Hát đúm của người Thổ và vấn đề giữ gìn, bảo tồn trong bối cảnh hiện nay
Hát đúm là sinh hoạt văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng
người Thổ, còn được gọi là hát em ôi. Về bản chất, giống nhiều loại hình âm nhạc
dân gian khác, hát đúm cũng là một hình thức giao duyên nam nữ. Trong truyền
thống, hát đúm phổ biến rộng rãi ở các xã thuộc huyện Như Xuân, Thanh Hóa - nơi
có nhiều người Thổ sinh sống và cũng là nơi giao thoa mạnh mẽ của văn hóa Việt -
Thái - Mường, đây cũng là địa bàn chúng tôi thực hiện nghiên cứu và phản ánh
trong bài viết. Nội dung bài viết góp phần làm rõ nguồn gốc cũng như vị trí của hát
đúm trong chuỗi các sinh hoạt đời sống của người Thổ. Không gian diễn xướng của
hát đúm và những giá trị nghệ thuật của nó cũng được thể hiện rõ thông qua lăng
kính cộng đồng. Qua đó, chúng tôi có một số đánh giá chung về hiện trạng hát đúm
của người Thổ (xã Yên Lễ) hiện nay và đưa ra một số đề xuất góp phần bảo tồn loại
hình văn hóa truyền thống này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hát đúm của người Thổ và vấn đề giữ gìn, bảo tồn trong bối cảnh hiện nay
Hỏt đỳm của người Thổ và vấn đề giữ gỡn, bảo tồn trong bối cảnh hiện nay Trịnh Hữu Anh(*) và Trần Đức Tùng(**) Tóm tắt: Hát đúm là sinh hoạt văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng ng−ời Thổ, còn đ−ợc gọi là hát em ôi. Về bản chất, giống nhiều loại hình âm nhạc dân gian khác, hát đúm cũng là một hình thức giao duyên nam nữ. Trong truyền thống, hát đúm phổ biến rộng rãi ở các xã thuộc huyện Nh− Xuân, Thanh Hóa - nơi có nhiều ng−ời Thổ sinh sống và cũng là nơi giao thoa mạnh mẽ của văn hóa Việt - Thái - M−ờng, đây cũng là địa bàn chúng tôi thực hiện nghiên cứu và phản ánh trong bài viết. Nội dung bài viết góp phần làm rõ nguồn gốc cũng nh− vị trí của hát đúm trong chuỗi các sinh hoạt đời sống của ng−ời Thổ. Không gian diễn x−ớng của hát đúm và những giá trị nghệ thuật của nó cũng đ−ợc thể hiện rõ thông qua lăng kính cộng đồng. Qua đó, chúng tôi có một số đánh giá chung về hiện trạng hát đúm của ng−ời Thổ (xã Yên Lễ) hiện nay và đ−a ra một số đề xuất góp phần bảo tồn loại hình văn hóa truyền thống này. Từ khóa: Ng−ời Thổ, Hát đúm, Diễn x−ớng, Thanh Hóa Yên Lễ là một xã có nhiều tộc ng−ời sinh sống, trong đó ng−ời Thổ chiếm đa số. Hiện nay toàn xã có 1.053 hộ, với 4.957 nhân khẩu; có 4 dân tộc Thổ, M−ờng, Thái, Kinh, trong đó ng−ời Thổ chiếm 62,7%, ng−ời Kinh chiếm 32,77%, ng−ời M−ờng chiếm 3,12% và ng−ời Thái chiếm 1,41% (Ban chấp hành Đảng bộ xã Yên Lễ, 2010, tr.16). (*(** Yên Lễ có diện tích đất tự nhiên gần 3 ngàn ha, trong đó quỹ đất nông (*) NCS. Khoa Dân tộc học, Học viện Khoa học xã hội. (**) Trung tâm Thông tin văn hóa các dân tộc - Hội Dân tộc học và Nhân học Việt Nam. nghiệp là hơn 5 trăm ha (Ban chấp hành Đảng bộ xã Yên Lễ, 2010, tr.11). Yên Lễ có nhiều cánh đồng lớn nh− đồng Mạ, đồng Sẹt, đồng Bò, đồng M−ơng... rất thuận lợi cho việc trồng lúa và