Hiện trạng phát triển và ứng dụng Internet kết nối vạn vật tại Việt Nam

Bài báo giới thiệu khái niệm cơ bản về hệ sinh thái Internet kết nối vạn vật (IoT) với 4 cấu

phần chính (phần cứng, phần mềm/kết nối, dịch vụ và thể chế/chính sách) và hệ sinh thái

thương mại IoT gồm 2 nhóm các tác nhân (nhà cung cấp dịch vụ/ ứng dụng bao gồm nhà

cung cấp thiết bị, cung cấp mạng, cung cấp nền tảng và khách hàng). Từ đó, phác họa bức

tranh tổng thể về phát triển và ứng dụng IoT ở Việt Nam với các tác nhân chính tham gia

vào mạng lưới IoT và một số kết quả ban đầu về ứng dụng IoT trong đô thị, giao thông,

nông nghiệp, nhà thông minh. Bài báo kết thúc với một số khuyến nghị chính sách nhằm

thúc đẩy quá trình phát triển và ứng dụng IoT ở Việt Nam.

pdf 13 trang kimcuc 4700
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng phát triển và ứng dụng Internet kết nối vạn vật tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng phát triển và ứng dụng Internet kết nối vạn vật tại Việt Nam

Hiện trạng phát triển và ứng dụng Internet kết nối vạn vật tại Việt Nam
56 
HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG INTERNET 
KẾT NỐI VẠN VẬT TẠI VIỆT NAM 
Bạch Tân Sinh1 
Học viện Khoa học, Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo. Bộ KH&CN 
Đặng Thị Hoa 
Viện Chiến lược Thông tin và Truyền thông. Bộ TT&TT 
“Việt Nam cần hoàn thiện thể chế pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho 
doanh nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng 
đồng bộ, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, phát triển hạ tầng kết 
nối số, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, hoàn thiện mạng di động 4G và nghiên 
cứu triển khai 5G nhằm đáp ứng yêu cầu của lĩnh vực Internet vạn vật trong 
thời gian sớm nhất”. (Chu Ngọc Anh, Bộ trưởng Bộ KH&CN)2. 
Tóm tắt: 
Bài báo giới thiệu khái niệm cơ bản về hệ sinh thái Internet kết nối vạn vật (IoT) với 4 cấu 
phần chính (phần cứng, phần mềm/kết nối, dịch vụ và thể chế/chính sách) và hệ sinh thái 
thương mại IoT gồm 2 nhóm các tác nhân (nhà cung cấp dịch vụ/ ứng dụng bao gồm nhà 
cung cấp thiết bị, cung cấp mạng, cung cấp nền tảng và khách hàng). Từ đó, phác họa bức 
tranh tổng thể về phát triển và ứng dụng IoT ở Việt Nam với các tác nhân chính tham gia 
vào mạng lưới IoT và một số kết quả ban đầu về ứng dụng IoT trong đô thị, giao thông, 
nông nghiệp, nhà thông minh. Bài báo kết thúc với một số khuyến nghị chính sách nhằm 
thúc đẩy quá trình phát triển và ứng dụng IoT ở Việt Nam. 
Từ khóa: Công nghệ thông tin; Hệ sinh thái IoT; Chính sách; Ứng dụng. 
Mã số: 18100501 
1. Hệ sinh thái IoT 
Hệ sinh thái là một khái niệm mới, có tính bao phủ rộng, không ám chỉ một 
đối tượng cụ thể nào. Hệ sinh thái có thể được hiểu như “một cộng đồng 
kinh tế dựa trên nền tảng của sự tương tác giữa tổ chức và các cá nhân”. 
Cộng đồng này sẽ sản sinh ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị cho khách 
hàng và họ chính là một phần của hệ sinh thái này. 
IoT được cấu thành từ nhiều thành phần tạo nên một hệ sinh thái IoT với 
mô hình phức tạp, đa dạng. Dựa trên cấu trúc của mô hình IoT, hệ sinh thái 
1 Liên hệ tác giả: btsinh@most.gov.vn 
2 Phát biểu của Bộ trưởng Chu Ngọc Anh tại Lễ ký kết biên bản ghi nhớ (MoU) hợp tác thiết lập “IoT Innovation 
Hub” (Trung tâm Đổi mới sáng tạo về Internet vạn vật) giữa ông Chu Ngọc Anh - Bộ trưởng Bộ KH&CN và ông 
Denis Brunetti - Tổng giám đốc Công ty Ericsson Việt Nam, Myanmar, Campuchia và Lào tại buổi lễ “Nobel 
Inspired Gala Dinner” do Đại sứ quán Thụy Điển tổ chức tối 28/11/2018 tại Hà Nội. 
 57 
IoT bao gồm 4 cấu phần chính: Chính sách; Phần mềm/kết nối; Phần cứng 
và Dịch vụ (Hình 1). Trong đó, cụ thể bao gồm các thiết bị phần cứng, hạ 
tầng kết nối, phần mềm nền tảng và các công cụ phân tích dữ liệu,... 
