Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi điều chỉnh lợi nhuận: Tổng quan và mô hình nghiên cứu dự kiến
Bài viết này đề xuất mô hình dự kiến về tác
động của hiệu quả quản trị doanh nghiệp đến
hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua lược
khảo tất cả nghiên cứu trước và các lý thuyết
về hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Bài viết cung
cấp tổng quan cơ bản cho các nhà quản lý
hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông
qua hoạt động quản trị doanh nghiệp, đồng
thời gia tăng hoạt động của quản trị doanh
nghiệp với mục tiêu nâng cao chất lượng báo
cáo tài chính. Bài viết căn cứ vào các bằng
chứng thực nghiệm nghiên cứu trước, với lập
luận riêng cho rằng hiệu quả quản trị doanh
nghiệp thông qua hai yếu tố hội đồng quản trị
và ban kiểm soát có tác động tiêu cực làm hạn
chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể hội
đồng quản trị với quy mô nhỏ, thành viên độc
lập nhiều, có kinh nghiệm về tài chính và họp
thường xuyên thì hiệu quả giám sát càng cao;
ban kiểm soát với nhiều thành viên, đa số độc
lập, có kinh nghiệm về tài chính và hoạt động
tích cực hơn làm gia tăng hiệu quả giám sát,
hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi điều chỉnh lợi nhuận: Tổng quan và mô hình nghiên cứu dự kiến
45 HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP VÀ HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN: TỔNG QUAN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU DỰ KIẾN Ngô Nhật Phương Diễm* TÓM TẮT Bài viết này đề xuất mô hình dự kiến về tác động của hiệu quả quản trị doanh nghiệp đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua lược khảo tất cả nghiên cứu trước và các lý thuyết về hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Bài viết cung cấp tổng quan cơ bản cho các nhà quản lý hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua hoạt động quản trị doanh nghiệp, đồng thời gia tăng hoạt động của quản trị doanh nghiệp với mục tiêu nâng cao chất lượng báo cáo tài chính. Bài viết căn cứ vào các bằng chứng thực nghiệm nghiên cứu trước, với lập luận riêng cho rằng hiệu quả quản trị doanh nghiệp thông qua hai yếu tố hội đồng quản trị và ban kiểm soát có tác động tiêu cực làm hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Cụ thể hội đồng quản trị với quy mô nhỏ, thành viên độc lập nhiều, có kinh nghiệm về tài chính và họp thường xuyên thì hiệu quả giám sát càng cao; ban kiểm soát với nhiều thành viên, đa số độc lập, có kinh nghiệm về tài chính và hoạt động tích cực hơn làm gia tăng hiệu quả giám sát, hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Từ khóa: quản trị doanh nghiệp, điều chỉnh lợi nhuận, hội đồng quản trị, ban kiểm soát THE EFFECTIVENESS OF CORPORATE GOVERNANCE AND EARNINGS MANAGEMENT: LITERATURE REVIEW AND PROPOSED FRAMEWORK ABSTRACT This paper proposes a model of the impact corporate governance effectiveness to earnings management through a literature review of all prior research and theories of behavior of earnings management. The article provides a basic overview for managers to limit the earnings management through corporate governance while increasing the performance of corporate governance with the aim establishing a high level of financial reporting’s quality. The paper is based on previous empirical research evidence, with individual arguments that the effectiveness of corporate governance through two factors that are the boards of directors and the audit committees which affects and limits the earnings management in a negative way. The boards of directors who are smaller in size, have more independent directors, are equipped with financial expertise and frequent meetings are effective in their monitoring role. In the same way, audit committees who are with more members, mostly independent, more financial expertise and more active are suggested to have a higher oversight function and earnings management will be limited. Keywords: corporate governance, earnings management, boards of director, audit committees. * ThS. Giảng viên khoa Kế toán-Kiểm toán, trường Đại học Tài chính Marketing, ĐT: 0914308588 Email: ngodiem@ufm.edu.vn; Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ... 