hoa màu. Điều kiện tự nhiên này khiến cho đời sống của ng−ời dân nơi đây, trong đó có ng−ời Thổ, gắn liền với nông nghiệp. Hát đúm là một hình thức giao duyên nam nữ đã đ−ợc hình thành từ lâu trong đời sống văn hóa của ng−ời Thổ. Tr−ớc đây, hát đúm rất phổ biến trong đời sống văn hóa của ng−ời Thổ Hát đúm của ng−ời Thổ 43 nơi đây. Hát đúm không đơn thuần chỉ là một hình thức diễn x−ớng dân gian, mà bên trong những lời ca, làn điệu ấy là cuộc sống, là sinh hoạt đời th−ờng cũng nh− tôn giáo của ng−ời dân nơi đây. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử và những biến đổi xã hội, hát đúm đã bị mai một và có nguy cơ biến mất trong đời sống ng−ời Thổ ở huyện Nh− Xuân. Do đó, việc s−u tầm, nghiên cứu và bảo tồn hình thức diễn x−ớng này đang là một vấn đề đặt ra cho các cơ quan có thẩm quyền. 1. Đôi nét về hát đúm của ng−ời Thổ ở Yên Lễ * Quan niệm về hát đúm Cuốn “Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam” định nghĩa: “Hát đúm là lối hát dân gian có nhiều ng−ời tham gia” (Hữu Ngọc, 2002, tr.312). Định nghĩa này nói tới tính chất, quy mô của hát đúm, nó dễ gây hiểu nhầm vì trong văn hóa dân gian còn có rất nhiều hình thức hát khác có sự tham gia của nhiều ng−ời. Ngoài ra, các tác giả nh− Trịnh Cao T−ởng (1978, tr.43), Vũ Loan (2001, tr.58), Tú Ngọc (1994, tr.132) và Nguyễn Đỗ Hiệp (2013, tr.10)... đều phát triển, thống nhất và đi đến một định nghĩa: hát đúm là một loại hình hát dân ca đối đáp nam nữ có một làn điệu, th−ờng đ−ợc hát trong lễ hội và sinh hoạt văn hóa cộng đồng vào mùa xuân, mùa thu; lời ca là những thể thơ dân gian phổ biến nh− lục bát, song thất lục bát; kết cấu của lời thơ có mối quan hệ mật thiết với âm nhạc; ở trung du, khi diễn x−ớng ng−ời hát còn sử dụng quả Đúm để tung đi ném lại cho nhau. Có thể thấy, hát đúm là một hình thức hát giao duyên nam nữ đã hình thành từ lâu trong xã hội ng−ời Việt, M−ờng, Thổ... (Nguyễn Đỗ Hiệp, 2013), và nó gắn với đời sống văn hóa, tâm linh của những c− dân nông nghiệp. Lời ca trong hát đúm chủ yếu là thể thơ lục bát và nơi diễn x−ớng của nó khá đa dạng, phong phú. * Nguồn gốc của hát đúm Yên Lễ là mảnh đất đ−ợc hình thành từ lâu trong lịch sử, nh−ng phải đến thế kỷ XV mới có sự ổn định về dân c−. Đây cũng là nơi có những xáo trộn dân c− mạnh mẽ bởi chiến tranh và loạn lạc. Dòng họ chủ yếu của ng−ời Thổ ở xã Yên Lễ là họ Lê, thờ ông Tổ Lê Phúc Thành, nguồn gốc ở Đồi Nhơm, dốc Quán Châu, Đình Sim thuộc huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Họ là hậu duệ của dân di c− từ vùng ng−ời Kinh vốn là c− dân nông nghiệp, mà đời sống hàng ngày gắn liền với các loại hình âm nhạc dân gian nh− hát đúm, hát ghẹo (Nguyễn Đăng Hòe, 1979; Vũ Ngọc Khánh-Phạm Minh Thảo, 1997). Hát đúm - hát giao duyên, là một trong những biểu hiện của tín ng−ỡng phồn thực: cầu mùa - là −ớc nguyện của c− dân nông nghiệp. Theo đó, có thể hát đúm Yên Lễ có nguồn gốc từ hát đúm vùng trung tâm đồng bằng của tỉnh Thanh