang kimcuc 6160
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ sớm trên các bệnh nhân nguy cơ cao được phẫu thuật tim hở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ sớm trên các bệnh nhân nguy cơ cao được phẫu thuật tim hở

Hiệu quả sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ sớm trên các bệnh nhân nguy cơ cao được phẫu thuật tim hở
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 206
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG BÓNG ĐỐI XUNG NỘI ĐỘNG MẠCH CHỦ SỚM 
TRÊN CÁC BỆNH NHÂN NGUY CƠ CAO ĐƯỢC PHẪU THUẬT TIM HỞ 
Lê Trung Hiếu*, Nguyễn Thị Quý** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Sử dụng bóng đối xung sớm cho các bệnh nhân có nguy cơ cao cần phẫu thuật tim hở ngày 
càng trở nên phổ biến trên thế giới.  
Mục tiêu: Xác định hiệu quả sử dụng BĐXNĐMC sớm có cải thiện về: tỉ lệ tử vong trong thời gian nằm 
hồi sức và trong vòng 30 ngày đầu sau mổ,  tỉ lệ nhiễm trùng, tỉ lệ suy thận cấp sau mổ, thời gian thở máy, thời 
gian nằm hồi sức, tỷ lệ biến chứng do bóng so với nhóm bệnh nhân dùng BĐXNĐMC muộn hay không.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 200 ca, chia làm 2 nhóm, nhóm 
đặt bóng sớm (đặt trước mổ hoặc trong mổ) và nhóm đặt bóng muộn (đặt bóng sau mổ). Phân tích thống kê và 
xử lý số liệu 2 nhóm với phần mềm Stata.   
Kết quả:  Nhóm đặt sớm giảm nguy cơ tương đối về tử vong tại hồi sức 65% với RR = 0,344 ( KTC 95% 
0,137 – 0,867 , p = 0,024 ), giảm 58% nguy cơ tử vong trong vòng 30 ngày sau mổ với RR = 0,411 ( KTC 95% 
0,196 – 0,859, p = 0,018 ), giảm nhiễm trùng sau mổ: 26% so với 73% (p <0,001). giảm suy thận cấp sau mổ : 
27% so với 49% (p = 0,002), giảm thời gian thở máy sau mổ: 3 ngày so với 9 ngày ( p < 0,001 ), giảm thời gian 
nằm hồi sức sau mổ : 7 ngày so với 14 ngày ( p < 0,001 ).  
Kết luận: sử dụng bóng đối xung nội động mạch chủ sớm rất hiệu quả với các bệnh nhân có nguy cơ cao 
được phẫu thuật tim hở. 
Từ khoá: bóng đối xung động mạch chủ, phẫu thuật tim hở 
ABSTRACT 
EFFICACY OF EARLY INTRA‐AORTIC BALLOON PUMPING IN HIGH‐RISK PATIENTS 
UNDERGONE OPEN HEART SURGERY 
Le Trung Hieu‐ Nguyen Thi Quy  
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 205 - 210 
Background: Early intraaortic balloon pumping (IABP) in high ‐ risk patients having open heart surgery is 
becoming more frequent over the world.  
Objectives: determining the efficacy of IABP based on the following criteria: mortality in ICU, mortality 
during 30 days after sugery, prevalence of infection, prevalence of acute renal insufficience, ventilation time, ICU 
stay time, prevalence of complications.  
Method: Retrospective cohort study, collected data for 200 patients, devided in 2 groups: early group (with 
preoperative or intraoperative IABP) and late group (postoperative IABP). Statistic analysis with Stata software.  
Results: in early group, risk of mortality in ICU reduced 65% with  RR = 0.344 (95% CI: 0.137 – 0.867 , p 
= 0.024 ), reduced 58% in risk of mortality during 30 days with RR = 0.411 (95% CI: 0.196 – 0.859, p = 0.018 ), 
reduced postoperative infection: 26% vs 73% (p <0.001). reduced postoperative renal insufficience: 27% vs 49% 
(p = 0.002), reduced ventilation time: 3 vs 9 days ( p < 0.001 ), reduced ICU stay time: 7 vs 14 days ( p < 0.001 ), 
*Bệnh viện tim Tâm Đức‐TPHCM    ** Viện Tim TPHCM 
Tác giả liên lạc: BS. Lê Trung Hiếu    ĐT: 0985734614  Email: bsletrunghieu@yahoo.com.vn;   
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu 207
prevalence of complications in both group were the same.  