Nguồn: Michele Mackenzie and Andrew Cheung, 2017 
Hình 1. Hệ sinh thái IoT. 
1.1. Phần cứng 
- Thiết bị IoT bao gồm các thiết bị phần cứng có khả năng giao tiếp theo 
các chuẩn IoT được định nghĩa sẵn. Các thiết bị này rất đa dạng tùy theo 
mục đích sử dụng như: thiết bị thông minh cá nhân (điện thoại, đồng 
hồ,...), thiết bị gia dụng (tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ,...), hay các thiết bị 
quan trắc, cảm biến đo các điều kiện của môi trường (nhiệt độ, độ ẩm, 
ánh sáng,...). 
- Hạ tầng kết nối IoT chính là hạ tầng mạng, đường truyền di động để các 
thiết bị IoT có thể kết nối, trao đổi dữ liệu với nhau thông qua một hệ 
thống phần mềm nền tảng trung tâm. Các thiết bị này có thể kết nối tới 
phần mềm trung tâm dưới dạng kết nối trực tiếp hoặc kết nối thông qua 
các thiết bị trung gian (cổng). 
1.2 Phần mềm/ Kết nối 
- Phần mềm nền tảng IoT: đây được coi là trái tim của hệ sinh thái 
IoT, có các chức năng quản lý kết nối, tổng hợp, lưu trữ và xử lý dữ liệu 
gửi về từ các thiết bị. Phần mềm được yêu cầu phải kết hợp tất cả mọi 
thứ với nhau hoặc làm cho dữ liệu có thể sử dụng được, và sự kết nối là 
cần thiết để chia sẻ thông tin hoặc giao tiếp với toàn bộ hệ thống. 
- Phần mềm phân tích dữ liệu lớn: Đây là thành phần mang lại giá trị 
chính cho hệ sinh thái IoT bởi đích đến của IoT, xét cho cùng, không chỉ 
đơn thuần là kết nối và nhận dữ liệu từ các thiết bị mà là khai thác dữ 
liệu đó thế nào để tạo ra giá trị cho người dùng cuối. 
58 
1.3. Dịch vụ 
Dịch vụ IoT: Các ứng dụng IoT trong các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe, 
đô thị, nhà máy, năng lượng, môi trường, nông nghiệp, giao thông, phục vụ 
trực tiếp người dùng cuối. 
1.4. Luật lệ / quy định 
Chính sách: một yếu tố chính khác sẽ quyết định cách phát triển của IoT đó 
là các tiêu chuẩn, quy định và các chính sách của Chính phủ giúp cho hệ 
sinh thái IoT phát triển bền vững. 
Bên cạnh đó, để phát triển hệ sinh thái IoT cần phải có các yếu tố như kết 
nối, truyền dẫn và quản lý dữ liệu, bảo mật (Comptia, 2015). 
Theo khuyến nghị của Hiệp hội các tổ chức viễn thông quốc tế (ITU-
T.2012), hệ sinh thái IoT bao gồm các thành phần: Thiết bị, sự phân tích, 
mạng và bảo mật. Trong hệ sinh thái IoT gồm các thực thể (người sử dụng, 
doanh nghiệp và chính phủ) có khả năng kết nối, điều khiển các thiết bị của 
họ trong các môi trường như sản xuất, giao thông vận tải, nông nghiệp. 
Nguồn: IEEE.2015 
Hình 2. Mô hình hoạt động trong hệ sinh thái IoT. 
Về hoạt động trong hệ sinh thái IoT, khi một thực thể sử dụng một điều 
khiển từ xa (ví dụ như điện thoại thông minh hay máy tính bảng) gửi một 
lệnh hay một thông tin yêu cầu qua một mạng tới một thiết bị IoT, khi đó 
thiết bị sẽ thực hiện lệnh và gửi thông tin quay trở lại qua mạng để được 
phân tích và hiển thị trên thiết bị điều khiển từ xa ở trên (Hình 2). 
Trên cơ sở hệ sinh thái IoT người ta cũng đưa ra khái niệm hệ sinh thái 
thương mại IoT được hình thành xung quanh các giải pháp công nghệ cụ 
thể, tập trung vào một miền ứng dụng cụ thể, chẳng hạn như giải pháp nhận 
 59 
dạng qua tần số vô tuyến hay thông tin liên lạc ZigBee trong nhà thông 
minh trong kinh doanh bán lẻ. Hệ sinh thái thương mại IoT bao gồm nhiều 
nhà cung cấp khác nhau, vai trò của các nhà cung cấp và mối liên hệ trong 
hệ sinh thái IoT được mô tả tại Hình 3. 
Nguồn: ITU-T.2012. 
Hình 3. Hệ sinh thái thương mại IoT. 