46 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. GIỚI THIỆU Hiện nay các vấn đề về quản trị doanh nghiệp (QTDN) và điều chỉnh lợi nhuận đều đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ chính phủ, tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán viên cũng như sự quan tâm của công chúng. Đặc biệt từ sau sự sụp đổ hay sự bê bối của các công ty hàng đầu như Enron, Worldcom thì các câu hỏi về vai trò giám sát của Hội đồng quản trị (HĐQT), Ban kiểm soát (BKS) đối với thông tin trên báo cáo tài chính như thế nào? Theo nghiên cứu của Defond và Francis (2005) cho rằng chính sự sụp đổ của các doanh nghiệp cần phải có góc nhìn mới về QTDN. Hơn nữa các nhà quản lý cũng tin rằng hiệu quả của hoạt động QTDN chính là hiệu quả của hội đồng quản trị, Ban kiểm soát mang lại lợi ích cho cổ đông, tạo sự tin tưởng của các cổ đông. Để ra các quyết định của mình, các cổ đông hoàn toàn dựa vào thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC), chính vì thế họ hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động giám sát của HĐQT đối với ban giám đốc, và vì thế hiệu quả giám sát của HĐQT càng cao thì chất lượng BCTC càng cao. Trong hầu hết các nghiên cứu trước đây (Abbott & Parker 2000; Chen và cộng sự, 2005) đều tập trung vào vai trò của BKS trong việc đảm bảo tính trung thực của thông tin tài chính và trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến kiểm toán độc lập bên ngoài. Tuy nhiên với điều kiện là HĐQT có quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm các thành viên trong BKS cũng như thành viên kiểm toán thuê ngoài và vai trò của HĐQT cũng rất to lớn trong việc nâng cao chất lượng thông tin tài chính trên BCTC. Một số nghiên cứu của Boo &Sharma (2008); Cohen et al (2002); Collier & Gregory (1996); Menor & Willianes (1994) cho rằng hiệu quả của BKS phụ thuộc vào thành phần, đặc điểm của HĐQT. Vì vậy bài viết này đề cập đến vai trò giám sát của HĐQT và BKS được lập luận là rất quan trọng để nâng cao chất lượng của BCTC hay là những nhân tố làm hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Bài viết này tổng hợp lại các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về hiệu quả của QTDN (QTDN) tác động đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận với kết quả dự kiến của tác giả là các công ty có hoạt động của HĐQT và BKS càng hiệu quả thì khả năng hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận càng lớn và phù hợp với những kết luận từ các nghiên cứu của Carcello et al (2002). 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TRƯỚC 2.1. Quản trị doanh nghiệp Có rất nhiều định nghĩa về QTDN nhưng những nghiên cứu hiện nay cho rằng không có một định nghĩa chính xác nào về QTDN (Solomon, 2007). Cụ thể theo định nghĩa của Cadbury (1992, trang 15) QTDN: “là một hệ thống mà ở đó công ty được kiểm soát và điều hành”. Cũng theo tác giả này thì định nghĩa này thể hiện rất rõ vai trò của các bên trong công ty đó là: (1) cổ đông có trách nhiệm đề bạt giám đốc, kiểm toán viên và đảm bảo hệ thống quản trị phù hợp; (2) giám đốc có chức năng điều hành công ty và (3) kiểm toán viên có vai trò cung cấp sự kiểm tra độc lập về thông tin trên báo cáo tài chính cho cổ đông. Solomon (2007, trang 14) định nghĩa QTDN là “hệ thống kiểm soát sự cân bằng cả bên trong và bên ngoài công ty, có trách nhiệm giải trình cho tất cả các bên liên quan và hành động có trách nhiệm đối xã hội trong lĩnh vực kinh doanh của mình”. Trong khi đó Shleifer &Vishny (1997, trang 737) mô tả về QTDN “ giải quyết các yêu cầu của các nhà đầu tư tài chính vào công ty với mức lợi nhuận mong muốn” tương đồng với định nghĩa của Denis (2001, trang 192) “ QTDN là tập hợp tất cả đặc điểm thể chế thị trường để nhà quản lý tự tin tối đa lợi ích dòng tiền mang lại đứng từ góc độ các cổ đông”. 