Hiện tượng tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt

Trong giao tiếp ngôn ngữ nói chung, tỉnh lược trong điều kiện cho phép được coi là phương tiện

để tiết kiệm ngôn từ, giúp cho thông tin từ phía người nói hoặc người viết được chuyển tải đến

người nghe hoặc người đọc một cách đầy đủ nhất với số lượng ngôn từ ít nhất mà vẫn đảm bảo

hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ. Tuy nhiên, tỉnh lược phải đảm bảo thông tin tường minh, tránh mơ

hồ, thậm chí khó hiểu hoặc hiểu sai nội dung thông tin, nhất là phải đảm bảo tính lịch sự trong

giao tiếp nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp. Tỉnh lược trong mỗi ngôn ngữ có khác nhau. Có những

trường hợp cùng một câu văn, trong ngôn ngữ này có thể tỉnh lược một hoặc một số thành phần,

nhưng trong ngôn ngữ kia lại không tỉnh lược được. Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành phân

tích điều kiện và vai trò của tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt, chỉ ra những tương

đồng và khác biệt giữa chúng, nhằm góp một tài liệu tham khảo cho công tác dạy học và nghiên

cứu tiếng Hán ở Việt Nam.

pdf 8 trang kimcuc 3860
Bạn đang xem tài liệu "Hiện tượng tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện tượng tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt

Hiện tượng tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt
3KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
HIỆN TƯỢNG TỈNH LƯỢC
TRONG GIAO TIẾP TIẾNG HÁN VÀ TIẾNG VIỆT
PGS. TS. PHẠM NGỌC HÀM1
1 Đại học Ngoại Ngữ – ĐHQG Hà Nội ✉phamngochamnnvhtq@gmail.com
Ngày nhận: 09/11/2016; Ngày hoàn thiện: 25/11/2016; Ngày duyệt đăng: 30/11/2016
Phản biện khoa học: TS. CẦM TÚ TÀI
TÓM TẮT
Trong giao tiếp ngôn ngữ nói chung, tỉnh lược trong điều kiện cho phép được coi là phương tiện 
để tiết kiệm ngôn từ, giúp cho thông tin từ phía người nói hoặc người viết được chuyển tải đến 
người nghe hoặc người đọc một cách đầy đủ nhất với số lượng ngôn từ ít nhất mà vẫn đảm bảo 
hiệu quả giao tiếp ngôn ngữ. Tuy nhiên, tỉnh lược phải đảm bảo thông tin tường minh, tránh mơ 
hồ, thậm chí khó hiểu hoặc hiểu sai nội dung thông tin, nhất là phải đảm bảo tính lịch sự trong 
giao tiếp nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp. Tỉnh lược trong mỗi ngôn ngữ có khác nhau. Có những 
trường hợp cùng một câu văn, trong ngôn ngữ này có thể tỉnh lược một hoặc một số thành phần, 
nhưng trong ngôn ngữ kia lại không tỉnh lược được. Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành phân 
tích điều kiện và vai trò của tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán và tiếng Việt, chỉ ra những tương 
đồng và khác biệt giữa chúng, nhằm góp một tài liệu tham khảo cho công tác dạy học và nghiên 
cứu tiếng Hán ở Việt Nam.
Từ khóa: điều kiện, tỉnh lược, tiếng Hán, tiếng Việt, vai trò.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong giao tiếp ngôn ngữ, tiết kiệm ngôn từ là một 
trong những nhân tố được coi trọng, nhằm đảm bảo 
cho thông tin được chuyển tải một cách ngắn gọn 
và rõ ràng, chính xác, tiết kiệm được ngôn từ. Hiện 
tượng tỉnh lược được sử dụng trong cả tiếng Hán và 
tiếng Việt, nhất là trong tiếng Hán cổ đại, khiến cho 
văn bản trở nên súc tích, lời ít, ý nhiều. Trong một số 
trường hợp, một câu có thể tỉnh lược đến hai ba thành 
phần, chỉ giữ lại từ ngữ có giá trị thông tin chủ yếu 
nhất của câu. Nếu chuyển đổi một đoạn cổ văn sang 
tiếng Hán hiện đại hoặc tiếng Việt, số lượng ngôn từ 
có thể tăng gấp đôi thậm chí là ba lần so với nguyên 
văn. Trong tiếng Hán hiện đại, tỉnh lược tuy không 
nhiều như tiếng Hán cổ đại, nhưng vẫn khá phổ biến 
và tần số xuất hiện nhiều hơn so với tiếng Việt. Có 
những trường hợp, trong lời thoại tiếng Hán có thể 
tỉnh lược, nhưng trong tiếng Việt thì không thể, hoặc 
nếu lược bỏ đi thành phần tương ứng sẽ dẫn tới vi 
phạm chuẩn lịch sự trong giao tiếp. Tỉnh lược đôi khi 
có thể coi là chiến lược giao tiếp, nó hàm chứa dụng 
ý của người nói hoặc người viết dành cho người nghe 
và người đọc. Tỉnh lược cần được thực hiện trong ngữ 
cảnh cho phép, khiến cho việc tiếp nhận thông tin 
vẫn đầy đủ và chính xác.
Tỉnh lược từ lâu đã thu hút sự quan tâm của giới ngôn 
ngữ học. Điểm lại các công trình nghiên cứu về tỉnh 
lược, nhất là tỉnh lược thành phần câu trong tiếng 
4 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Hán, phải nhắc đến Mã Kiến Trung với sự ra đời của 
cuốn Mã Thị văn thông (马氏文通) đã bước đầu đề 
cập đến phép tỉnh lược trong giao tiếp ngôn ngữ. Tiếp 
đó là Lã Thúc Tương với cuốn Trung Quốc văn pháp 
yếu lược (中国文法要略) và Lê Cẩm Hi với cuốn Tân 
trước quốc ngữ văn pháp (新著国语文法). Trong các 
lĩnh vực của ngữ pháp tiếng Hán mà Lã Thúc Tương 
(吕叔湘,1982) và Lê Cẩm Hi (黎锦熙, 1992) đi sâu 
nghiên cứu, có thể nói, nghiên cứu về câu tỉnh lược 
là một trong những thành quả đáng kể của hai nhà 
ngữ pháp học này. Trên cơ sở tham khảo ý kiến của 
Mã Kiến Trung, Lê Cẩm Hi trong công trình nghiên 
cứu của mình đã dành năm chương bàn về tỉnh lược 
thành phần trong câu. Tiếp đó Lã Thúc Tương đã tiến 
hành quy nạp phép tỉnh lược thành các loại hình 
như: (1) Tỉnh lược trong đối thoại; (2) Tỉnh lược trong 
tự thuật; (3) Tỉnh lược kế thừa vế trước; (4) Tỉnh lược 
theo thói quen; (5) Tỉnh lược danh từ sau chữ 的đích; 
(6) Tỉnh lược giới từ; (7) Tỉnh lược lượng từ. Như vậy, 
trong câu có thể tỉnh lược cả một hay một số thành 
phần, cũng có thể chỉ là một hoặc một số yếu tố tạo 
nên thành phần câu. Sau các công trình nghiên cứu 
có liên quan đến tỉnh lược của các nhà ngữ pháp học 
nổi tiếng đó là các nghiên cứu mới nổi của Chu Tinh, 
Lí Hiểu Kỳ, Phương Tiểu Yến, đều tập trung làm rõ 
các thành phần có thể tỉnh lược trong câu cũng như 