Hóa. Trong quá trình s−u tầm và tìm hiểu về ca từ trong hát đúm, chúng tôi nhận thấy rằng ng−ời Thổ đã vận dụng các thể loại văn học nh− truyện Kiều, truyện Tống Trân-Cúc Hoa, Phạm Tải- Ngọc Hoa... trong các ứng tác. Bên cạnh đó, việc sử dụng các cấu trúc âm điệu, từ vựng trong hát đúm ở nơi đây có những nét giống với thể loại ví giặm/dặm Nghệ Tĩnh. Đây là một h−ớng gợi mở cho chúng tôi lần tìm về nguồn gốc của hát đúm ở Yên Lễ vào thế kỷ XV, gắn với những cuộc di dân tới vùng đất này. Đặc biệt, thể thơ phổ 44 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2015 biến nhất trong những lời hát đúm là thể lục bát. Nh− nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính từng viết: “Thể lục bát, sớm nhất cũng chỉ xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XV” (Nguyễn Xuân Kính, 2006, tr.215). Nh− vậy, hát đúm Yên Lễ là một minh chứng cho sự ảnh h−ởng của giao l−u văn hóa giữa vùng trung tâm của xứ Thanh với tiểu vùng văn hóa xứ Nghệ. * Những sinh hoạt trong hát đúm và hội trống chiêng Hát đúm của ng−ời Thổ đ−ợc tổ chức vào dịp lễ khai xuân, trong những ngày đầu Tết Nguyên Đán từ mồng 1 đến mồng 10. Hát đúm là một hình thức diễn x−ớng dân gian của cộng đồng đ−ợc diễn ra ở ngoài trời, trên đ−ờng làng, cổng chùa, cổng đình. Trong ngày hội xuân, những ng−ời đi hội, đi hát đều mặc trang phục ngày lễ đẹp nhất, nam giới ng−ời Thổ th−ờng mặc áo dài có hàng cúc đồng bên s−ờn phải, quần dài, khăn đóng; còn nữ giới mặc áo tứ thân hoặc năm thân dài đến đầu gối, cổ áo hình chữ nhật và khăn trùm đầu có màu trắng, gấp chéo hình tam giác. Thể lệ hát đ−ợc quy định khá chặt chẽ, tốp hát cùng giới (nam hoặc nữ) th−ờng là những ng−ời cùng lứa tuổi, không hát với ng−ời trong gia đình, họ tộc (anh em ruột, chồng, anh em chồng, chị dâu, em dâu...). Mọi ng−ời cho rằng thú vị nhất là hát với ng−ời làng bên. Đã ra đến hội và đi hát, tất cả các ông chồng hay bà vợ không đ−ợc ghen khi thấy vợ (hay chồng) mình cầm tay ng−ời khác để hát (vì có tục khi hát th−ờng nắm cổ tay nhau). Đó d−ờng nh− là một “hành lang pháp lý” của luật tục để bảo vệ cho ng−ời tham gia hát đúm. Khi hát, bạn hát (đặc biệt là nam) không đ−ợc chọn các từ có nghĩa khó hiểu cho bạn hát của mình. Khi ứng đối không đ−ợc, bạn hát có thể nhờ ng−ời trong tốp hát của mình ứng đối giúp, sau đó họ lại có thể tiếp tục cuộc hát, ng−ời hát không đ−ợc dừng hát giữa bài (khổ thơ đối), nếu dừng sẽ bị phạt: phải mời những ng−ời đi hát uống r−ợu, ăn quà... Cuộc hát tuân thủ theo các b−ớc (hát) sau: - Mở đầu có các chặng hát gặp, hát chào, hát mời trầu... Giai đoạn này đ−ợc coi là thủ tục làm quen, thăm hỏi danh tính, đ−a ra những quy định và thể lệ cuộc hát. - Giai đoạn giữa: là trung tâm của các cuộc hát đúm và nó có thể kéo dài hay ngắn tùy thuộc vào cảm hứng của ng−ời hát. Nó bao gồm các chặng: tỏ tình, đối-đáp, hát họa, hát thách c−ới... Đây là lúc trai gái bày tỏ tình cảm với nhau và thử tài nhau. - Giai đoạn kết, hay