Conclusion: Early intraaortic balloon pumping (IABP) in high ‐ risk patients having open heart surgery 
have good outcome.  
Keywords: intraaortic balloon pumping, open heart surgery 
MỞ ĐẦU 
Bóng  đối  xung  nội  động  mạch  chủ 
(BĐXNĐMC,  intra‐aortic  balloon 
counterpulsation)   là phương tiện hỗ trợ cơ học 
thường được sử dụng nhiều nhất trong mổ tim. 
Thực tế hiện nay bệnh tim cần phẫu thuật ngày 
càng phức tạp hơn. Tỉ lệ bệnh nhân mổ bắc cầu 
chủ vành đơn thuần ngày càng ít dần, trong khi 
đó  tỉ  lệ các  trường hợp mổ mạch vành kết hợp 
với  mổ  van  tim  ngày  càng  tăng.  Hiện  đã  có 
nhiều  nghiên  cứu  chứng  minh  hiệu  quả  của 
BĐXNĐMC trên các bệnh nhân phẫu thuật bắc 
cầu  động mạch  vành.  Tuy  nhiên,  vai  trò  của 
BĐXNĐMC  đối với bệnh nhân  có bệnh  lý van 
tim  bị  suy  tim  nặng  cần  phẫu  thuật  thì  chưa 
được xác định  (9). Hiện nay, các bệnh nhân cần 
được phẫu  thuật bắc cầu nối chủ vành  thường 
đã vào giai  đoạn  cuối  của bệnh với  tình  trạng 
thiếu  máu  cơ  tim  nặng  do  hẹp  nhiều  nhánh 
động mạch vành và chức năng tim kém. Vì thế, 
tại bệnh viện  tim Tâm  Đức và Viện  tim  thành 
phố Hồ Chí Minh, các bệnh nhân có nguy cơ cao  
như: chức năng  thất  trái kém, nhồi máu cơ  tim 
cấp,  đau  thắt  ngực  không  ổn  định,  hẹp  thân 
chung  mạch  vành  trái,  bệnh  nhân  có  những 
bệnh  lý  đi  kèm  theo  như  tăng  huyết  áp,  tiểu 
đường  ,  suy  thận mạn  tính, COPDcần phẫu 
thuật  tim  chiếm một  tỉ  lệ  khá  cao.  Khi  phẫu 
thuật các bệnh nhân này, việc hỗ trợ tuần hoàn 
ngắn  hạn  với  BĐXNĐMC  rất  cần  thiết.  Tuy 
nhiên, vấn đề được đặt ra là cần phải dùng bóng 
vào  thời  điểm nào  là  tốt nhất  cho việc hồi  sức 
bệnh nhân. Vì  thế  , chúng  tôi  tiến hành nghiên 
cứu  này  để  xem  liệu  việc  sử  dụng  bóng  sớm 
trước  hoặc  trong  mổ  cho  những  trường  hợp 
bệnh nặng như trên có giúp cải thiện tiên lượng 
so với dùng bóng muộn sau mổ hay không. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đoàn hệ hồi 
cứu và thu thập số liệu từ 200 ca nguy cơ cao từ 
tháng  01/06/2004  đến  31/12/2011được  phẫu 
thuật tim hở tại bệnh viện tim Tâm Đức và Viện 
tim TPHCM (Bảng 1). Bệnh nhân được chia làm 
02 nhóm. Nhóm  được  đặt bóng  IABP  sớm,  có 
nghĩa  là  bệnh  nhân  được  đặt  bóng  chủ  động 
trước mổ vì  tình  trạng  suy  tim nặng, hoặc  đặt 
bóng  trong  khi mổ  vì  khó  cai máy  tuần  hoàn 
ngoài cơ thể. Nhóm được đặt bóng IABP muộn 
là nhóm được đặt bóng tại hồi sức. Nguy cơ cao 
được định nghĩa là có chức năng thất trái trước 
mổ hoặc sau mổ kém (với EF đo được trên siêu 
âm thành ngực hoặc qua thực quản < 30%), đau 
thắt  ngực  không  ổn  định  không  đáp  ứng  với 
điều trị nội khoa hoặc nhồi máu cơ tim < 90 ngày 
trước mổ phẫu thuật phức tạp (mổ bắc cầu chủ 
vành kèm van tim), mổ cấp cứu. 