- Nhà cung cấp thiết bị: Các nhà cung cấp thiết bị chịu trách nhiệm về các 
thiết bị cung cấp dữ liệu thô hoặc nội dung cho các nhà cung cấp mạng 
và các ứng dụng cung cấp theo logic dịch vụ. 
- Nhà cung cấp mạng: Các nhà cung cấp mạng đóng một vai trò trung tâm 
trong hệ sinh thái IoT. Đặc biệt, các nhà cung cấp mạng thực hiện các 
chức năng chính sau: 
+ Truy cập và tích hợp các nguồn lực được cung cấp bởi các nhà cung 
cấp khác; 
+ Hỗ trợ và kiểm soát cơ sở hạ tầng IoT; 
+ Cung cấp các khả năng của IoT, bao gồm cả nguồn tài nguyên và khả 
năng của mạng cho các nhà cung cấp khác. 
- Nhà cung cấp nền tảng: Các nhà cung cấp nền tảng cung cấp khả năng 
tích hợp và giao diện mở. Các nền tảng khác nhau có thể cung cấp các 
khả năng khác nhau tới nhà cung cấp ứng dụng. Các nền tảng bao gồm 
khả năng tích hợp, lưu trữ dữ liệu, xử lý dữ liệu và quản lý thiết bị. 
- Nhà cung cấp ứng dụng: Các nhà cung cấp ứng dụng sử dụng các khả 
năng và nguồn lực được cung cấp bởi các nhà cung cấp mạng, nhà cung 
cấp thiết bị và nhà cung cấp nền tảng, để cung cấp các ứng dụng IoT cho 
khách hàng. 
- Ứng dụng của khách hàng: Các khách hàng là người sử dụng các ứng 
dụng của IoT được cung cấp bởi các nhà cung cấp ứng dụng. 
IoT được coi là cuộc cách mạng công nghiệp tiếp theo - nó sẽ thay đổi cách 
các doanh nghiệp, chính phủ và người sử dụng tương tác với thế giới vật 
Ứng dụng khách hàng 
Nhà cung cấp thiết bị 
Nhà cung cấp mạng 
Nhà cung cấp nền tảng Nhà cung cấp dịch vụ 
60 
chất. IoT là một hệ sinh thái phức tạp, do đó, từ việc tìm hiểu về hệ sinh 
thái IoT cũng như mối liên hệ giữa các thành phần trong hệ sinh thái IoT sẽ 
xác định những thách thức và cơ hội trong quá trình phát triển và ứng dụng 
IoT cho các bên liên quan như cơ quan quản lý, các nhà cung cấp và người 
sử dụng. 
2. Hiện trạng phát triển hệ sinh thái IoT Việt Nam 
2.1. Tác nhân của hệ sinh thái IOT 
Như đã đề cập ở phần trên, hệ sinh thái IoT gồm các tác nhân chính: Chính 
phủ (ban hành chính sách, thúc đẩy phát triển qua đầu tư công); Doanh 
nghiệp/Doanh nghiệp khởi nghiệp/Cộng đồng phát triển (cung cấp các giải 
pháp công nghệ về phần mềm, hạ tầng kết nối, phần cứng, dịch vụ); Thị 
trường mua sản phẩm và mối liên hệ giữa các thành tố này với nhau3. 
Trong thời gian qua hệ sinh thái IoT của Việt Nam đã có nhiều động thái để 
đẩy mạnh sự phát triển IoT tại Việt Nam, đặc biệt là sự tham gia tích cực 
của các doanh nghiệp Việt Nam tại cả 4 lĩnh vực (ứng dụng, mạng, nền tảng 
và thiết bị) (Hình 4). 
Trong bức tranh toàn cảnh về IoT ở Việt Nam có thể thấy rằng, các phân 
đoạn như xây dựng cơ sở hạ tầng kết nối và nền tảng mở là những nhiệm vụ 
được triển khai bởi các công ty viễn thông lớn, ví dụ: Viettel, VNPT. Bên 
cạnh đó, các công ty như: DTT, FPT, VNG và Konexy là các doanh nghiệp 
phần mềm cũng đang nghiên cứu trên nền tảng IoT. 
Ứng dụng 
IoT 
ATTT 
Mạng 
Nền tảng 
Thiết bị 
IoT 
Nguồn: Nhóm đề tài nghiên cứu 
Hình 4. Hệ sinh thái IoT tại Việt Nam. 
3 Nguồn: https://www.slideshare.net/gatordkim/iot-ecosystemchallengesdaeyoungkimauto idlabskaist 
 61 
Trên hết, các công ty nhỏ hơn đang sử dụng cơ sở hạ tầng hiện tại để tập 
trung vào việc xây dựng các giải pháp theo chiều dọc và đưa ra thị trường 
trong thời gian ngắn. Chính phủ đóng vai trò hỗ trợ bằng cách xây dựng hệ 
sinh thái bền vững, bao gồm các cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển và xây 
dựng các vườn ươm công nghệ để hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là các 
doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển. 