47 Như vậy có khá nhiều định nghĩa, giải thích về QTDN ở nhiều khía cạnh và lý thuyết khác nhau. Đó là (1) Quản trị doanh nghiệp với mục đích tối đa lợi nhuận cho cổ đông (Cadbury, 1992; Shleifer và Vishny, 1997; Denis, 2001) bị chi phối bởi lý thuyết cơ quan; (2) QTDN ngoài mục đích tối đa hóa sự giàu có của các cổ đông thì QTDN còn quan tâm đến vấn đề xã hội và môi trường (Solomon, 2007) theo lý thuyết đại diện. Bài viết này chỉ đề cập đến hoạt động QTDN đối với chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính. Như vậy trọng tâm của bài viết là xem xét tác động của QTDN đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận chứ không phải xem xét tác động của QTDN đến môi trường và xã hội. 2.1.1. Vai trò của QTDN và chất lượng báo cáo tài chính Sự thành công của doanh nghiệp có đóng góp một phần rất quan trọng của HĐQT, họ là những người chịu trách nhiệm thiết lập mục tiêu, chiến lược và giá trị của công ty để phù hợp với mục tiêu của cổ đông. Hơn nữa họ còn chịu trách nhiệm về sự minh bạch và trung thực của các số liệu trên BCTC. Theo quy định hiện hành, số liệu BCTC muốn công bố cho các cổ đông sử dụng thì phải được kiểm toán bởi các kiểm toán độc lập bên ngoài hay nói cách khác thì HĐQT phải chịu trách nhiệm cho tất cả hoạt động, chiến lược và tình hình tài chính của công ty bao gồm cả những chi nhánh của công ty. BKS là một bộ phận của HĐQT và được thiết lập bởi HĐQT, BKS có mối quan hệ với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Theo Wolnieder (1995) tranh cãi về 3 nhiệm vụ quan trọng của BKS như sau: (1) Xem xét BCTC; (2) Cung cấp các khuyến nghị cho các kiểm toán viên bên ngoài, đánh giá mức phí kiểm toán, đánh giá kế hoạch kiểm toán, đảm bảo tính độc lập của kiểm toán viên và phân bổ nguồn lực cho các thành viên nội bộ; (3) Tạo thuận lợi cho mối quan hệ giữa HĐQT và kiểm toán viên độc lập, xem xét và tuân thủ chính sách đạo đức, quy tắc ứng xử của công ty. Các nhà quản lý doanh nghiệp cho rằng khi BKS thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của mình theo nghiên cứu của Wolnieder (1995) kỳ vọng tăng tính tín nhiệm, tăng độ tin cậy của các số liệu trên báo cáo tài chính, nâng cao hiệu quả quản lý, tăng hiệu quả giám sát của kiểm soát nội bộ, tăng cường vai trò và nâng cao hiệu quả của HĐQT. Hay nói chun, khi BKS thực hiện đầy đủ 3 nhiệm vụ thì có thể cải thiện được hoạt động QTDN và tăng cao chất lượng BCTC. Tương tự vào năm 1994, Menon và Williams (1994) cho rằng việc thành lập BKS sẽ tạo ra hai thuận lợi to lớn cho hoạt động QTDN cụ thể: (1) Các thành viên độc lập của BKS có thể đánh giá độc lập chức năng của kiểm toán viên nội bộ cũng như dịch vụ kiểm toán bên ngoài nên làm gia tăng tính minh bạch và trung thực của báo cáo tài chính; (2) BKS gia tăng hiệu quả hoạt động của HĐQT. Hơn nữa theo The Blue Ribbon Committees (1999, trang 19) thừa nhận việc thành lập BKS làm gia tăng uy tín của BCTC và tăng sự tin tưởng của nhà đầu tư, cụ thể “BKS có hiệu quả trong việc gia tăng tính minh bạch và trung thực của BCTC và do đó duy trì niềm tin của nhà đầu tư nên thị trường chứng khoán của chúng tôi gia tăng tốt nhất và thanh khoản nhất” 2.1.2. Vai trò giám sát của QTDN HĐQT ra các quyết định chủ yếu cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và họ có đủ quyền lực để giải quyết toàn bộ các quyết định của các nhà quản lý cấp cao (Fama và Jensen (1983)). Hơn nữa khi HĐQT ra các quyết định từ lúc ban đầu cho đến thực hiện nên tách biệt 2 chức năng Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ... 