Phân tích thống kê với phần mềm Stata. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc tính mẫu nghiên cứu 
 Nhóm sớm (n=98) Nhóm muộn (n=102) Giá trị p 
Tuổi (năm)* 49,7 ± 14,6 47,8 ± 16,6 0.383 
Giới ** Nam 
 Nữ 
55 (56,1) 
43 (43,8) 
55 (53,9) 
47 (46,1) 
0,754 
Nhồi máu cơ tim** 20 (20,4) 19 (18,6) 0,751 
Đau thắt ngực** không ổn định 23 (23,4) 18 (17,6) 0,308 
Tăng huyết áp** 31(31,6) 25 (24,5) 0,26 
Đái tháo đường** 16 (16,3) 13 (12,7) 0,47 
 *TB ± ĐLC; **: Số trường hợp (%)   
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 208
Bảng 2: Đặc điểm tim mạch 
Nhóm sớm 
(n=98) 
Nhóm muộn 
(n=102) 
Giá trị p
NYHA * 2,64 ± 0,7 2,7 ± 0,7 0,538 
EuroSCORE 
(TV-K tứ vị) 
7 (6 – 8) 6 (6 – 8) 0,047† 
Tỷ số tim/lồng 
ngực * 0,64 ± 0,1 0,67 ± 0,1 0,053 
Phân suất tống 
máu trước mổ(%) * 26,02 ± 5,5 36,63 ± 8,1 <0,001 
Độ thanh thải 
cầu thận (ml/phút)* 
69,45 ± 22,7 62,81 ± 19,8 0,02 
†Phép kiểm Mann‐Whitney; *TB ± ĐLC 
Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 47 ‐ 49 
tuổi. Trong cả 2 nhóm, tỉ lệ các bệnh nhân có các 
yếu tố nguy cơ tim mạch kèm theo như nhồi 
máu cơ  tim, đau  thắt ngực không  ổn định, 
tiểu đường,  tăng huyết áp, hầu như không 
khác  biệt.  Hầu  hết  những  bệnh  nhân  trong 
nghiên cứu đều suy  tim  trước mổ với phân độ 
NYHA  ≥  3,  EuroSCORE  ≥  6,  và  có  chức  năng 
thận trước mổ tương đối tốt. Đặc biệt EF thất trái 
trong  nhóm  sớm  thấp  hơn  (26%  vs  36%,  p  < 
0,001) (Bảng 2). 
Bảng 3: Đặc điểm phẫu thuật 
Nhóm sớm 
(n=98) 
Số trường hợp 
(%) 
Nhóm muộn 
(n=102) 
Số trường hợp 
(%) 
Giá trị p
Phẫu thuật van 
tim 60 (61,2) 69 (67,6) 0,343 
Phẫu thuật bắc 
cầu chủ vành 25 (25,5) 7 (6,8) <0,001 
Phẫu thuật 
van+bắc cầu chủ 
vành 
13 (13,2) 26 (25,5) 0,029 
Phần  lớn  bệnh  nhân  được  phẫu  thuật  van 
tim và bắc cầu động mạch vành. Trong đó chiếm 
tỉ  lệ nhiều nhất  là phẫu  thuật sửa và/hoặc  thay 
02 van bao gồm van 2 lá và van động mạch chủ 
(60% và 69%), các bệnh nhân mổ bắc cầu động 
mạch vành có hoặc không có kệt hợp với phẫu 
thuật van  tim chiếm    tỷ  lệ  thấp hơn. Tất cả các 
bệnh nhân đều được sử dụng  tuần hoàn ngoài 
cơ  thể  trong  lúc   mổ, với nhiệt độ cơ  thể  trong 
khoảng  từ 300C  đến 370C    tùy  theo phẫu  thuật 
viên. Bảo vệ cơ tim bằng dung dịch tinh thể lạnh 
ngắt  quãng  theo  đường  antegrade  hoặc 
retrograde (Bảng 3) 
Phương tiện: Bóng đối xung nội động mạch 
chủ: chúng tôi sử dụng bóng đối xung nội động 
mạch  chủ  loại  8F  của Datascope  hoặc  7F  của 
Insightra, đặt theo kỹ thuật có sheat hoặc không 
sheat qua ngã động mạch đùi, sau đó kiểm  tra 
lại trên XQ để điều chỉnh vị trí đầu bóng khi có 
điều kiện. Máy bơm bóng là Datascope CS100.  