Bên cạnh đó, trong hệ sinh thái IoT không thể thiếu các yếu tố khác như sự 
hình thành và phát triển của các khu công nghệ cao, các vườn ươm, các quỹ 
đầu tư đóng vai trò như các chất xúc tác để thúc đẩy khởi nghiệp trong 
IoT. Các trường đại học và viện nghiên cứu cũng đóng vai trò cung cấp 
nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng được yêu cầu phát triển của IoT. Ngoài 
ra, các nhóm nghiên cứu, các hội, nhóm của các cá nhân, các tổ chức tham 
gia vào hệ sinh thái để cùng nâng cao nhận thức về vai trò của IoT trong xu 
thế phát triển chung. 
2.2. Một số kết quả ban đầu về ứng dụng IoT ở Việt Nam 
Trong bức tranh về sự phát triển IoT tại Việt Nam, các giải pháp theo các 
ngành dọc đã được nghiên cứu, phát triển dưới nhiều hình thức, nhưng nhìn 
chung đã bám theo các vấn đề cốt lõi của Việt Nam còn nhiều khó khăn và 
có tiềm năng phát triển, cũng như để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của 
Việt Nam theo định hướng phát triển chung như: đô thị, giao thông, nông 
nghiệp; nhà thông minh,... Mặc dù IoT phát triển ở Việt Nam chưa lâu và 
chưa rộng rãi, nhưng một số ứng dụng đã được thương mại hóa, đã được đi 
vào cuộc sống, được triển khai có hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực nông 
nghiệp, giao thông, 
Về thị trường IoT. IoT tại Việt Nam đang là một lĩnh vực “nóng”, thu hút 
được nhiều công ty công nghệ tham gia nghiên cứu, sản xuất. Tuy nhiên, 
các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải vấn đề “sinh lời” bao gồm ươm 
tạo thông qua khởi nghiệp và/ hoặc cho bên thứ ba thuê li-xăng. Việt Nam 
có những doanh nghiệp làm chủ được công nghệ, có những giải pháp tốt 
(thậm chí so sánh với thị trường thế giới, như điện thoại thông minh của 
BKAV). Mặc dù vậy, việc kinh doanh của các doanh nghiệp này vẫn còn 
gặp nhiều khó khăn, trong đó có các khó khăn liên quan đến con người như: 
Khách hàng chưa nhận thức đầy đủ về các sản phẩm thông minh, hoặc ngại 
chuyển từ các giải pháp truyền thống sang các giải pháp thông minh,... 
Một số ví dụ về phát triển IoT như: Mimosa Tech đã thương mại hóa giải 
pháp cho nông nghiệp chính xác; Hachi là giải pháp giúp xây dựng khu 
vườn cá nhân tự động ở nhà; Trong thị trường nhà thông minh, BKAV và 
Lumi là hai doanh nghiệp đứng đầu, không chỉ sở hữu thị trường nội địa mà 
còn xuất khẩu sang các nước khác như Úc, Singapore và Ấn Độ. Trong lĩnh 
62 
vực phân tích dữ liệu, Abivin là một trong những người đầu tiên thu thập 
dữ liệu của xe tham gia giao thông và dựa trên bản đồ số, cho thấy các 
tuyến đường tối ưu hóa cho các phương tiện vận chuyển. Ngoài ra, nhiều 
ứng dụng khác vẫn còn ở giai đoạn thử nghiệm và do đó, đòi hỏi nhiều thời 
gian hơn để trưởng thành và cung cấp trên thị trường. 
Trong số các triển khai mở rộng quy mô lớn của IoT, phần lớn các giải 
pháp được cung cấp bởi các nhà cung cấp nước ngoài. Ví dụ, trong ngành 
chế biến rau quả chính xác, giải pháp TAP (Israel vendor) đã được triển 
khai ở Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. FPT kết hợp với Fujitsu phát triển nông 
nghiệp thông minh; Trong chăn nuôi: TH-True Milk nhập công nghệ chăn 
nuôi bò sữa trong chu trình cho bò ăn; Ứng dụng trong công nghiệp mía 
đường nhập khẩu công nghệ từ Isarel; VinEco trồng rau nhà kính nhập công 
nghệ từ Isarel; Nuôi tôm công nghệ cao tại Sóc Trăng, Đồng Nai; Tại Lâm 
Đồng áp dụng trong trồng hoa, 
Sự ra đời của các phòng thí nghiệm IoT công nghệ cao Hòa Lạc (Hoa Lac 
Hi-Tech Park - HHTP) là kết quả của mô hình này khi hợp tác giữa Bộ 
Khoa học và Công nghệ, HHTP, DTT, Dell và Intel. Bên cạnh đó, nhiều 
phòng thí nghiệm IoT khác được xây dựng để giới thiệu và hỗ trợ các công 
ty IoT mới thành lập để nuôi dưỡng ý tưởng và phát triển sản phẩm. Ngoài 
ra, tại các doanh nghiệp cũng xây dựng các phòng thí nghiệm để nghiên cứu 
và triển khai phát triển IoT. 