48 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật phê chuẩn và giám sát của một quyết định nhằm đảm bảo tính hiệu quả chức năng giám sát của HĐQT. Lý thuyết đại diện cho rằng để đảm bảo tính hiệu quả của chức năng giám sát, thành viên HĐQT nên có một thành viên độc lập từ bên ngoài (thành viên độc lập là thành viên không tham gia điều hành) độc lập hoàn toàn với hoạt động quản lý và thành viên này có khả năng thực hiện vai trò giám sát với hiệu quả cao (Dalton et al (1998)). Các thành viên độc lập không tham gia điều hành thường là các chuyên gia trong từng lĩnh vực, có thể phát huy những thế mạnh chuyên môn trong việc kiểm soát việc đưa ra các quyết định và giám sát việc thực hiện các quyết định của ban điều hành (Fama và Jensen (1983)). Để nâng cao tính hiệu quả của QTDN, ngoài yêu cầu cần có thành viên độc lập không tham gia điều hành trong HĐQT và BKS thì các nghiên cứu thực nghiệm (Carcello và cộng sự, 2002; Abbott và cộng sự, 2003; Abbott và cộng sự, 2004; Chen &Zhou, 2007; Krishnan &Lee, 2009; Ronen &Yaari, 2008) đề nghị quy mô, kiến thức, kinh nghiệm, tần suất họp làm gia tăng vai trò giám sát của HĐQT và BKS tương thích với đề nghị của Zahra & Pearce (1983) và Walker (2004). 2.2. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận Theo các quy định của GAAP (những nguyên tắc kế toán được chấp nhận) nhà quản lý có thể lựa chọn các ước tính và các giả định theo quy định của luật pháp để áp dụng phù hợp với tình hình kinh doanh của riêng doanh nghiệp mình. Chính vì vậy tạo cơ hội cho các nhà quản lý thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận (Walt và Zimmerman, 1990; Fields et al, 2001), do đó nhà đầu tư, chủ nợ không thể đánh giá chính xác tình hình tài chính thực của công ty. Có khá nhiều định nghĩa về hành vi điều chỉnh lợi nhuận (earnings management) như định nghĩa của (Schipper, 1989) cho rằng “Hành vi điều chỉnh lợi nhuận được coi là hành động có mục đích đối với quy trình lập và trình bày báo cáo tài chính nhằm đạt được các lợi ích cá nhân”. Hơn 10 năm sau, hai nhà nghiên cứu Healy và Wahlen (1999) đã định nghĩa hành vi điều chỉnh lợi nhuận với phạm vi rộng rãi hơn “Hành vi điểu chỉnh lợi nhuận xuất hiện khi nhà quản lý dùng các xét đoán của mình trên báo cáo tài chính và trong cấu trúc các sự kiện giao dịch kinh tế phát sinh nhằm làm thay đổi BCTC, làm cho các đối tượng có liên quan hiểu sai về tình trạng hoạt động của DN”. Tuy nhiên theo hai định nghĩa này thì hành vi điều chỉnh lợi nhuận được xem xét là hành động của nhà quản lý nhằm gây ra nhầm lẫn cho đối tượng sử dụng BCTC về tình hình kinh doanh của DN. Do vậy định nghĩa này chưa thể hiện đầy đủ các vấn đề về hành vi chi phối lợi nhuận. Vào năm 2008, với nghiên cứu của Ronen và Yaari (2008, trang 27) đã định nghĩa hành vi điều chỉnh lợi nhuận “là tập hợp các quyết định quản lý mà kết quả sẽ dẫn đến không phản ánh đúng lợi nhuận thực trong ngắn hạn, có tính chất tối đa hóa giá trị doanh nghiệp mà nhà quản lý đã biết về chúng. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận có thể là mang lại lợi ích (cung cấp tín hiệu về giá trị trong dài hạn), nguy hại (che giấu giá trị ngắn hạn hoặc dài hạn) hoặc trung tính (che giấu giá trị ngắn hạn hoặc dài hạn)” Như vậy, định nghĩa này không chỉ bao gồm hai loại hành vi chi phối lợi nhuận kế toán (chi phối thông qua việc lựa chọn chính sách kế toán hay biến dồn tích và chi phối thông qua các hoạt động kinh tế) mà còn bao gồm cả các quyết định quản lý khác nhằm trình bày lợi nhuận khác với lợi nhuận thực sự theo hiểu biết của nhà quản lý. Đồng 49 thời, định nghĩa này cũng bao gồm cả hành vi chi phối lợi nhuận kế toán nhằm mục đích gây nhầm lẫn hoặc cung cấp thông tin sai lệch cho người sử dụng báo cáo tài chính. Nhà quản lý thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận vì nhiều lý do như tiền lương, thưởng (Healy, 1985; Gaver và cộng sự, 1995; Holthausen và cộng sự, 1995; Murphy, 1999), tránh vi phạm các cam kết nợ (Sweeney, 1994), tăng lợi nhuận và ngăn chặn lỗ (Bugstahler và Dichev, 1997), bù đắp các chi phí theo quy định (Cahan, 1992; Han và Wang, 1998). Theo Murphy (1999) tiền lương có mối quan hệ chặt chẽ với quy mô doanh nghiệp. Thông