Bảng 4: Các kết quả nghiên cứu 
 Nhóm sớm (n=98) 
Nhóm muộn 
(n=102) 
Giá trị p
Tử vong tại hồi 
sức** 6 (6,1) 19 (18,6) 0,0075 
Tử vong trong 
vòng 30 ngày** 10 (10,2) 25 (24,5) 0,0078 
Nhiễm trùng sau 
mổ** 26 (26,5) 75 (73,5) <0,001 
Suy thận cấp sau 
mổ** 27 (27,5) 50 (49) 0,002 
Thời gian thở máy 
(TV-KTV) 3 (1 – 7) 9 (6 – 15) <0,001†
Thời gian nằm hồi 
sức (TV-KTV) 7 (4 – 11) 14 (10 – 25) <0,001†
† Phép kiểm Mann‐Whitney; ** Số trường hợp (%) 
Kết quả cho thấy có sự giảm đáng kể về  tử 
vong tại hồi sức (6,1% so với 18,6%, p = 0,0075), 
giảm tử vong trong vòng 30 ngày (10,2% so với 
24,5%,  p  =  0,0078),  giảm  nhiễm  trùng  sau mổ 
(26% so với 73%; p <0,001), giảm tỷ lệ suy thận 
cấp sau mổ ( 27% so với 49%, p = 0,002 ). Tương 
tự, khi so sánh về thời gian thở máy và thời gian 
nằm hồi sức, kết quả phân tích cho thấy có giảm 
có ý nghĩa  thời gian  thở máy  (3 ngày  so với 9 
ngày, p<0,001) và thời gian nằm hồi sức (7 ngày 
so  với  14  ngày,  p<0,001)  ở  nhóm  dùng 
BĐXNĐMC sớm so với nhóm dùng muộn. 
Phân tích nguy cơ tương đối tử vong tại hồi 
sức RR = 0,328 với khoảng tin cậy 95% là 0,137 – 
0,788  ( p = 0,0075  ), điều này có nghĩa  là dùng 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu 209
bóng sớm sẽ giảm được khoảng 67% nguy cơ tử 
vong tại hồi sức. Tương tự,   nguy cơ tương đối 
tử vong 30 ngày sau mổ RR = 0,416 với khoảng 
tin cậy 95%  là 0,211 – 0,82    ( p = 0,0078  ), điều 
này  có nghĩa  là dùng bóng  sớm  sẽ giảm  được 
khoảng  58%  nguy  cơ  tử  vong  trong  vòng  30 
ngày sau mổ. Tuy nhiên, có những yếu tố có thể 
ảnh  hưởng  đến  tử  vong  của  bệnh  nhân  như: 
nhiễm trùng sau mổ, suy thận cấp sau mổ, thời 
gian  tuần  hoàn  ngoài  cơ  thể,  PSTM  trước mổ, 
phân độ EuroSCORE. Vì vậy, các yếu tố này cần 
được  đưa vào phương  trình phân  tích hồi quy 
đa biến để có thể kiểm soát các yếu tố gây nhiễu 
có  thể ảnh hưởng đến  tử vong của bệnh nhân. 
Kết quả phân  tích  cho  thấy,  sau khi kiểm  soát 
các yếu tố nhiễm trùng sau mổ suy thận cấp sau 
mổ,  thời gian  tuần hoàn ngoài cơ  thể, EF  trước 
mổ và phân độ EuroSCORE, việc đặt bóng sớm 
làm giảm khoảng 68% nguy cơ  tử vong  tại hồi 
sức với RR = 0,325 với khoảng tin cậy 95% là 0,11 
– 0,95 ( p = 0,042 ), và giảm 58% nguy cơ tử vong 
trong vòng 30 ngày sau mổ với RR = 0,418 với 
khoảng  tin cậy 95%  là 0,18 – 0,95    ( p = 0,039  ) 
(Bảng 5) 
Bảng 5: Nguy cơ tương đối (RR) về tử vong 
Đặt sớm so với 
đặt muộn 
Tử vong tại hồi 
sức 
Tử vong trong 30 
ngày 
RR đơn biến 
(KTC 95%) 
0,328 
(0,13 – 0,78 
0,416 
(0,21 – 0,82) 
Giá trị p 0,0075 0,0078 
RR đa biến 
(KTC 95%) 
0,325 
(0,11 – 0,95) 
0,418 
(0,18 – 0,95) 
Giá trị p 0,042 0,039 
Bên  cạnh  đó,  việc  dùng  bóng  sớm  cũng 
không  làm  tăng  nguy  cơ  mắc  phải  các  biến 
chứng do bóng, với  tỷ  lệ biến chứng ở 2 nhóm 
không khác biệt ( 3% so với 6% với p = 0,499). Có 
3 biến chứng gặp phải là: thiếu máu cục bộ chi, 
nhiễm  trùng  chân  bóng  và  giảm  tiểu  cầu,  tuy 
nhiên  phân  tích  cho  thấy  không  có  khác  biệt 
giữa 2 nhóm về các biến chứng (Bảng 6).   