gọi là hát chia tay: đây là lúc trai gái thể hiện sự l−u luyến của mình với đối ph−ơng và họ có thể hẹn nhau vào mùa hát năm sau. Có thể nhận thấy hát đúm của ng−ời Thổ đ−ợc đặc tr−ng bởi đạo cụ là quả đúm(*) trong khi diễn x−ớng. Vào tr−ớc Tết, mỗi cô gái th−ờng tự làm cho mình một quả đúm và vào ngày hội cô gái sẽ ném sang cho ng−ời con trai mà mình thích. Đó là một sự thỏa thuận, một tín hiệu yêu th−ơng đ−ợc ng−ời con gái gửi tới bạn hát của mình. (*) Quả đúm đ−ợc ng−ời con gái may tr−ớc Tết, nó đ−ợc gói trong một tấm vải nhỏ hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 10cm. Bên trong quả đúm đ−ợc nhồi cát và cám xay để khi ném vừa nhẹ lại không bị gió cản. Sợi dây nối với giữa quả đúm đ−ợc làm bằng dây gai hoặc sợi bông dài khoảng 1m, đ−ợc khâu thêm các mảnh vải xanh, đỏ, vàng cho sặc sỡ. Hát đúm của ng−ời Thổ 45 Th−ờng thì cả tốp nam, nữ cùng chứng kiến các “đại diện” của “bên mình” hát đối với ng−ời “bên kia”, và vừa hát vừa tung quả đúm về phía đối ph−ơng. Khi vào cuộc hát, bao giờ câu hát (khổ thơ) chúc tết cũng là lời hát khởi đầu. Lần l−ợt từng ng−ời trong hai nhóm nam nữ có thể hát những câu chào mừng để làm quen, nh−ng ng−ời hát sau không đ−ợc hát trùng với lời ca của ng−ời hát tr−ớc. Bài bản lời ca d−ờng nh− có sẵn, thể thơ đ−ợc dùng để sáng tạo vào lời hát là thể song thất lục bát hoặc thể lục bát, một số bạn hát giỏi ứng đối có thể “sáng tác” thêm, cứ nh− thế một số bài bản đ−ợc bổ sung thêm lời thơ (hát) theo thời gian. Hoặc, qua những cuộc hát hàng năm giữa các làng với nhau, các cá nhân tự làm phong phú thêm lời ca của mình và truyền dạy cho các bạn cùng nhóm. Những cuộc hát đúm diễn ra trong không gian của ngày tết và đ−ợc tổ chức ở các sân bãi của chùa, đình trong xã Yên Lễ. Khi ấy làn điệu của nó cũng chậm rãi để phù hợp với tâm trạng cũng nh− không khí của cuộc giao duyên. Trong hát đúm ở Yên Lễ còn có một hình thức riêng là hát trống chiêng. Đây là một hình thức đ−ợc tổ chức trong đình, vào lễ cầu phúc và chỉ những đôi trai gái tài năng nhất mới đ−ợc thể hiện. Trong các ngày hội đình Thi, đình Thấng trong xã, làng xóm sẽ cử ra vài đôi trai gái để thể hiện các bài hát đúm tr−ớc sự chứng kiến của dân làng, quan lại. Khi ấy, nam đứng một bên đánh trống, nữ đứng đối diện gõ 4 chiếc chiêng với các âm thanh khác nhau. Trong cuộc hát, nam sẽ đánh trống và nữ đánh chiêng để tạo ra một âm thanh với nhịp điệu nhanh hơn hát đúm ngày th−ờng, và họ chỉ đ−ợc hát những bài hát chúc tụng, ca ngợi quê h−ơng, làng xã. ở đây hát trống chiêng mang tính chất của một hình thức hát thờ, hát cửa đình mà chúng ta vẫn th−ờng thấy ở quan họ, hát xoan hoặc chầu văn. * Ca từ trong hát đúm Là một loại hình dân ca gắn bó lâu đời với ng−ời Thổ, hát đúm đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và chịu ảnh h−ởng sâu sắc của văn học Việt Nam. Những lời ca trong hát đúm đã vận dụng tài tình những câu thơ lục bát, thơ bảy chữ, song thất lục bát để làm