đặc điểm, tính chất của câu tỉnh lược và việc xác định 
thành phần tỉnh lược. Tuy nhiên, nghiên cứu về hiện 
tượng tỉnh lược của giao tiếp tiếng Hán trong tương 
quan với tiếng Việt thì còn có những khoảng trống 
nhất định cần được lấp đầy. 
Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành phân tích vai 
trò của hiện tượng tỉnh lược trong giao tiếp tiếng Hán 
và tiếng Việt trên ngữ liệu được chọn từ các tác phẩm 
văn học Trung Quốc, văn học Việt Nam và Giáo trình 
thực hành tiếng Hán hiện hành của Khoa Ngôn ngữ 
Văn hóa Trung Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại 
học Quốc gia Hà Nội, đồng thời chỉ ra điều kiện cho 
phép tỉnh lược cũng như những điểm tương đồng và 
khác biệt giữa chúng, nhằm góp một tài liệu tham 
khảo cho công tác dạy học và nghiên cứu tiếng Hán 
ở Việt Nam.
2. TỈNH LƯỢC TRONG TIẾNG HÁN CỔ ĐẠI
Tìm hiểu về đặc điểm của hiện tượng tỉnh lược trong 
giao tiếp ngôn ngữ, trước hết cần làm rõ khái niệm 
về tỉnh lược. Theo “Từ điển quy phạm tiếng Hán hiện 
đại”, tỉnh lược là: “Trong điều kiện nhất định, lược bỏ 
đi một hoặc một số thành phần câu, như trong câu 
cầu khiến, thường lược bỏ đi chủ ngữ là đại từ nhân 
xưng ngôi thứ hai. Trong câu trả lời cũng thường lược 
bỏ đi những từ hoặc từ tổ giống như trong câu hỏi” 
(李葆嘉、唐志超, 2001). (在一定条件下,省去一个或
几个句子成分,如祈使句中常省去主语‘你(们)
。答话中也常省去跟问话中相同的词或词组 )。 
Theo chúng tôi, dưới góc nhìn ngôn ngữ học giao 
tiếp, tỉnh lược là lược bỏ một hoặc một số thành 
phần trong câu mà trong ngữ cảnh cụ thể, người tiếp 
nhận thông tin vẫn có thể lĩnh hội được nội dung mà 
người nói hoặc người viết cần truyền đạt, đồng thời 
xác định và hiểu được ý nghĩa của các thành phần đã 
tỉnh lược. Như vậy, tỉnh lược được sử dụng trong cả 
khẩu ngữ và bút ngữ, trong giao tiếp trực tiếp và gián 
tiếp. Đi sâu khảo sát từng trường hợp cụ thể, ta có 
thể thấy được tính chất tinh tế và giá trị của tỉnh lược. 
Tỉnh lược không chỉ dừng lại ở giá trị tiết kiệm ngôn 
từ, mà trong một số trường hợp, tỉnh lược còn được 
coi là một trong những chiến lược giao tiếp, và ngay 
cả khoảng trống của thành phần khuyết vắng trong 
câu cũng có ý nghĩa nhất định của nó. 
Tỉnh lược là một trong những hiện tượng thường gặp 
trong các văn bản tiếng Hán cổ đại. Những thành 
phần câu được tỉnh lược gồm chủ ngữ, tân ngữ, thậm 
chí là vị ngữ. Câu tỉnh lược thường ngắn gọn, tiết 
kiệm được ngôn từ. Người đọc sẽ căn cứ vào đoạn 
văn hoặc câu văn trên, dưới để xác định thành phần 
đã được tỉnh lược và hiểu được nội dung của văn bản. 
Tuy nhiên, biểu đạt trong các văn bản tiếng Hán cổ 
đại vốn đã rất ngắn gọn, súc tích, lại thêm các thành 
phần trong câu có thể đã được tỉnh lược đến mức tối 
đa, càng gây trở ngại cho việc đọc hiểu văn bản. Sau 
đây là một số trường hợp cụ thể.
2.1. Tỉnh lược chủ ngữ
Trong trường hợp đối tượng trần thuật như nhau, 
các hành vi, tính chất, đặc điểm, mà vị ngữ biểu thị 
thuộc cùng một chủ thể, nói cách khác là các câu hoặc 
vế câu có chung một chủ ngữ thì chủ ngữ sẽ không 
nhất thiết phải xuất hiện ở tất cả mọi vị trí. Ví dụ: 
(1) 子何恃而往?曰:“吾一瓶一钵足矣。(Vi học)
Tử hà thị nhi vãng? () viết: “Ngô nhất bình nhất bát 
túc hỹ.”
5KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
(Ông dựa vào đâu mà đòi đi? () nói rằng: “Tôi chỉ cần 
một chai nước, một bát đựng cơm là đủ rồi.” )
(2) 夫子曰:“何为不去也?”曰:“无苛政。” 
(Hà chính mãnh ư hổ.)
Phu tử viết: “Hà vị bất khứ dã?” () viết: “Vô hà chính.” 
(Khổng Tử hỏi: “Sao không bỏ đi nơi khác?” () trả lời 
rằng: “Không có chính sự hà khắc.”)
Trong ví dụ (1), phía trước động từ 曰viết (rằng/ nói 
rằng) đã lược bỏ chủ ngữ, là chủ thể phát ngôn. Căn 
cứ vào ngữ cảnh đối thoại giữa hai nhân vật, có thể 
dễ dàng nhận ra chủ ngữ của 曰viết là 贫者bần giả 
(vị sư nghèo).
Trong ví dụ (2), trước động từ 曰viết cũng đã lược bỏ 
thành phần chủ ngữ, dựa vào ngữ cảnh, có thể xác 
định thành phần đã được lược bỏ là 妇人phụ nhân 
(người đàn bà). Ngay cả câu hỏi của Khổng Tử [尔]何
为不去也?Hà vị bất khứ dã cũng đã khuyết chủ ngữ, 
có thể hoàn nguyên bằng 尔nhĩ (bà: đại từ nhân xưng 
ngôi thứ hai). Hơn nữa, câu trả lời của người đàn bà này 
là “[此地]无苛政”vô hà chính (không có chính sự hà 
khắc) cũng đã tỉnh lược chủ ngữ 此地 thử địa (nơi này). 
2.2. Tỉnh lược vị ngữ
Trong tiếng Hán cổ đại, nếu như các vị ngữ tương 
đương nhau thì có thể lược bớt, nhất là trong các 
đoạn đối thoại, động từ 曰viết với vai trò là nòng cốt 