Nhìn chung toàn cảnh hệ sinh thái IoT Việt Nam đã từng bước được hoàn 
thiện, đã có nhiều ứng dụng IoT được nghiên cứu triển khai, nhưng mới đang 
ở bước thử nghiệm và triển khai nhỏ lẻ. Chưa có một lộ trình chung cho toàn 
bộ các nhân tố chung cùng bắt tay nhau để phát triển IoT tại Việt Nam. 
Việt Nam chưa có ứng dụng IoT nào thực sự có ảnh hưởng mạnh tới đời 
sống xã hội. Trong thời gian tới các ứng dụng trong lĩnh vực giao thông 
thông minh như thu phí không dừng, phạt nguội bằng camera, cùng với các 
ứng dụng như Uber, Grabtaxi hay Giao hàng nhanh được dự đoán là các 
ứng dụng liên quan tới IoT sẽ trở nên phổ biến, có nhiều ảnh hưởng tới 
cuộc sống. Các lĩnh vực tiềm năng như y tế điện tử, nông nghiệp thông 
minh, bất động sản thông minh sẽ cần thêm thời gian để có những ứng dụng 
IoT phù hợp với Việt Nam. 
Đó là về ứng dụng, còn từ góc độ công nghiệp thì hầu hết các hệ thống ở 
trên nếu dùng công nghệ IoT đều của các doanh nghiệp nước ngoài, các 
doanh nghiệp trong nước cơ bản mới chỉ tập trung vào các ứng dụng trên 
nền tảng điện thoại di động, máy tính mà còn chưa khai thác hết tính thông 
minh của các hệ thống cảm biến hay khai thác dữ liệu big data. Và đặc biệt 
các thiết bị phần cứng thì hầu hết là nhập khẩu như camera, thiết bị nhận 
dạng qua tần số vô tuyến, các cảm biến hóa học. 
 63 
2.3. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo IoT 
Để có được cách nhìn hệ thống về hệ sinh thái đổi mới trong IoT ở Việt 
Nam, Hệ sinh thái đổi mới công nghệ thông tin và truyền thông do 
Fransman đề xuất (Martin Fransman, 2014) (Hình 5) có thể cung cấp cách 
đánh giá năng lực và vai trò của các thành phần trong Hệ sinh thái đó. 
Nguồn: Martin Fransman, 2014 
Hình 5. Hệ sinh thái đổi mới CNTT-TT. 
Nếu sắp xếp 4 thành phần này thành 4 lớp theo thứ tự được đánh số, thì 
chúng ta có thể thấy ngay rằng ngành công nghiệp CNTT Việt Nam khó có 
cơ hội để chen vào Lớp 1 (các nhà cung cấp thành phần cho các hạ tầng 
truyền thông) nơi đã chật hẹp với các nhà cung cấp như Cisco, Huawei, HP, 
Dell,... Điều đáng kể là các doanh nghiệp Việt Nam như VNPT, Viettel, 
Mobifone, FPT đã làm tốt ở Lớp 2: các nhà vận hành hạ tầng truyền thông, 
và vì vậy sự tập trung của Việt Nam sẽ là vào Lớp 3: Nhà cung ứng nền 
tảng, ứng dụng, nội dung. 
Để phát triển lớp 3, chúng ta cùng tham khảo mô hình này trên thế giới và 
trong lĩnh vực khác tại Việt Nam. Hệ sinh thái CNTT-TT trên thế giới hiện 
nay có thể được diễn tả như sau: 
Cuộc cách mạng Internet đã làm cho vai trò của Lớp 3 bứt lên trở thành nơi 
tạo ra doanh thu và lợi nhuận lớn nhất, những công ty tại đây đã lớn tới 
mức có thể đàm phán với Lớp 2 và đặc biệt tạo ra các lựa chọn thay thế tại 
Lớp 1. Ví dụ, Facebook, Google, Apple đều có những thỏa thuận 2 chiều 
với các nhà cung cấp hạ tầng mạng. Hơn thế nữa họ cũng đang tạo ra những 
cấu phần thuộc Lớp 2 của chính họ như dự án X của Google dùng khinh khí 
cầu cung cấp Internet và dự án cung cấp Internet miễn phí của Facebook. 
Các công ty dẫn đầu trong Lớp 3 cũng đã định nghĩa lại các tiêu chuẩn của 
Lớp 1 và tạo ra những thị trường mở cho các công nghệ mở với giá tốt hơn 
và sáng tạo hơn. Với Google đó là các nền tảng phần mềm middleware 
64 
nguồn mở như hệ điều hành điện toán đám mây hay các nền tảng dữ liệu 
lớn như Hadoop và với Facebook đó là phần cứng nguồn mở - (open source 
hardware). 
Nguồn: Martin Fransman, 2014 
Hình 6. Đầu ra của sản phẩm và dịch vụ sáng tạo (từ cả 3 lớp). 