thường, nhà quản lý ký hợp đồng lao động với các nhà quản trị với các điều khoản được trình bày chi tiết và rõ ràng các khoản mà nhà quản lý nhận được. Đồng thời theo nghiên cứu của Gao và Shrieves (2002) cũng đã chỉ ra mối quan hệ giữa lương và hành vi chi phối lợi nhuận kế toán. Theo nghiên cứu của Healy (1995), Gaver (1995) và các tác giả khác thì tiền thưởng có tác động đến hành vi chi phối lợi nhuận kế toán. Nhà quản lý có xu hướng làm tăng tối đa các khoản thưởng họ được nhận bằng cách điều chỉnh kết quả hoạt động kinh doanh. Đồng ý kiến trên còn có nghiên cứu của Gao và Shrieves (2002). Tóm lại, những nghiên cứu này cho thấy kế hoạch thưởng tạo động cơ cho các nhà quản lý tác động đến lợi nhuận kế toán để tối đa các khoản thưởng được hưởng. Trong khi đó nghiên cứu của Sweeney (1994) phát hiện nhà quản lý của những công ty có nguy cơ vi phạm các cam kết nợ có khả năng báo cáo thêm các khoản thu nhập để bù đắp các khoản nợ đến hạn thanh toán. Theo Burgstahler and Dichev (1997) nhà quản lý có xu hướng che giấu các khoản lỗ vì điều này tác động đến nhà đầu tư rất lớn, tâm lý nhà đầu tư luôn thích công ty kinh doanh có lãi. Việc trình bày các khoản lãi hay lỗ trên báo cáo tài chính có khuynh hướng ảnh hưởng đến thị giá cổ phiếu (Hayn, 1995). Ngoài ra nếu doanh nghiệp không đạt được kỳ vọng của thị trường thì có thể gây tác động tiêu cực lên giá cổ phiếu chính vì vậy lợi nhuận của công ty có thể bị chi phối để đạt theo hướng mong muốn mà chuyên chuyên phân tích tài chính đã dự báo (Kinney và cộng sự, 2002; Louis, 2004) Tóm lại, từ bằng chứng nghiên cứu thực nghiệm trên cho thấy nhà quản lý với các động cơ của riêng mình đã tác động đến các chính sách kế toán hay hoạt động kinh tế để điều chỉnh lợi nhuận theo mong muốn. Vì vậy yêu cầu về vai trò giám sát của HĐQT và BKS đặt ra để hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. 3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU DỰ KIẾN Căn cứ vào các nghiên cứu đã đề cập trên, nhằm xác định mối quan hệ giữa hiệu quả QTDN và hành vi điều chỉnh lợi nhuận, bài viết xây dựng mô hình dự kiến (bảng 1) với đặc điểm QTDN là biến độc lập (gồm hai nhóm biến HĐQT và BKS) và hành vi điều chỉnh lợi nhuận là biến phụ thuộc. Trong bài viết này, mô hình dự kiến chỉ nhằm giải thích tác động của QTDN đến hành vi chi phối lợi nhuận, cụ thể các giả thuyết nghiên cứu dự kiến: y Hiệu quả của hội đồng quản trị Theo nghiên cứu của Fama và Jensen (1983) công bố rằng HĐQT là cơ quan tối cao trong doanh nghiệp đại diện cho chủ sở hữu thực hiện chức năng giám sát hoạt động của các nhà quản lý. Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ... 50 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Bảng 1. Mô hình nghiên cứu dự kiến Nguồn: tác giả tổng hợp Bằng chứng thực nghiệm cho thấy đặc điểm HĐQT thể hiện hiệu quả hoạt động giám sát của mình, cụ thể: tỷ lệ thành viên độc lập không tham gia điều hành, quy mô HĐQT, kinh nghiệm tài chính và số lần họp của HĐQT. + Tỷ lệ thành viên độc lập không tham gia điều hành Klein (2002) và Peasnell et al (2005) cho rằng tính độc lập của HĐQT đóng vai trò quan trọng tác động đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Cũng theo Fama (1980) và Fama &Jensen (1983) thì tính độc lập của HĐQT càng cao thì có thể tránh được xung đột lợi ích với nhà quản lý và chức năng giám sát của HĐQT được đảm bảo. Tương tự các nghiên cứu Carcello và cộng sự (2002), Davidson và cộng sự (2005), Xie và cộng sự (2003) cũng cho rằng tính các công ty có HĐQT có thành viên độc lập không tham gia điều hành càng nhiều thì hành vi điều chỉnh lợi nhuận càng giảm. Như vậy, tất cả các nghiên cứu điều thừa nhận tính độc lập của HĐQT có tác động tiêu cực đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận, do dó bài viết này xây dựng giả thuyết: y H1a: Sự độc lập của HĐQT làm giảm mức độ điều chỉnh lợi nhuận. + Kinh nghiệm, trình độ tài chính của HĐQT Hội đồng quản trị có kiến thức và