của vị ngữ thường được lược bỏ. Ví dụ: 
(3) 三人行必有我师焉,择其善者而从之,其不善者
而改之 (Luận ngữ)Tam nhân hành tất hữu ngã sư yên, 
trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải 
chi (Ba người đi tất có thầy ta ở đó, chọn cái hay mà 
theo, cái dở mà sửa.)
Trong câu trên, thành phần đã lược bỏ là động từ 择 
trạch (chọn). Vì động từ này đã xuất hiện ở câu trước 
đó, nên câu sau không cần xuất hiện mà chỉ cần đưa 
ra tân ngữ của động từ 其不善者 kỳ bất thiện giả (điều 
không hay trong đó), ý nghĩa của câu đã hoàn chỉnh 
và người đọc căn cứ vào mối liên hệ giữa các câu 
trong đoạn văn vẫn có thể hiểu đúng và đủ nội dung.
2.3. Tỉnh lược tân ngữ
Có thể nói, tân ngữ trong văn bản tiếng Hán cổ đại 
được tỉnh lược với tần số cao. Trong ngữ cảnh nhất 
định, tân ngữ của động từ và tân ngữ của giới từ đều 
có thể được tỉnh lược. Ví dụ:
(4) 公曰:“尔有母遗,唯我独无!” (Tả truyện)
Công viết: “Nhĩ hữu mẫu quý, duy ngã độc vô.” (Ngươi 
còn có mẹ mà dâng tiến, nhưng ta thì không!)
(5) 木直中绳,輮 以为轮。(Khuyến học)
Mộc trực trúng thằng, nhu dĩ vi luân. (Thanh gỗ thẳng 
khớp với dây mực, nếu khiến cho nó cong thì có thể 
chế thành cái bánh xe.)
Trong hai ví dụ trên, ví dụ (4) 遗di vốn nghĩa là để 
lại, trong câu văn này, 遗di thông với 馈quý, nghĩa 
là dâng/tặng, phía trước đã xuất hiện 尔有母 nhĩ 
hữu mẫu (ngươi có mẹ), phía sau chỉ cần我独无
ngã độc vô (một mình ta thì không) là đủ để biểu 
đạt trọn vẹn ý nghĩa của câu nói. Trong ngữ cảnh đó, 
người nghe hoàn toàn có thể hiểu được thành phần 
đã tỉnh lược là母 mẫu (mẹ) đã xuất hiện trong câu 
tương ứng phía trước do sự hiện diện của động từ 
有hữu (có). Hơn nữa, kết quả của sự tỉnh lược đó còn 
tạo ra hai cụm từ bốn âm tiết cân xứng, sóng đôi, là 
đặc điểm nổi trội của câu trong các văn bản tiếng 
Hán cổ đại. Trong ví dụ (5), 輮 nhu được sử dụng theo 
phương thức sử động, nghĩa là làm cho mềm, tân 
ngữ của nó là 木mộc (gỗ) đã xuất hiện ở phía trước, 
trong cụm từ 木直中绳 mộc trực trúng thằng. Do 
đó, mặc dù tân ngữ của động từ 輮 nhu đã lược bỏ, 
nhưng người đọc vẫn xác định được và hiểu đúng 
nghĩa của câu. Ngay trong câu này, lại xuất hiện một 
trường hợp tỉnh lược nữa, đó là tỉnh lược tân ngữ của 
giới từ 以dĩ. Thông thường, có thể thêm tân ngữ của 
giới từ này bằng cách thay danh từ phía trước bằng 
đại từ 之chi, tạo thành câu đầy đủ là 以之为轮 dĩ chi 
vi luân (coi đó là bánh xe). Tuy nhiên, người viết đã 
lược bỏ hai tân ngữ trong vế thứ hai của câu. Kết quả 
là những từ ngữ còn lại cũng tổ hợp thành hai cụm 
bốn chữ, cân đối, phù hợp với phong cách biểu đạt 
của tiếng Hán cổ đại.
Như vậy, tỉnh lược là một trong những đặc điểm nổi 
bật trong tiếng Hán cổ đại, các thành phần nòng cốt 
trong câu đều có thể tỉnh lược, với điều kiện đoạn 
hoặc câu văn phía trước hoặc sau đã xuất hiện, dựa 
vào mối tương quan giữa các câu trong văn bản, người 
đọc vẫn có thể xác định được thành phần đã tỉnh lược 
6 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
và hiểu đúng ý nghĩa của nó. Tỉnh lược không những 
giúp cho việc biểu đạt ngắn gọn, mà còn giúp cho các 
cấu trúc ngôn ngữ cân đối, nhất là góp phần tạo nên 
các cụm từ bốn âm tiết, phản ánh đặc điểm cấu trúc 
ngôn ngữ trong văn bản tiếng Hán cổ đại. 
3. TỈNH LƯỢC TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI VÀ 
TIẾNG VIỆT
Trong tiếng Hán hiện đại, hiện tượng tỉnh lược tuy 
không nhiều như trong văn bản tiếng Hán cổ đại, 
nhưng vẫn thường gặp. Việc tỉnh lược đúng độ, hợp 
lý trong các văn bản tiếng Hán hiện đại cũng giúp 
cho nội dung cần truyền đạt càng thêm nổi rõ. Điều 
này đòi hỏi người viết và người nói phải cân nhắc, 
chọn lựa ngôn từ để đạt được yêu cầu lời ít ý nhiều 
và phát huy “tính kinh tế” trong giao tiếp. Trong tiếng 
Hán hiện đại, các thành phần được tỉnh lược thường 
là chủ ngữ, tân ngữ, bổ ngữ,. Theo Lê Cẩm Hy (黎锦
熙,1992), những thực thể từ ở vị trí chủ ngữ, tân ngữ, 
bổ ngữ đều có thể coi là đơn vị thuộc thành phần 
chính trong câu. Thói quen biểu đạt của tiếng Hán 
hiện đại đôi khi sẽ lược bỏ các thành phần này. Chính 
vì vậy, việc nghiên cứu hiện tượng tỉnh lược trong 
văn ngôn sẽ có lợi cho việc lý giải và vận dụng tỉnh 
lược vào quá trình giao tiếp tiếng Hán, nhằm làm cho 
ngôn bản ngắn gọn, súc tích, lời ít ý nhiều. Sau đây là 
một ví dụ khá điển hình về tỉnh lược trong văn bản 
viết tiếng Hán hiện đại:
(6) 贵公司于2007年6月12日发来的询价信已收。谢
谢合作!经我公司商讨达成一致之后,将随函寄
去最新的商品目录及其报价一份供您参考。(Giáo 
trình Viết)