Sự thay đổi tại Lớp 3 cũng dẫn tới những thay đổi mạnh mẽ tại Lớp 1. Đó 
là việc IBM bán đi bộ phận máy tính cá nhân, HP cũng có thể đang làm 
điều tương tự. Ngoài ra, nó còn tạo cơ hội cho những hãng trước kia chỉ 
làm gia công như các công ty Trung Quốc và Ấn Độ có thể bán thẳng sản 
phẩm của mình cho Facebook hay Google mà không cần trả chi phí cho 
nhãn hiệu hàng hóa như trước kia. 
Tại Việt Nam, những thay đổi này cũng đang diễn ra dù chưa toàn cục, 
nhưng ở một lĩnh vực nhỏ hơn và theo một cách khác đó là lĩnh vực chính 
quyền điện tử. Trong mô hình này, Việt Nam đã làm chủ cả Lớp 2 và Lớp 
3, vì vậy, đã bắt đầu có những phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực chính 
quyền điện tử. Mô hình chính quyền điện tử của Đà Nẵng được xây dựng 
trên nền tảng nguồn mở do 7 công ty trong nước xây dựng cùng với sự tư 
vấn của Hàn Quốc đã mang lại những thành tựu đáng ghi nhận. Thủ tướng 
Chính phủ đã quyết định nhân rộng mô hình tham khảo này tới các tỉnh 
thành, mọi ngành trên toàn quốc; cộng đồng nền tảng chính quyền điện tử 
nguồn mở OEP cũng đã được thành lập và có được sự tham gia của các 
doanh nghiệp lớn uy tín trong nước như VNPT, Hanel, DTT,... cùng với các 
doanh nghiệp trong khu vực. Mặc dù OEP mới chỉ được triển khai tại một 
số bộ ngành, địa phương nhưng nó cũng đã góp phần tạo cú hích để các đơn 
vị khác có những đầu tư nghiêm túc vào các công nghệ trong chính quyền 
điện tử ví dụ như phần mềm chính quyền điển tử4,... điều này là minh 
chứng của sự hình thành hệ sinh thái sáng tạo trong chính quyền điện tử mà 
4 https://www.youtube.com/watch?v=htYYt3yWa2E 
 65 
người sử dụng - chính quyền và người dân đang ngày càng được hưởng lợi 
nhiều hơn. Việc chính quyền điện tử phát triển cũng tạo cơ hội để các công 
ty Việt Nam xuất khẩu ra thế giới, có thể kể đến việc FPT trúng thầu hơn 30 
triệu USD tại Bangladesh, hay Viettel lên kế hoạch triển khai tại Châu Phi, 
hay Hanel DTT tại Myanmar (Nguyễn Thế Trung, 2015). 
Hệ sinh thái phát triển chính quyền điện tử tại Việt Nam 
Nguồn: Nguyễn Thế Trung, 2015. 
Hình 7. Sản phẩm và dịch vụ chính quyền điện tử. 
Điều cần cải thiện trong mô hình phát triển chính quyền điện tử Việt Nam 
đó là sự thiếu vắng của các doanh nghiệp khởi nghiệp, vốn là nguồn lớn 
nhất của sáng tạo. Trong thời gian tới, nếu Chính phủ có những chính sách 
hợp lý, hoàn toàn có thể tạo ra sự bùng nổ sáng tạo của các doanh nghiệp 
khởi nghiệp để mang lại những ứng dụng, nội dung nhanh chóng và phù 
hợp với nhu cầu của người dân, doanh nghiệp. Chính quyền điện tử sẽ có 
hiệu quả hơn nhiều lần nếu có những ứng dụng trên điện thoại di động dễ 
dàng sử dụng, người dùng chỉ cần sử dụng ứng dụng trên điện thoại di động 
để truy cập, giao dịch và theo dõi các dịch vụ công, các tương tác với chính 
quyền. Dữ liệu khi được chia sẻ (theo mô hình dữ liệu mở - open data) sẽ 
được các doanh nghiệp khởi nghiệp khai thác một cách sáng tạo để tạo ra 
các ứng dụng như: phát hiện tắc đường, phát hiện hạ tầng xuống cấp, phát 
hiện các vấn đề an ninh xã hội như khi có những vụ việc xảy ra, người dân 
có thể chụp ảnh lưu vị trí và báo cáo trực tiếp cho đơn vị chức năng. Nếu 
chính phủ chưa tạo ra những cơ chế cho việc này thì các doanh nghiệp khởi 
nghiệp sẽ phải chờ đợi các doanh nghiệp tại Lớp 3 phát triển các nền tảng 
cho phép họ truy cập, tích hợp và sử dụng dữ liệu một cách nhanh chóng. 
Điều này sẽ còn tùy thuộc vào thiện chí và năng lực của các doanh nghiệp ở 
Lớp 3. Tuy nhiên, hệ sinh thái đã hình thành và đây chỉ là vấn đề thời gian. 