Bảng 6: Các biến chứng của BĐXNĐMC 
 Nhóm sớm 
(n=98) 
Số trường 
hợp (%) 
Nhóm muộn 
(n=102) 
Số trường 
hợp (%) 
Giá trị p
Thiếu máu cục bộ 
chi 2 (2) 1 (1) 0,58 
Nhiễm trùng chân 
catheter 1 (1) 0 0,32 
Giảm tiểu cầu 3 (2,9) 2 (2) 0,68 
Biến chứng chung 6 (5,8) 3 (3) 0,49 
BÀN LUẬN 
Nhóm đặt bóng sớm rút ngắn đáng kể  thời 
gian  thở máy. Trước  đây, khi bệnh nhân  chưa 
được dùng bóng BĐXNĐMC, chúng tôi thường 
phải duy trì máy thở cho bệnh nhân đến khi nào 
thấy  cải  thiện  chức năng  tim  trên  lâm  sàng và 
trên siêu âm, khi đó mới cai máy thở. Bởi lẽ, như 
chúng ta đều biết, khi bệnh nhân thở máy, công 
của tim được giảm đi 1 cách đáng kể, nhờ đó tim 
có cơ hội để hồi phục chức năng. Nhưng nhiều 
tác  giả(11)  cũng  chứng minh  rằng  bệnh  nhân  ở 
hồi sức  thở máy  trên 48 giờ  thì nguy cơ nhiễm 
trùng phổi  cũng  gia  tăng  1  cách  đáng  kể  theo 
thời  gian  thở  máy.  Nghiên  cứu  của  tác  giả 
Jayshree(9) cho thấy thời gian thở máy trung bình 
ở nhóm đặt bóng sớm là 1 ngày, còn nhóm đặt 
bóng muộn là hơn 4 ngày ( 99 giờ). Nghiên cứu 
của  tác giả Arafa(2) cho  thấy  thời gian  thở máy 
trung  bình  của  những  bệnh  nhân  có  đặt 
BĐXNĐMC  là  5,38  ±  4  ngày.   Khi dùng  bóng 
chủ động,  chúng  tôi  cố gắng  cai máy  thở  sớm 
cho  bệnh  nhân mà  không  sợ  ảnh  hưởng  đến 
chức năng thất trái, vì bóng đối xung là 1 trong 
những phương tiện hỗ trợ thất trái rất hiệu quả. 
Việc cai  thở máy sớm rất có ý nghĩa  trong việc 
phòng ngừa và kiểm soát viêm phổi thở máy đối 
với bệnh nhân nằm hồi sức.  
Ở  nhóm  sử  dụng  bóng  sớm  nhiễm  trùng 
cũng giảm 1 cách rõ rệt (26%)  so với nhóm dùng 
bóng   muộn  là 73%  (p < 0,001). Nhiễm  trùng ở 
đây chúng tôi định nghĩa là những ca có kết quả 
cấy  định  danh  được  vi  trùng  (  cấy  đàm,  cấy 
máu, cấy chân catheter, chân điện cực). Điều 
này có được  là do chủ động rút ngắn thời gian 
thở máy, cho bệnh nhân ngồi dậy ( mặc dù còn 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Ngoại Khoa 210
đang dùng BĐXNĐMC ), ho khạc, vận động và 
tập vật lý trị liệu sớm, kết hợp với thường xuyên 
chăm  sóc những vị  trí  xâm  lấn dễ  có nguy  cơ 
nhiễm  trùng như chân catheter, điện cực Tác 
giả  Jayshree  và  cộng  sự(9)  tiến  hành  phân  tích 
trên  2  nhóm  bệnh  nhân  có  dùng  BĐXNĐMC 
trước mổ  và  sau mổ,  tỷ  lệ  viêm  phổi  ở  nhóm 
dùng BĐXNĐMC trước mổ là 10% so với nhóm 
dùng BĐXNĐMC sau mổ là 25% (p = 0,045). Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho kết quả 
tương đồng.  