Đoạn văn trên trích từ một bức thư thương mại trong 
Giáo trình Viết hiện hành ở khoa Ngôn ngữ Văn hóa 
Trung Quốc. Đoạn văn gồm 3 câu, câu ngắn nhất chỉ 
vẻn vẹn 4 chữ Hán (谢谢合作!Tạ tạ hợp tác: Cám ơn 
hợp tác). Cả đoạn văn có đến 4 vị trí đã được tỉnh lược. 
Trong đó, chủ yếu là tỉnh lược thành phần chủ ngữ. 
Nếu hoàn nguyên các vị trí đã tỉnh lược, câu văn tuy 
không sai quy tắc ngữ pháp, nhưng cảm giác sẽ rườm 
rà. Với việc lược bỏ bốn vị trí như trên, đoạn văn trở 
nên ngắn gọn, thông suốt mà vẫn truyền đạt được 
đầy đủ thông tin. Trong đó, 谢谢合作! là câu rút gọn 
cả chủ ngữ và tân ngữ, chỉ còn bốn âm tiết gồm hai từ 
song âm tiết tổ hợp thành, cân đối, là cấu trúc ngôn 
ngữ đã từng phổ biến trong văn bản tiếng Hán cổ 
đại và vẫn phát huy vai trò trong diễn đạt nói và viết 
tiếng Hán hiện đại. Từ 谢谢tạ tạ (cảm ơn) trong tiếng 
Hán hiện đại đã thể hiện đầy đủ tính chất lịch sự và 
thường được sử dụng độc lập tạo thành câu độc từ 
(câu chỉ có một từ) thường gặp trong các cuộc đối 
thoại. Tuy nhiên, trong tiếng Việt, để biểu thị hành vi 
cảm ơn, phải tùy vào ngữ cảnh mới có thể xác định 
được thành phần nào có thể được lược bỏ. Thông 
thường, trong tiếng Việt, câu biểu thị cảm ơn cần có 
thành phần đối xưng (là tân ngữ biểu thị đối tượng 
cảm ơn), thậm chí thành phần tự xưng (là chủ ngữ 
biểu thị chủ thể của phát ngôn) cũng phải đồng thời 
xuất hiện mới đảm bảo tính chất lịch sự, trang trọng 
trong giao tiếp. 
Cách biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt của đoạn 
văn trên không cho phép tỉnh lược vị trí thứ nhất và 
vị trí thứ ba. Các vị trí còn lại nếu tỉnh lược cần thêm 
từ ngữ thay thế phù hợp hoặc phải hoàn nguyên các 
thành phần đã lược bỏ của văn bản nguồn. Sau đây, 
chúng tôi đưa ra mấy phương án chuyển dịch, nói 
đúng hơn là phương án biểu đạt tương ứng trong 
tiếng Việt:
(a) Thư thăm giá của Quý công ty gửi ngày 12 tháng 6 
năm 2007 chúng tôi đã nhận được. Xin trân trọng cảm 
ơn []. Sau khi [] bàn bạc nhất trí, nay xin gửi một 
bản danh mục hàng hóa và báo giá mới nhất để Quý vị 
tham khảo. 
(b) Chúng tôi đã nhận được thư thăm giá gửi ngày 12 
tháng 6 năm 2007 của Quý công ty. Xin trân trọng cảm 
ơn sự hợp tác mà Quý công ty dành cho chúng tôi. S ... áo giá mới nhất để Quý vị tham khảo. 
Có thể dễ dàng nhận ra sự khác nhau về trường hợp 
tỉnh lược trong tiếng Hán và tiếng Việt qua các từ 
ngữ có gạch dưới. Với tiếng Việt, tỉnh lược thành 
phần tự xưng cũng khá phổ biến, nhưng đối xưng 
(xưng hô với người nghe) thì ít xảy ra. Thay vào đó, 
đôi khi là việc sử dụng kính từ như xin, nay xin, trân 
trọng,Riêng trường hợp谢谢合作! thì không thể 
chuyển dịch một cách máy móc, hoàn toàn phụ 
thuộc mặt chữ được. Quan hệ kết hợp giữa động từ
谢谢tạ tạ và 合作hợp tác là quan hệ động tân, trong 
đó, 合作hợp tác trả lời cho câu hỏi Cảm ơn ai? Cảm 
ơn cái gì? Vì vậy, 合作hợp tác trong trường hợp này 
đã lâm thời chuyển hóa thành danh từ. Như trên đã 
7KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
nêu, phương án chuyển dịch thứ nhất (a) đã dùng 
kính từ và từ ngữ biểu thị lịch sự, chuyển dịch thành 
Xin trân trọng cảm ơn! Với phương án này, bản dịch 
tiếng Việt còn cho phép tỉnh lược từ 合作hợp tác, có 
thể tiết kiệm tối đa ngôn từ. Phương án thứ hai (b) đã 
hoàn nguyên thành phần đối xưng bị tỉnh lược của 
quý công ty, thậm chí có thể thêm phần có chứa yếu 
tố tự xưng dành cho chúng tôi. Mặt khác, ngay trong 
tiếng Việt cũng không cho phép xuất hiện toàn bộ 
bốn vị trí đã tỉnh lược, nếu không lược bớt, câu văn 
sẽ rườm rà, thậm chí là lủng củng, gây ức chế cho 
người đọc và người nghe. 
Trên đây chỉ là một ví dụ điển hình trong rất nhiều các 
trường hợp về tỉnh lược trong tiếng Hán hiện đại. Có 
thể nói, tỉnh lược thường gặp trong cả khẩu ngữ và 
bút ngữ. So với tiếng Việt, tỉnh lược trong tiếng Hán 
phổ biến hơn, thành phần được tỉnh lược nhiều hơn. 
Chỉ với giao tiếp khẩu ngữ thường ngày, những câu 
“cửa miệng” như “谢谢!” tạ tạ (cảm ơn), “请进” thỉnh 
tiến (mời vào) “劳驾” lao giá (cảm phiền) v.v..cũng đã 
chứng tỏ sự khác nhau trong tỉnh lược của tiếng Hán 
và tiếng Việt. Ba trường hợp cảm ơn, xin mời và cảm 
phiền kể trên, trong tiếng Việt thông thường cần phải 
thêm thành phần đối xưng, thậm chí còn phải xuất 
hiện thành phần tự xưng nữa mới đảm bảo tính lịch 
sự trong giao tiếp. Sau đây là đoạn đối thoại giữa thầy 
và trò:
– Học sinh: 王老师,您好!
– Thầy giáo: 您好!请进!请坐!请喝茶!