kinh nghiệm về tài chính là một yếu tố đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động giám sát. Nghiên cứu của Carcello và cộng sự (2002) cho thấy các thành viên độc lập trong HĐQT 51 có kinh nghiệm về tài chính thì yêu cầu về chất lượng kiểm toán càng cao. Trong khi đó với nghiên cứu của Chtourou và cộng sự (2001), Xie và cộng sự (2003), Bedard và cộng sự (2004) tranh luận hành vi điều chỉnh lợi nhuận ít tồn tại trong những công ty mà thành viên độc lập của HĐQT có kinh nghiệm, trình độ về tài chính hay HĐQT mà có kinh nghiệm về tài chính thì hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Như vậy, các nghiên cứu đều nhận ra rằng HĐQT có kinh nghiệm trình độ và tài chính thì hạn chế được hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Do đó giả thuyết được đề xuất: y H1b: trình độ, kinh nghiệm tài chính của HĐQT làm giảm mức độ điều chỉnh lợi nhuận. + Quy mô hội đồng quản trị Có rất nhiều nghiên cứu về qui mô HĐQT, cụ thể theo nghiên cứu của Persons (2006) cho rằng quy mô HĐQT có vai trò quan trọng đến hiệu quả hoạt động giám sát và hiệu quả kinh doanh của đơn vị. Hội đồng quản trị có quy mô càng lớn thì càng gia tăng hiệu quả giám sát (Dalton et al (1998)), Pearce and Zahra (1992) và John and Senbet (1998). Trong khi đó thì nghiên cứu của Lipton và Lorsch (1992), Jensen (1993), Yermack (1996), Eisenberg và cộng sự (1998) nhận thấy HĐQT có quy mô nhỏ thì thực hiện chức năng giám soát tốt hơn nên giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Đồng thời theo nhận định của tác giả, HĐQT có quy mô quá lớn thì thiếu sự liên kết và kém hiệu quả trong việc truyền đạt, chi phí duy trì quá lớn đối ngược với HĐQT có quy mô nhỏ thì sự truyền đạt giữa các thành viên dễ dàng hơn, giảm thiểu sự hiểu nhầm.. Vì vậy cùng với các nghiên cứu trước, tác giả đề xuất giả thuyết: y H1c: Quy mô HĐQT nhỏ làm giảm mức độ điều chỉnh lợi nhuận. + Số lần họp HĐQT Ronen và Yaari (2008), Conger và cộng sự (1998) chỉ ra các cuộc họp của HĐQT diễn ra thường xuyên sẽ làm tăng hiệu quả giám sát của HĐQT. Đồng thời Carcelo và cộng sự (2002), Krishnan và Visvannathan (2009) cho rằng HĐQT họp càng nhiều thì làm gia tăng chi phí kiểm toán nên yêu cầu cao về chất lượng kiểm toán. Khi đó kiểm toán viên phải gia tăng kiểm tra nên chất lượng kiểm toán nâng cao, vì vậy làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Dựa vào những phát hiện của các nghiên cứu trên, giả thuyết dự kiến: y H1d: Số lần họp HĐQT càng nhiều càng làm giảm mức độ điều chỉnh lợi nhuận. + Hiệu quả của BKS BKS là bộ phận được thành lập bởi HĐQT nhằm thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của HĐQT và ban giám đốc. Theo Dezoort và cộng sự (2002), Walker (2004) thì hiệu quả của BKS phụ thuộc vào sự độc lập của BKS, kinh nghiệm, quy mô và số lần họp. + Tính độc lập BKS Theo lý thuyết đại diện (Fama &Jensen, 1983) cho rằng thành viên của BKS độc lập làm gia tăng hiệu quả giám sát. Đồng thời BKS càng độc lập thì khả năng công ty thực hiện gian lận BCTC càng thấp (Abbott và cộng sự, 2000, 2004) hay BKS càng độc lập thì hành vi điều chỉnh lợi nhuận càng ít (Davidson và cộng sự, 2005; Klein, 2002). Nói tóm tại, tính độc lập của BKS gia tăng hiệu quả giám sát hay làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Do đó giả thuyết đề xuất: y H2a: Tính độc lập BKS càng lớn thì làm giảm mức độ điều chỉnh lợi nhuận. + Kinh nghiệm tài chính của BKS Những phát hiện của các nghiên cứu trước cho rằng các thành viên trong BKS có kinh Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ... 