Chúng tôi thấy có sự cải thiện có ý nghĩa về 
suy  thận cấp sau mổ giữa nhóm đặt bóng sớm 
và nhóm đặt bóng muộn ( 27% so với 49%, p = 
0,002  ).  Điều  trị  suy  thận  cấp  sau mổ  thường 
phải kết hợp nhiều yếu  tố như: cải  thiện huyết 
động, cải  thiện cung  lượng  tim, giảm  thiểu các 
tác nhân gây  độc  cho  thận, bên  cạnh việc  tiến 
hành  thẩm  phân  phúc mạc  hoặc  lọc  thận  liên 
tục.  Trên  thực  tế,  khi  không  có  hỗ  trợ  của 
BĐXNĐMC, việc cải  thiện huyết động chủ yếu 
dựa  vào  thuốc  vận  mạch,  nhưng  1  số  trong 
những thuốc này ( ví dụ: noradrenaline) lại làm 
giảm  tưới máu  thận, do đó  tình  trạng suy  thận 
cấp  sẽ  lâu hồi phục. Khi  có bóng  đối  xung hỗ 
trợ,  huyết  động  được  cải  thiện  khá  tốt,  cung 
lượng  tim  mau  hồi  phục  hơn,  bên  cạnh  việc 
dùng  ít  thuốc vận mạch và với  liều  thấp, đó  là 
những yếu tố góp phần giúp cải thiện tình trạng 
suy thận cấp sau mổ.  
Việc  rút ngắn  thời gian  thở máy, giảm  tỉ  lệ 
nhiễm  trùng, giảm bớt  tình  trạng suy  thận cấp 
sau mổ,  giảm  thời  gian dùng  thuốc  vận mạch 
sau mổ, vật lý trị liệu sớm như đã trình bày ở 
trên sẽ rút ngắn thời gian nằm hồi sức của bệnh 
nhân. Nhóm đặt bóng sớm có thời gian nằm hồi 
sức trung bình là 7 ngày, so với nhóm đặt bóng 
muộn    là  14  ngày  (  với  p  <  0,001  ).  Tác  giả 
Jayshree  và  cộng  sự(9)  trong  nghiên  cứu  của 
mình đã cho  thấy  thời gian nằm hồi  sức  trung 
bình ở nhóm dùng bóng sớm là 3,5 ngày so với 
6,5  ngày  ở  nhóm  dùng  bóng  muộn.  Tác  giả 
Karimi(10)  phân  tích  475  bệnh  nhân  có  đặt 
BĐXNĐMC  chứng  tỏ  rằng  thời  gian  nằm  hồi 
sức  trung bình  là  12,52  ±  0,91 ngày. Thời  gian 
nằm hồi sức rút ngắn sẽ  làm giảm đáng kể chi 
phí  điều  trị  cho  các bệnh nhân nặng,  trong  đó 
phải kể đến chi phí do dùng thuốc vận mạch và 
thuốc kháng sinh. Giảm  thời gian nằm hồi  sức 
và  nằm  viện  còn  giúp  giảm  nguy  cơ  nhiễm 
trùng bệnh viện cho bệnh nhân, giúp bệnh nhân 
có cơ hội hồi phục  nhanh hơn.  
Về  tử vong,  có  thể  lý giải  rằng  sau khi  đã 
kiểm soát các yếu tố gây  nhiễu như nhiễm trùng 
sau mổ,  suy  thận  cấp  sau mổ,  thời  gian  tuần 
hoàn ngoài  cơ  thể    thì viêc dùng bóng  sớm  sẽ 
giảm được nguy cơ tử vong tại hồi sức là 65% và 
giảm 59% nguy cơ tử vong trong vòng 30 ngày 
đầu sau mổ, sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt 
thống kê. Nghiên cứu của tác giả Barron và cộng 
sự(3)  trên 23180 bệnh nhân nhồi máu  cơ  tim bị 
sốc tim, trong đó có 7268 bệnh nhân được dùng 
BĐXNĐMC cho thấy tỉ lệ tử vong sớm ở nhóm 
bệnh  nhân  được  điều  trị  tiêu  sợi  huyết  và  và 
dùng  BĐXNĐMC  là  49%,  trong  khi  đó  ở  các 
bệnh nhân không dùng bóng là 67% ( p < 0,001 ). 