– Học sinh: 谢谢! (Giáo trình Hán ngữ Tập 1)
Đoạn văn trên đã xuất hiện những câu thoại thông 
thường trong đời sống hàng ngày của người Trung 
Quốc, bao gồm phát ngôn chào, mời, cảm ơn. Trong 
đó, xuất hiện cả hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ và tân 
ngữ. Đoạn thoại tương ứng trong tiếng Việt là:
– Học sinh: (Em) chào thầy ạ!
– Thầy giáo: Chào em! Mời em vào, mời em ngồi, mời 
em uống trà!
– Học sinh: (Em) cảm ơn thầy (ạ)!
So sánh hai đoạn thoại trên, có thể nhận thấy, trong 
tiếng Việt, lịch sự nhất là trong các phát ngôn chào, 
mời, cảm ơn đều xuất hiện cả chủ ngữ, tân ngữ (tự 
xưng và đối xưng) kết hợp với “ạ” dành cho lời thoại 
của người vị thế thấp với người vị thế cao. Trường hợp 
này có thể tỉnh lược thành phần tự xưng, nhưng đối 
xưng thì không thể lược bỏ. Trong lời thoại của người 
vị thế cao với người vị thế thấp cũng cần xuất hiện đối 
xưng. Tuy nhiên, trong tiếng Hán, do sự hiện diện của 
những từ biểu thị lịch sự, như 请thỉnh (xin/mời) và谢
谢 tạ tạ (cảm ơn) nên thành phần tự xưng, thậm chí là 
đối xưng cũng có thể tỉnh lược. 
Hoàn cảnh ngôn ngữ có vai trò quyết định đến việc 
xác định thành phần có thể tỉnh lược trong câu. Hoàn 
cảnh ngôn ngữ đối với văn bản viết được hiểu là đoạn 
văn trên và dưới. Đối với các cuộc thoại trực tiếp, hoàn 
cảnh ngôn ngữ là “tất cả những cảnh huống thực tế 
cấu thành các nhân tố có liên quan đến hành vi ngôn 
ngữ khi sử dụng ngôn ngữ, gọi tắt là ngữ cảnh. Nhân 
tố khách quan của ngữ cảnh gồm thời gian, địa điểm, 
trường hợp, đối tượng; Nhân tố chủ quan gồm vị 
thế, nghề nghiệp, tư tưởng, tu dưỡng, hoàn cảnh 
sống, tâm trạng” của người tham gia giao tiếp (冯
广艺,1999). Những nhân tố này có ảnh hưởng và ràng 
buộc việc lựa chọn, sử dụng ngôn từ. 
Trong các cuộc đối thoại trực tiếp, do sự hiện diện 
của các nhân tố chủ quan và khách quan trong ngữ 
cảnh kể trên, một số thành phần câu thoại tiếng Việt 
cũng như tiếng Hán, nhất là thành phần tự xưng và 
đối xưng có thể sẽ được tỉnh lược. Ví dụ: 
(7) – Lại say rồi phải không? 
– Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Ði vào nhà 
uống nước. 
– Nào đứng lên đi . Cứ vào đây uống nước đã . 
– Lạy cụ ạ . Bẩm cụ... Con đến cửa cụ để kêu cụ một việc ạ! 
 Đoạn thoại trên là đối thoại giữa Bá Kiến và Chí Phèo 
trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Trong đó, ba 
câu đầu là phát ngôn của Bá Kiến – vị Lí trưởng quyền 
uy và xảo trá đến mức được ví là “cáo già”. Câu cuối là 
phát ngôn của Chí Phèo. Bá Kiến với vị thế của kẻ ăn 
trên ngồi trốc đã lược bỏ hoàn toàn các thành phần 
đối xưng với Chí Phèo, kết hợp với việc lựa chọn kiểu 
câu ngắn gọn, liên tiếp, tạo ra sự vồn vã, thân mật giả 
tạo nhằm “lấy lòng” Chí và thực hiện mục đích giao 
tiếp của mình. Tuy nhiên, Chí Phèo với thân phận của 
8 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
kẻ cùng đinh trong đối thoại với Bá Kiến đã sử dụng 
cả tự xưng “con” và đối xưng “cụ”.
Còn đối thoại giữa Thị Nở và Chí Phèo thì khẩu khí 
lại thân mật thực sự. Với vị thế ngang hàng của “đôi 
lứa đứng đôi”, Thị cũng đã lược bỏ hoàn toàn thành 
phần đối xưng dành cho Chí, khiến cho lời thoại hết 
sức ngắn gọn, nội dung thông tin nổi rõ, thể hiện sinh 
động sự quan tâm chu đáo của Thị dành cho Chí.
(8) – Vừa thổ hả? 
– Ði vào nhà nhé? 
– Thì đứng lên. 
Đoạn thoại trong tác phẩm văn học mà tưởng như 
lời thoại giữa đời thường, khiến người đọc cảm nhận 
được sự thân mật giữa Thị Nở và Chí Phèo – một kẻ 
bất cần đời mà cả làng Vũ Đại phải sợ hãi.
Tỉnh lược còn thường gặp trong phát ngôn chào 
của tiếng Hán và tiếng Việt. Tùy từng ngữ cảnh cụ 
thể, người nói có thể lựa chọn dạng thức đầy đủ hay 
tỉnh lược đối với thành phần tự xưng và đối xưng. Ba 
dạng thức lời chào sau đây đều thường gặp trong 
tiếng Việt. 
– Xin chào!
– Chào + Đại từ nhân xưng ngôi thứ hai !
– Đại từ nhân xưng ngôi I + chào + Đại từ nhân xưng 
ngôi II.
Trong ba dạng lời chào trên, dạng thứ nhất thường 
sử dụng cho những người có vị thế ngang hàng hoặc 
người người có vị thế cao đối với người có vị thế thấp. 
Dạng thứ hai và ba dùng cho mọi đối tượng. Hai dạng 
này đã thể hiện được vai giao tiếp giữa người nói và 
người nghe, là những lời chào trang trọng, sắc thái 
tôn kính của người vị thế thấp dành cho người có vị 
thế cao và sắc thái tình cảm thân mật của người có 
vị thế cao dành cho người có vị thế thấp cũng được 
bộc lộ rõ nét, tùy theo cách lựa chọn đại từ nhân 