cảm hứng sáng tạo. Trong thời kỳ hình thành và phát triển, lời ca trong hát đúm chỉ là sự ứng vận những cặp từ, vốn từ đã có sẵn trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, cộng với t− duy liên t−ởng phong phú (Nguyễn Văn Huyên, 2002, tr.119). Về sau, với sự phát triển mạnh mẽ của nền văn học thế kỷ XV, thơ ca đạt ở trình độ đỉnh cao thì những lời ca trong hát đúm lại có một b−ớc chuyển mình mới. Những ng−ời đi hát đúm ai cũng biết vài câu, đến vài trăm câu thơ nổi tiếng trong Chinh phụ ngâm, truyện Kiều, Nhị Độ Mai,... để làm vốn từ khi hát. Tuy nhiên, đôi khi họ cũng có sự “tam sao thất bản” trong bài hát của mình, cũng có khi họ giữ nguyên những bài thơ đó để hát, miễn sao phù hợp với bối cảnh và có thể ứng đáp đ−ợc. * Giá trị nhân văn của hát đúm Tr−ớc đây ở cộng đồng ng−ời Thổ xã Yên Lễ, hát đúm là một loại hình dân ca, một sân chơi dành cho nhiều ng−ời. Bởi tính dân dã trong lời ca, làn điệu thì chỉ có một, nên trong khắp xóm làng ai cũng biết hát, không ít thì nhiều. Ng−ời có chất giọng tốt thì chú tâm luyện tập nhiều bài hát, còn ng−ời không có giọng thì cũng cố gắng biết vài câu để đôi khi ngồi hát. Trong ngày hội làng, xung 46 Thông tin Khoa học xã hội, số 9.2015 quanh những đám hát là những ng−ời theo dõi, phần nhiều là phụ nữ, đàn ông đã nhiều tuổi hoặc những chàng trai cô gái mới lớn. Họ đứng xung quanh những đám hát và có nhiệm vụ nhắc lời, gợi ý cho ng−ời đang thi tài bên trong, và đ−ợc gọi là những “ng−ời xui hát”. Tất nhiên họ cũng là một thành phần tham gia để làm cho đám hát vui hơn, kéo dài đ−ợc lâu hơn. Nhìn ở góc độ này, có thể thấy hát đúm là một nét sinh hoạt của cả cộng đồng, ng−ời ta không chỉ hát đúm mà còn đi chơi đúm. Sau mùa chơi xuân hát đúm, trong làng xã lại có những lời đồn thổi rằng có đôi yêu nhau, có đám chuẩn bị ăn hỏi... Các chàng trai cô gái truyền tai nhau với sự khâm phục, ng−ỡng mộ, đặc biệt là những chàng trai cô gái mới lớn. Đi hát đúm và chơi hội xuân là cơ hội để họ đi tìm tình yêu cho mình, nó nh− một nhu cầu trong đời sống văn hóa của ng−ời Thổ nơi đây. Nội dung trong các cuộc hát th−ờng xoay quanh chủ đề tình yêu, vợ chồng. Khi các chàng trai cô gái hát với nhau với những lời ca yêu th−ơng, bay bổng, ng−ời ngoài nghe sẽ nghĩ họ là một cặp đôi thực sự. Trong hát quan họ, liền anh, liền chị không đ−ợc lấy nhau, thì hát đúm lại là cơ hội để những ng−ời hát nên vợ nên chồng. Họ hẹn −ớc, thề thốt cùng nhau và trao nhau những vật phẩm làm tin. Đôi khi đó là cái khăn mùi xoa mà chàng trai đã chuẩn bị tr−ớc khi đi hội, cũng có khi là cái nón của cô gái, hay những miếng trầu mà cả hai đã chuẩn bị sẵn. Trong khắp các làng quê của ng−ời Thổ tr−ớc đây, hát đúm là một hình thức dân ca đối đáp giao duyên rất phổ biến. Nó th−ờng đ−ợc diễn ra vào mùa xuân và mùa thu, khoảng thời gian quan trọng của các c− dân làm nông nghiệp. Hát đúm ở đây đã v−ợt ra ngoài những lời ca bình th−ờng, nó trở thành một thứ “âm nhạc của cuộc