Một nghiên  cứu phân  tích gộp  trên  1034 bệnh 
nhân có đặt bóng và 1329 bệnh nhân không có 
đặt bóng trước khi phẫu thuật bắc cầu chủ vành 
của  tác giả Adel và cộng  sự(1) cho  thấy việc  sử 
dụng  BĐXNĐMC  trước  mổ  giúp  giảm  được 
đáng kể tỉ lệ tử vong trong giai đoạn hậu phẫu ở 
những bệnh nhân có nguy cơ cao. Feola và cộng 
sự(7) đã ghi nhận trong số lượng bệnh nhân được 
mổ bắc cầu chủ vành có chức năng thất trái thấp, 
các bệnh nhân được đặt bóng BĐXNĐMC trước 
mổ có tỉ lệ nhồi máu cơ tim và tử vong sau mổ 
thấp hơn 1 cách đáng kể so với nhóm không có 
BĐXNĐMC. Nhiều nghiên cứu gần đây cũng đã 
chứng minh hiệu quả rõ rệt của việc dùng bóng 
BĐXNĐMC trước mổ. Trong 1 nghiên cứu đoàn 
hệ về nhồi máu cơ tim cần phải mổ bắc cầu chủ 
vành,  Creswell  và  cộng  sự(5)  đã  chứng  minh 
khuynh  hướng  dùng  bóng  BĐXNĐMC  trước 
mổ có thể làm giảm tỉ lệ bệnh tật và tử vong giai 
đoạn sau mổ. Một nghiên cứu đoàn hệ khác của 
Dietl và cộng sự(6) chứng minh  lợi  ích sống còn 
của việc dùng bóng BĐXNĐMC  trước mổ  trên 
những bệnh nhân  có phân  suất  tống máu  thất 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học
Phẫu Thuật Lồng Ngực Tim  – Mạch máu 211
trái  EF  trước  phẫu  thuật  nhỏ  hơn  25%.  Thêm 
vào đó, các tác giả còn chọn ra nhiều yếu tố dự 
đoán cho việc cần  thiết sử dụng bóng  trong và 
sau mổ trên những bệnh nhân này như: mổ lại, 
đau  thắt ngực không ổn định, hẹp  thân chung, 
nhồi máu  cơ  tim  cấp  trong vòng 7 ngày, bệnh 
nhân có NYHA  III‐IV. Điều này chứng  tỏ  rằng 
các bệnh nhân bắc  cầu  chủ vành  có phân  suất 
tống máu  dưới 25% và 1 hay nhiều hơn các yếu 
tố  kể  trên  là  những  bệnh  nhân  cần  được  đặt 
bóng trước mổ.   
Những  yếu  tố  bất  lợi  lớn  của  việc  dùng 
BĐXNĐMC là các biến chứng của bóng. Xét về 
các biến chứng, dùng bóng có thể sẽ có 3 nhóm 
biến  chứng  chính  như  sau:  biến  chứng mạch 
máu,  biến  chứng  nhiễm  trùng  và  biến  chứng 
giảm tiểu cầu(8, 12). Trong 2 nhóm bệnh nhân của 
chúng  tôi,  tỉ  lệ  các biến  chứng gặp phải  tương 
đối  thấp và không có sự khác biệt về  tỉ  lệ biến 
chứng  giữa  2  nhóm  (3  ca  ở  nhóm  dùng  bóng 
sớm chiếm 3% so với 6 ca chiếm 5,8%  ở nhóm 
còn  lại, p = 0,499 ),  trong đó chúng  tôi gặp chủ 
yếu là biến chứng giảm tiểu cầu 5 ca ( có thể do 
bóng  hoặc  do  sử  dụng Heparin  ),  3  ca  nhiễm 
trùng do bóng, chỉ có 1 trường hợp bệnh nhân bị 
thiếu máu cục bộ ở chân có dùng bóng. Trong 1 
nghiên cứu  tiến cứu mới đây  trên  tổng số 1119 
bệnh nhân có sử dụng bóng đối xung nội động 
mạch chủ, Cohen và cộng sự(4) đã báo cáo  tỉ  lệ 
biến chứng  là 15% với 46 bệnh nhân cần phẫu 
thuật vì biến chứng, và chỉ có 5 ca chết do biến 
chứng.  