xưng của người nói. Trong đó, dạng thứ hai tương 
đương với tiếng Hán, dạng thứ ba chỉ có trong tiếng 
Việt mà không có sự tương ứng tuyệt đối trong tiếng 
Hán, nghĩa là trong phát ngôn chào, trong tiếng Hán 
không xuất hiện từ ngữ biểu thị tự xưng 
Trong lời đáp của câu thoại tiếng Việt, có khi chỉ là 
một từ đơn, nhằm trả lời cho tâm điểm của câu hỏi 
cần hướng tới, kể cả khi từ đó là một hư từ. Ví dụ:
(9)– Anh đã gọi điện thoại báo tin vui cho mẹ chưa?
– Đã.
Cách biểu đạt tương đương với đoạn thoại trên trong 
tiếng Hán là:
你已经打电话告诉妈妈这个好消息了吗? 
 打了。
Với đối thoại của hai người ngang hàng nhau hoặc 
người có vị thế cao với người vị thế thấp hơn, câu trả 
lời chỉ bằng một từ “đã”, hoặc “rồi” cũng có thể khiến 
cho giao tiếp ngôn ngữ được diễn ra thuận lợi. Trong 
tiếng Hán, các hư từ tương ứng với “đã” (已经) và “rồi” 
(了) không thể độc lập tạo thành lời đáp được mà phải 
căn cứ vào ngữ cảnh để bổ sung động từ chính trong 
câu hỏi tương ứng vào lời đáp, như câu trên cần thêm 
động từ “gọi” (điện thoại) 打đả kết hợp với 了liễu để 
tạo thành lời đáp đã rút gọn 打了đả liễu (đã gọi rồi) 
và lời đáp đầy đủ 我已经打电话通知她了(Anh đã gọi 
điện thoại báo mẹ rồi). Như vậy, trong lời đáp của cả 
tiếng Hán và tiếng Việt đều có thể tỉnh lược đến mức 
tối đa. 
Trong cuốn “Tám trăm từ tiếng Hán hiện đại” (现代
汉语八百词), Lã Thúc Tương (吕叔湘,1982) đã khẳng 
định: “Trong tiếng Hán, khi không cần dùng đại từ nhân 
xưng thì có thể không dùng, cho dù vì thế mà kết cấu 
câu có thể không hoàn chỉnh, nhưng ta không theo chủ 
nghĩa hình thức.” (在汉语里,当不需要用人称代词
的时候就不用,即使为此而句子结构可能不完整,
我们也不追求形式主义。) 
Dưới đây là cuộc thoại giữa nhân vật “nữ đồng chí” và 
anh liên lạc tuổi đời 19 lại chưa từng trải qua tình yêu 
trong tác phẩm “Hoa bách hợp” của Như Chí Quyên:
(10) 你多大了?
[我] 十九。
[你] 参加革命几年了?
[我(参加)] 一年(了)。
9KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
LÝ LUẬN NGÔN NGỮ v
[你] 家里还有什么人?
[我家里有] 娘、爹、弟弟、妹妹,还有一个姑
姑
 – Anh bao nhiêu tuổi rồi?
– (Tôi) mười chín.
– (Anh) tham gia cách mạng mấy năm rồi?
– (Tôi tham gia) một năm (rồi).......
– Gia đình (anh) còn có những ai?
– (Trong nhà tôi có) bố, mẹ, em trai, em gái, còn có một 
bà cô 
“Nữ đồng chí” là người chiến sỹ nhiều tuổi đời và tuổi 
quân hơn so với anh chiến sỹ thông tin trẻ tuổi sinh 
ra và lớn lên từ nông thôn, chưa từng trải cuộc sống 
và tình yêu, rất lúng túng khi tiếp xúc với bạn khác 
giới. Tình đồng đội đã thôi thúc “nữ đồng chí” chủ 
động làm quen với chàng trai trẻ. Đoạn đối thoại giữa 
hai người đã tỉnh lược đến mức gần như tối đa đại 
từ nhân xưng, người hỏi dường như đang chất vấn, 
người trả lời thì thực sự miễn cưỡng. Về góc độ thể 
hiện tư tưởng nội dung của tác phẩm, sự khuyết vắng 
của đại từ nhân xưng đã góp phần làm nổi rõ tính 
cách của từng nhân vật, nhất là anh chiến sỹ trẻ tỏ 
ra rất nhút nhát, rụt rè trong cuộc sống đời thường, 
nhưng tính cách ấy lại hoàn toàn trái ngược với hành 
vi dũng cảm hy sinh cứu đồng đội, khiến cho nhân 
vật để lại dấu ấn khó quên trong lòng người đọc. 
Đó cũng là một trong những nhân tố làm nên thành 
công của tác giả trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. 
Về phía người tham gia giao tiếp, việc lựa chọn hay 
lược bỏ đại từ nhân xưng có thể coi là một chiến lược 
giao tiếp, nhất là khi người nói còn mơ hồ trong việc 
xác định quan hệ vai giao tiếp hoặc cố ý dành khoảng 
trống trong xưng hô để người nghe tự cảm nhận.
Ví dụ trên còn cho thấy, có khi tỉnh lược đại từ nhân 
xưng kéo theo một số từ ngữ khác cũng bị tỉnh 
lược. Ví dụ (1) [我(参加)] 一年(了)và (2) [我家
里有] 娘、爹、弟弟、妹妹. Trường hợp (1) 我 bị 
tỉnh lược kéo theo 参加 và了cũng tỉnh lược theo. 
Trường hợp (2) 我 bị tỉnh lược kéo theo 家里有 
cũng tỉnh lược theo. 
Một điểm khác biệt khá nổi bật nữa trong giao tiếp 
tiếng Hán hiện đại và tiếng Việt là, tiếng Việt đến nay 
vẫn còn sử dụng những từ ngữ mở đầu câu thoại như 
“thưa”, “kính thưa” thể hiện tính chất lịch sự, trang 
trọng. Trong hầu hết các cuộc giao tiếp chính thức, 
những kính từ này đều không thể lược bỏ. Lịch sử 
giao tiếp tiếng Hán đã từng xuất hiện các cách biểu 
đạt tương tự, như 禀告 bẩm cáo, 启禀 khởi bẩm. 
Ngày nay, người Trung Quốc đã lược bỏ những kính 
từ này. Trong giao tiếp trực tiếp hay giao tiếp gián 
tiếp qua thư từ chỉ sử dụng từ ngữ xưng hô để mở 
đầu cuộc thoại. Trong thư, dòng đầu tiên truyền đạt 
thông tin gửi cho ai, người ta rất chú ý lựa chọn từ 