Kinh nghiệm rút ra từ các phân tích trên cho thấy rằng, tại thời điểm này, 
66 
Lớp 3 đóng vai trò quyết định trong việc phát triển hệ sinh thái sáng tạo tại 
Việt Nam (Nguyễn Thế Trung, 2015). 
Tại Việt Nam, có thể nói đây là thời điểm thích hợp để bàn về việc tham gia 
chuỗi giá trị IoT, bởi IoT đang trong giai đoạn bắt đầu phát triển, chưa được 
định hình hoàn toàn, đặc biệt là các chuẩn trong kết nối và bảo mật, số 
lượng thiết bị IoT cho thị trường Việt Nam còn ở mức thấp, chưa đủ hấp 
dẫn để các hãng quốc tế tập trung cung cấp giải pháp toàn diện. 
Chính vì vậy, cơ hội để các công ty Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị là rất 
lớn. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi các ngành cần vào cuộc. Bởi vì giải pháp 
IoT không chỉ là phần mềm, phần cứng tiêu chuẩn mà còn là các phần cứng 
đặc thù. Có thể thấy ngay, các hệ thống này liên quan tới tất cả các ngành, 
các lĩnh vực như giao thông, nông nghiệp, y tế và đây chính là cơ hội cho các 
ngành, lĩnh vực tại Việt Nam phải phối hợp để làm ra những ứng dụng hữu 
ích. Ngành nông nghiệp với một lợi thế chiến lược và cạnh tranh là lĩnh vực 
Việt Nam có thể khai thác tiềm năng trong việc ứng dụng IoT. Quản lý rủi ro 
thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu cũng được xem là lĩnh vực có tiềm 
năng khai thác ứng dụng IoT dựa trên kinh nghiệm nhiều năm về giảm thiểu 
rủi ro thiên tai. Việt Nam có thể sản xuất 100% thiết bị trong nước như Công 
ty Mimosa đã làm với cảm ứng độ ẩm, nhiệt độ trong nông nghiệp hay DTT 
đã làm với các bộ TUHOC STEM trong giáo dục và Việt Nam có thể tiến tới 
sản xuất các thiết bị phức tạp hơn như nhận dạng qua tần số vô tuyến của 
Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Thiết kế Vi mạch hay thậm chí là những 
IP camera thông minh tiên tiến nhất. Đây là lý do để chúng ta tin rằng công 
nghiệp IoT tại Việt Nam có cơ hội phát triển. 
3. Kết luận 
Như vậy, không có một chuẩn chung nào cho định nghĩa về IoT cũng như 
mô hình kiến trúc chuẩn cho IoT. Tuy nhiên, IoT sẽ bao gồm các lớp cơ 
bản: lớp thiết bị, lớp mạng, lớp hỗ trợ dịch vụ, lớp ứng dụng. 
Có thể nói, các vấn đề nghiên cứu phát triển về IoT bao phủ trong một 
phạm vi rất rộng. Nó không chỉ giới hạn trong phạm vi một kỹ thuật cụ thể 
nào đó của ICT mà nó bao trùm gần như toàn bộ các lĩnh vực từ công nghệ 
phần cứng, phần mềm, công nghệ kết nối truyền thông, quản lý mạng, cơ sở 
dữ liệu. Không những thế nó còn liên quan tới các kỹ thuật, công nghệ 
thuộc các lĩnh vực khác như tự động điều khiển, cơ khí chính xác, công 
nghệ về môi trường, nông nghiệp và các ngành công nghiệp khác. Do vậy, 
để thực hiện được những mục tiêu mà IoT hướng tới đòi hỏi phải có sự hợp 
tác nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết các vấn đề đặt 
ra, để tạo ra các nền tảng, ứng dụng dịch vụ IoT mang tính tổng thể, hoàn 
chỉnh trong thực tế. 
 67 
Một số nước trong khu vực trong đó có Trung Quốc đã hình thành một Hệ 
thống quốc gia NC&TK về IoT - là kết quả của Kế hoạch Phát triển kinh tế-
xã hội 5 năm lần thứ 13 giai đoạn 2016-2020. Hệ thống đó bao gồm các 
doanh nghiệp như các tổng đài và các nhà phân phối cung cấp các hoạt 
động và phát triển hệ thống của IoT. Các viện nghiên cứu và trường đại học 
tập trung nghiên cứu các công nghệ chủ chốt và các tổ chức tiêu chuẩn chịu 
trách nhiệm xây dựng tiêu chuẩn cho IoT trong toàn quốc. Đến nay, nền 
công nghiệp dựa trên IoT đã được hình thành và tập trung ở các vùng ven 
biển như Vịnh Bohai, Đồng bằng Sông Yangtze, Sông Pearl cũng như một 
số vùng Trung và Tây Trung Quốc (Shanzhi, Chen et.al, 2014; Bạch Tân 
Sinh, Dương Khánh Dương, Đặng Thị Hoa, 2018). Việt Nam có thể tham 
khảo kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc xây dựng một hệ thống quốc 
gia NC&TK về IoT. 