KẾT LUẬN 
Qua  nghiên  cứu  này,  chúng  tôi  nhận  thấy 
hiệu quả  của việc  sử dụng bóng  đối  xung nội 
động mạch  chủ  sớm  và  chủ  động  cho  những 
trường hợp cần phải phẫu  thuật  tim nhưng  có 
nguy cơ cao là tốt. Việc sử dụng bóng theo chiến 
lược như vậy không những giúp giảm  tỉ  lệ  tử 
vong, mà còn rút ngắn thời gian điều trị 1 cách 
đáng kể. Mặc dù đây chỉ là 1 nghiên cứu với số 
bệnh  nhân  còn  hạn  chế,  thiết  nghĩ  rất  cần  có 
những nghiên  cứu  lớn và  toàn diện hơn  trong 
việc sử dụng thích hợp bóng đối xung nội động 
mạch chủ, qua đó giúp cho nhiều bệnh nhân có 
cơ hội hồi phục tốt hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adel MD, Richard PW, Lalib LA, et al  (2008)  ʺPreoperative 
IABP in patients undergoing CABG: Asystematic review and 
meta analysisʺ. J Card Surg, 23, 79‐86. 
2. Arafa O, Pedersen T, Svennevig  J, Fosse E, Geiran O  (1998) 
ʺIntraaortic balloon pump  in open heart operations: 10 year 
follow‐up with risk analysisʺ. Ann Thorac Surg 65, 741–7. 
3. Barron HV, Every NR, Parsons LS,  et al  (2001)  ʺThe use of 
IABP  in patients with  cardiogenic  shock  complicating acute 
myocardial  infraction:  data  from  the  National  Registry  of 
Myocardial Infraction ‐ 2ʺ. Am Heart J, 141, 933‐939. 
4. Cohen M, Dawson M, Kopistansky C, McBride R (2000) ʺSex 
and  other  predictors  of  intra‐aortic  balloon 
counterpulsationrelated  complications:  prospective  study  of 
1119 consecutive patientsʺ. Am Heart J 139, (56), 282–7.  
5. Creswell  L,  Moulton  M,  Cox  J,  Rosenbloom  M  (1995) 
ʺRevascularization  after  acute  myocardial  infarctionʺ.  Ann 
Thorac Surg, 60, 19–26.  
6. Dietl C, Berkheimer M, Woods E, Gilbert C, Pharr W, Benoit 
C (1996) ʺEfficacy and cost‐effectiveness of preoperative IABP 
in patients with ejection  fraction of 0.25 or  lessʺ. Ann Thorac 
Surg 62, 401‐409. 
7. Feola  M,  Wiener  L,  Walinsky  P,  et  al  (1977)  ʺImproved 
survival after coronary bypass surgery in patients with poor 
left  ventricular  function:  role  of  intraaortic  balloon 
counterpulsionʺ. Am J Cardiol, 39, 1021–6. 
8. Isner J, Cohen S, Virmani R, Lawrinson W, Roberts W (1980) 
ʺComplications  of  the  intra‐aortic  balloon  counterpulsation 
device: clinical and morphologic observations in 45 necropsy 
patientsʺ. Am J Cardiol 45, (57), 260–8. 
9. Jayshree  D.  LavanaMBBS,  John  F.  Fraser,  Susan  E.  Smith, 
Lesley  Drake,  Peter  Tesar,  Daniel  V.  Mullany  (2010) 
ʺInfluence  of  timing  of  intraaortic  balloon  placement  in 
cardiac  surgical  patientsʺ.  The  Journal  of  Thoracic  and 
Cardiovascular Surgery, 140, (1), 80‐85. 
10. Karimi A, Movahedi N, Salehiomran A, et al (2008) ʺMortality 
in  open  heart  surgery  with  intra  ‐  aortic  balloon  pump 
supportʺ. Asian Cardiovasc Thorac Ann, 16, 301‐304.  
11. Mastropierro  R,  Bettinzoli  M,  Bordonali  T,  et  al  (2009) 
ʺPneumonia  in  a  Cardiothoracic  Intensive  Care  Unit: 
Incidence  and  Risk  Factorsʺ.  Journal  of  Cardiothoracic  and 
Vascular Anesthesia, 23, (6 (December)), 780‐788. 
12. Sirbu H, Busch T, Aleksic  I, Friedrich M, Dalichau H  (2000) 
ʺIschemic  complications  with  intra‐aortic  balloon 
counterpulsation:  incidence  and  managementʺ.  Cardiovasc 
Surg 8, (58), 66–71. 
Ngày nhận bài báo:       01/11/2013 
Ngày phản biện nhận xét bài báo:   29/11/2013 
Ngày bài báo được đăng :     05/01/2014 

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_su_dung_bong_doi_xung_noi_dong_mach_chu_som_tren_ca.pdf