ngữ xưng hô phù hợp với đối tượng nhận thư và viết 
từ đầu dòng, thể hiện sự trân trọng. Vì vậy, cần căn 
cứ vào ngữ cảnh cụ thể để chuyển dịch sang tiếng 
Việt mới có thể đạt được sự biểu đạt tương ứng. Ví 
dụ, lời mở đầu thư mời của vị lãnh đạo một trường 
đại học Trung Quốc gửi lãnh đạo một trường Đại học 
Việt Nam có viết: 河内大学校长先生. Hay như trong 
thư của người con gửi cho bố, mở đầu bằng hai chữ 
爸爸!Cách biểu đạt tương ứng trong tiếng Việt 
lần lượt phải là “Kính gửi Ông hiệu trưởng Trường Đại 
học Hà Nội” và “Bố kính mến!” hoặc “Thưa bố!”. Trong 
xưng hô giữa hai mẹ con, khi người con cất tiếng nói: 
“妈,我回来了!”, ta cần căn cứ vào ngữ cảnh mới 
có thể đưa ra cách biểu đạt hoàn toàn tương ứng 
trong tiếng Việt. Chẳng hạn, nếu người con là nàng 
dâu mới về nhà chồng thì cách biểu đạt tương ứng 
trong tiếng Việt là “Thưa mẹ! Con đã về ạ.” Còn như 
khi tình cảm giữa nàng dâu và mẹ chồng đã trở nên 
thân thiết thì cách biểu đạt tương ứng là “Mẹ ơi con 
đã về.” Hơn ai hết, người Việt Nam học tiếng Hán cần 
nắm được những điểm khác biệt này giữa hai ngôn 
ngữ mới có thể chuyển dịch hoặc lựa chọn cách biểu 
đạt phù hợp với thói quen của người bản ngữ và đạt 
được hiệu quả cao trong giao tiếp.
4. KẾT LUẬN 
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy, tỉnh lược 
là hiện tượng ngôn ngữ được sử dụng trong cả khẩu 
ngữ và bút ngữ. Trong các cuộc thoại trực tiếp, do 
sự hiện diện của đôi bên tham gia giao tiếp, người 
nói và người nghe sẽ có thể căn cứ vào các nhân tố 
chủ quan và khách quan của ngữ cảnh giao tiếp cụ 
thể để xác định thành phần được tỉnh lược mà chủ 
yếu là từ xưng hô bao gồm cả tự xưng là chủ thể của 
phát ngôn và đối xưng là khách thể nhận ngôn. Do 
10 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
đó, tỉnh lược trong các cuộc thoại, nhất là tỉnh lược từ 
ngữ dùng để xưng hô là khá phổ biến. Tỉnh lược trong 
văn bản viết có thể áp dụng với mọi thành phần câu. 
Tỉnh lược giúp cho nội dung trọng điểm của thông tin 
càng nổi rõ, khiến cho lời ít ý nhiều, đảm bảo tính kinh 
tế trong giao tiếp ngôn ngữ. Ngoài ra, việc lựa chọn 
dạng tỉnh lược, nhất là tỉnh lược thành phần chủ ngữ 
và tân ngữ, thành phần tự xưng và đối xưng còn có 
giá trị như một chiến lược giao tiếp mà chính khoảng 
trống đã tỉnh lược ấy tạo ra không gian mở cho người 
nghe lí giải về thái độ của người nói. Tỉnh lược trong 
tiếng Hán, nhất là tiếng Hán cổ đại thường gặp hơn 
so với tiếng Việt, thành phần được tỉnh lược giữa hai 
phát ngôn tương ứng trong hai ngôn ngữ không 
hoàn toàn đồng nhất. Điều đó đòi hỏi người học và sử 
dụng ngôn ngữ phải nắm được ý nghĩa, vai trò, điều 
kiện tỉnh lược cũng như những tương đồng và khác 
biệt của hiện tượng tỉnh lược giữa hai ngôn ngữ mới 
có thể đảm bảo tính chính xác trong việc vận dụng và 
lý giải hiện tượng ngôn ngữ này, nhằm đạt hiệu quả 
cao trong giao tiếp và đối dịch Hán-Việt./. 
Tài liệu tham khảo:
1. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp diễn ngôn và cấu 
tạo của văn bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Hiệp (2010), “Câu đặc biệt trong tiếng 
Việt nhìn từ lí thuyết điển mẫu (prototype)”, Tạp chí 
Ngôn ngữ, số 6.
3. Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, NXB 
Khoa học Xã hội.
4. 冯广艺(1999), 语境适应论,湖北教育出版社。
5. 黎锦熙(1992), 新著国语文法, 商务印书馆。
6. 李葆嘉、唐志超(2001), 现代汉语规范词典,
吉林大学出版社。
7. 吕叔湘(1980), 现代汉语八百词,商务印书馆。
8. 吕叔湘(1982), 中国文法要略,商务印书馆。
ELLIPSIS IN VERBAL COMMUNICATION IN CHINESE AND VIETNAMESE
PHAM NGOC HAM
Abstract: In verbal communication, ellipsis in many cases is used to save words, which helps 
speaker or writer share information with listener or reader within a few words, and improves the 
“economical” in language. However, using ellipsis must ensure that the information is clear, obvious 
and direct, especially the politeness in situation to achieve the efficiency in communication. 
Different languages have their own ways to use ellipsis. In some circumstances, ellipsis can be used 
in this language but not in other one. In this article, we analyze the roles and conditions of ellipsis 
in Chinese and Vietnamese to point out similiarities and differences between them, and it can be 
used as reference to teaching and researching Chinese in Vietnam.
Keywords: condition, ellipsis, Chinese, Vietnamese, role.

File đính kèm:

  • pdfhien_tuong_tinh_luoc_trong_giao_tiep_tieng_han_va_tieng_viet.pdf