Tìm hiểu về chuỗi giá trị là một phần quan trọng trong sự phát triển của 
IoT, chuỗi giá trị xác định cách các dịch vụ được cung cấp, IoT có một 
chuỗi giá trị rất phức tạp do thực tế nó tác động đến một số lượng lớn các 
quy trình. Cơ hội lớn cũng có nghĩa là có nhiều bên tham gia cần phải hợp 
tác với nhau để cung cấp các dịch vụ trên nền IoT. Tìm hiểu về chuỗi giá trị 
sẽ giúp những dự định phát triển trong IoT được đi đúng hướng cho các nhà 
quản lý, doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp trong IoT. 
Hệ sinh thái IoT tạo ra các công cụ về mặt chính sách để hỗ trợ cho IoT 
phát triển. Để IoT có thể phát triển và ứng dụng rộng rãi trong các ngành, 
một số giải pháp chính sách cần được thực hiện bao gồm: (i) Nâng cao nhận 
thức của các tổ chức ở mọi cấp, doanh nghiệp và người dân về vai trò và tác 
động của IoT đến phát triển kinh tế-xã hội; (ii) Xây dựng chiến lược quốc 
gia phát triển và ứng dụng IoT trước mắt, trung hạn và dài hạn; và (iii) Hình 
thành hệ sinh thái đổi mới và khởi nghiệp trong IoT, trong đó, nhấn mạnh 
vai trò của nhà nước trong việc kiến tạo những điều kiện hỗ trợ và thúc đẩy 
tác động kinh tế của ngành công nghiệp IoT trong các lĩnh vực kinh tế và xã 
hội, xây dựng hạ tầng cơ sở về mạng truyền thông với thế hệ công nghệ 5G, 
xây dựng và thống nhất tiêu chuẩn IoT và tăng cường bảo mật, an toàn an 
ninh cho IoT. 
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ như Trí tuệ nhân tạo 
(AI), Dữ liệu lớn (Big Data), in 3-chiều (3D), đang dần hình thành nên 
một nền tảng phát triển mới. Với cốt lõi là các nhánh công nghệ kể trên, 
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư hứa hẹn sẽ thay đổi căn bản phương 
thức các hoạt động kinh tế và xã hội, bao gồm cả cách thức sản xuất, giao 
thương, vận chuyển, và thậm chí cả cách thức con người sinh sống và giải 
trí Các công nghệ nêu trên dù tương đối khác biệt về bản chất, nhưng 
trong quá trình phát triển và ứng dụng, các công nghệ này có mối liên hệ 
68 
chặt chẽ, ràng buộc với nhau. Sẽ rất khó có thể đem lại hiệu quả, lợi ích 
kinh tế và xã hội to lớn, nếu ứng dụng hay phát triển một công nghệ riêng 
rẽ. Do đó, trong nghiên cứu chính sách phát triển ở Viêt Nam trong thời 
gian tới sẽ không thể tách rời việc cân nhắc, xem xét các tác động đa chiều, 
qua lại giữa các nền tảng công nghệ này với nhau. IoT là về sự cảm nhận, 
Dữ liệu lớn là nguồn năng lượng mới và Trí tuệ nhân tạo là bộ não để nhận 
diện tương lai của một thế giới mới - thông minh và kết nối./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Bạch Tân Sinh, Dương Khánh Dương, Đặng Thị Hoa, 2018. “Trung Quốc: Phát triển 
và Ứng dụng Internet kết nối vạn vật (IoT)”. Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam, 
số 11 năm 2018. 
2. Nguyễn Thế Trung, 2015. Khuyến nghị chiến lược để Việt Nam tham gia và thắng lợi 
trong làn sóng Internet của vạn vật - IoT. 
Tiếng Anh 
3. ITU - T. 2012 Recommendation ITU-T Y.2060: Overview of the Internet of things. 
4. Martin Fransman, 2014. Models of Innovation in Global ICT Firms: The Emerging 
Global Innovation Ecosystems. JRC Scientific and Policy Reports - EUR 26774 EN. 
Seville: JRC-IPTS. 
5. Shanzhi, Chen et.al, 2014. “A Vision of IoT: Applications, Challenges, and 
Opportunities with China Perspective”. IEEE Internet of Things Journal, Vol.1, No.4, 
August 2014 (pages 349-359) 
6. Comptia, 2015. “Sizing up the Internet of Things”, see 28/8/2015, 
7. IEEE. 2015. IoT Ecosystem Study, 2015. 
8. Michele Mackenzie and Andrew Cheung, 2017. IoT value chain revenue, Worldwide 
Trends and Forecats 2016-2025. Research forecast report. Aalysys Mason. 
<
4/analysys_mason_iot_value_chain_feb2017_sample_rdme0.pdf> 

File đính kèm:

  • pdfhien_trang_phat_trien_va_ung_dung_internet_ket_noi_van_vat_t.pdf