52 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nghiệm về tài chính là yếu tố quan trọng làm hạn chế hành vi điều chỉnh lợi nhuận hay kinh nghiệm tài chính của các thành viên BKS có tác động tiêu cực đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận (Bedard và cộng sự, 2004; Carcello và cộng sự, 2006; Chtourou và cộng sự, 2001; Dhaliwal và cộng sự 2006; Xie và cộng sự, 2003) và làm tăng khả năng giám sát của BKS. Từ kết quả nghiên cứu trước, giả thuyết dự kiến: y H2b: Kinh nghiệm tài chính của BKS làm giảm mức độ điều chỉnh lợi nhuận + Quy mô BKS Số lượng thành viên trong BKS có đặc điểm quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát. Số thành viên trong BKS nếu nhỏ quá thì không thể đảm nhận tốt công việc giám sát, nếu lớn quá thì dẫn đến tình trạng phối hợp rời rạc, thiếu kiểm soát (Jensen, 1993; Vafesa, 2005). Do đó, số thành viên hoàn hảo trong BKS dao động từ 3 đến 4 thành viên (Abbott và cộng sự, 2004; Vafeas, 2005; Xie và cộng sự, 2003). Do đó, giả thuyết đề xuất: y H2c: Quy mô BKS làm giảm mức độ điều chỉnh lợi nhuận + Số lần họp của BKS BKS cần phải hoạt động để thực hiện trách nhiệm giám sát hoạt động của HĐQT và Ban giám đốc. Các luật gia đề nghị BKS nên họp thường xuyên hơn để gia tăng hiệu quả giám sát (Raghunadan và Rama, 2007). Đồng thời những nghiên cứu của Chtourou và cộng sự (2001); Xie và cộng sự (2003) phát hiện hiệu quả giám sát của BKS cao hơn khi BKS họp thường xuyên hơn và làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận kế toán. Chính vì vậy, bài viết đề xuất giả thuyết: y H2d: BKS họp càng nhiều thì làm giảm mức độ điều chỉnh lợi nhuận. 4. TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN Lý thuyết đại diện đề cập đến vấn đề nhạy cảm của các công ty – sự tư lợi. Sự tư lợi là nguyên nhân làm phát sinh xung đột lợi ích cá nhân của nhà điều hành (người đại diện) với mục tiêu của chủ sở hữu, bởi cả hai đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Tuy nhiên điều kiện tối đa hóa lợi nhuận của hai bên không giống nhau. Cổ đông muốn tối đa hóa lợi ích của mình thông qua việc tăng giá trị của doanh nghiệp còn nhà quản lý lại muốn tối đa hóa lợi nhuận đạt được. Chính vì vậy người quản lý sẽ thực hiện các hoạt động để tạo danh tiếng cho bản thân, để đạt mức lương thưởng như mong muốn, nên dễ dàng thực hiện hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Đồng thời lý thuyết đại diện cũng thừa nhận vai trò giám sát của HĐQT và BKS đóng vai trò quan trọng để giảm xung đột lợi ích giữa các bên. Bằng chứng thực nghiệm từ các nghiên cứu trên thế giới đã thừa nhận HĐQT với thành viên độc lập, kinh nghiệm về tài chính, quy mô nhỏ, số lần họp thường xuyên làm gia tăng hiệu quả giám sát, làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Tương đồng với HĐQT, BKS với thành viên độc lập, kinh nghiệm về tài chính, quy mô BKS và các cuộc họp thường xuyên cũng làm giảm hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Do đó trong bài viết này, tác giả lập luận với hiệu quả giám sát của HĐQT, BKS hay QTDN hiệu quả đã kiểm soát được hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Những nghiên cứu ban đầu về khái niệm giúp giải thích mối quan hệ giữa đặc điểm QTDN và chất lượng BCTC đã dẫn đến nghiên cứu sâu hơn trong tương lai về hai đặc điểm đại diện cho QTDN là HĐQT và BKS tác động đến chất lượng BCTC. Đối với những nghiên cứu trong tương lai này nên thu thập dữ liệu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng 53 khoán Việt Nam, tiến hành hồi quy đa biến để xem xét mức độ tác động của HĐQT và BKS đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận kế toán nhằm chứng minh mô hình dự kiến nghiên cứu ở bảng 1 và kết quả nghiên cứu sẽ được báo cáo trong một bài báo ở tương tai. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Abbott, Lawrence, Susan Parker, Peters, F.G and Kanna Raghunandan (2003), “An empirical investigation of audit fees, non –audit fees and audit committees”, Comtemporary Accounting Research, Vol. 20, p. 215 -234. [2]. Abbott, J.L, Parker.s, Peters, F.G, (2004) “Audit committee, Characteristics and restatement” [3]. Adams, M.B., (1994) “Agency theory and the internal audit”, Managerial Auditing Journal, 9(8), p.8 -12 [4]. Agrawal, A., & Chadha, S., (2005), “Corporate governance and accounting scandals, Journal of Law and Economics, 48(2), p. 371 -406 [5]. Daniel A.Cohen,Anne Beyer, Thomas Z.Lys, and Beverly R. Walther (2010), “The Financial Reporting Environment: Review of the Recent Literature”, electronic copy available at: com/abstract=1483227. [6]. Klein, A., (2002), “Audit Committee, Board of Director Characteristics, and Earnings Management”, Law & Economics reserch paper series working paper no 06-42. [7]. Archambeault, D., and DeZoort,T., (2001), “Auditor opinion shopping and the audit committee: an analysis of suspicious auditor switches”, International Journal of Auditing, Vol.5, p.33 -52. [8]. Barton, J.and Simko, P.J. (2002), “The balance sheet as an earnings management constraint” The accounting Review, December, p. 1 -27 [9]. Beasley, M. S.(1996), “An empirical analysis of the relation between the board of director composition and financial statement fraud”, the Accounting Review, Vol. 71, p.443 -465 [10]. Beasly, A. and Weber, J. (2003), “The effects of Debt Contracting on Voluntary Accounting Method Changes”, the Accounting Review, Vol.78, p. 119 -142 [11]. Beaver, William, Carol Eger, Stephen Ryan and Mark Wolfson (1989), “Financial Reporting and the structure of bank share prices: Journal of Accounting Research” Vol.27, p.157 -178 [12]. Bédard, J.,Chtourou, S.M, and Courteau, L. (2004) “The effect of Audit Committee expertise, Independence and Activity on Agressive Earnings Management”, Auditing: Journal of Pratice & Theory, vol. 23, p. 55 -79. [13]. Bernardus Y. N and Eko, U., (2011), “Board Characteristics and Earning Management”, Journal of Administrative Science &Organization, Vol.18, P.1-10. [14]. Burgtahler, David and Ilia Dichev (1997), “Earning Management to avoid earnings decreases and losses. Journal of Accounting and Economics”, Vol. 24, p.99 -126 [15]. Cadbury Report (1992), “Report of the Committee on the Financial Aspects of corporate” [16]. Cahan, S. F. (1992), “The effect of antitrust investigation on discretionary accruals: A refined test of the political-cost hypothesis”, The Accounting Review, Vol. 67, p77-95. Hiệu quả quản trị doanh nghiệp và hành vi ... 54 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật [17]. Chan, K.H., Lin, K.Z., and Zhang, F., (2007) “On the association between changes in corporate ownership and changes in auditor quality in a transitional economy”, Journal of International Accounting Research, 6(1) 19 [18]. Chen, H., Chen, J.Z., Lobo, G. J., and Wang, Y., (2010), “ The Effects of Audit Quality on Earnings Management and Cost Of Capital: Evidence from China”, Contemporary Accounting Research, Vol.28, No.3, P.892-925 [19]. Chen, X.,, Cheng Q, Wang, X., (2010), “Does increased board independence reduce earnings management? Evidence from recent regulatory reform”, Working Paper, University of Wisconsin- Madison, Chinese University of Hong Kong. [20]. Chen, K.Y., & Zhou,J. (2007), “ Audit Committee, Board Characteristics and auditor Swich Dicisions by Andersen’s Clients”, Contemporary Accounting research, 24(4), 1085- 1117. [21]. Chtourou, S.M, Bédard, J. and Courteau, L. (2001), “Corporate Governance and Earnings Management”. http:/SSRN.com/ abstract = 275053 [22]. Cohen, D.A,. Zarowin, P., (2010), “Accrual – based and real earnings management activitives around seasoned equity offerings”, Journal of Accounting and Economics, 50, p. 2 -19. [23]. Cohen, D.A., Dey,A., and Lyz, T. Z., (2008), “ Real and Accrual-Based Earnings Managenment in the Pre-and Post- Sarbanes-Oxley Periods”, The Accounting Review, Vol.83, No.3, p.757-787 [24]. Collin S. Y., Tagesson T., Andersson A., Cato J., and Hansson K., (2009), “Explainning the choice of accounting standard in municipal corporations: Positive accounting theory and institutional theory as competitive or concurrent theories”, Critical Perspectives on Accounting, Vol 20, p 141 -174
File đính kèm:
- hieu_qua_quan_tri_doanh_nghiep_va_hanh_vi_dieu_chinh_loi_nhu.pdf