đời”, một sinh hoạt tín ng−ỡng trong đời sống của ng−ời Thổ ở Yên Lễ. 2. Một số đánh giá và đề xuất Hiện nay, trong đời sống ng−ời Thổ ở Yên Lễ, hát đúm đã bị mai một và chỉ còn ở thế hệ ng−ời cao tuổi, trung niên. Trải qua chiến tranh và những thay đổi mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của địa ph−ơng, hát đúm bị coi là không còn phù hợp với nhịp sống đ−ơng đại và đang đứng tr−ớc nhiều thách thức, nhất là khi không gian diễn x−ớng của nó nh− ở đình, chùa... cũng không còn nhiều. Hiện nay, vào các dịp lễ hội diễn ra tại đình Thi hoặc vào dịp Tết Nguyên Đán, chính quyền xã Yên Lễ cũng vận động các thành viên tích cực tham gia biểu diễn hát trống chiêng để tô điểm cho phong trào văn nghệ. Tuy nhiên, trong nhận thức của nhiều ng−ời Thổ, hình thức hát trống chiêng chỉ còn là một nghi lễ nhằm khai mạc lễ hội cũng nh− bắt đầu ngày tết. Những lời ca của hát đúm cũng chỉ đ−ợc một số phụ nữ cao tuổi ghi chép một cách không hệ thống và ít đ−ợc truyền bá tới cộng đồng. Thanh niên ở Yên Lễ rất tự hào về truyền thống văn hóa của mình, trong đó có truyền thống hát đúm, hát trống chiêng, nh−ng để hát theo các cụ thì họ cảm thấy ng−ợng, lúng túng, và cho rằng lời ca cổ, lạc hậu, khó hiểu. Với nhận thức nh− vậy, thanh niên rất khó thuộc những lời ca cổ đó và càng ngày họ càng rời xa văn hóa truyền thống của mình. Điều này đang là một thách thức lớn đối với công tác bảo tồn, phát huy loại hình dân ca này trong đời sống ng−ời Thổ. Hát đúm của ng−ời Thổ 47 Trong cộng đồng ng−ời Thổ ở Yên Lễ hiện nay, vẫn còn nhiều ng−ời nhớ và thuộc các bài bản hát đúm, nh−ng hầu hết họ đều đã trên 60 tuổi. Những làn điệu hát đúm họ còn l−u giữ ch−a đ−ợc s−u tầm đầy đủ và đang có nguy cơ mất dần. Bởi vậy việc s−u tầm bài bản những lời ca của hát đúm ở Yên Lễ là một việc làm cấp thiết mà các cấp chính quyền, cơ quan nghiên cứu cần quan tâm hơn nữa. Hiện nay, một số công trình viết về ng−ời Thổ ở Nh− Xuân cũng có đề cập đến hát đúm, nh−ng xem hát đúm chỉ đơn thuần là một hình thức hát dân ca. Quan niệm này đang làm cản trở quá trình nghiên cứu, s−u tầm. Theo chúng tôi, có thể khẳng định, hát đúm không đơn thuần chỉ là hát, mà bên trong nó là cả một hệ thống nghi lễ, sinh hoạt, luật tục văn hóa gắn với đời sống của ng−ời Thổ. Chỉ khi nhìn nhận nh− vậy thì việc nghiên cứu sẽ hấp dẫn hơn và thu hút đ−ợc các nhà nghiên cứu từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Hát đúm là một hình thức sinh hoạt văn hóa gắn với cộng đồng ng−ời Thổ ở Yên Lễ trong truyền thống. Muốn bảo tồn và phát huy hát đúm trong bối cảnh hiện nay, ngoài việc đ−a nó vào các lễ hội, các ch−ơng trình biểu diễn văn nghệ thì cần xây dựng mô hình hát đúm gắn liền với đời sống cộng đồng. ở đó hát đúm mới có thể trở thành hình thức sinh hoạt văn hóa th−ờng nhật của ng−ời dân trong các buổi biểu diễn văn nghệ, trong các buổi hội họp làng xóm,... Chính quyền địa ph−ơng cũng cần khuyến khích các buổi sinh hoạt hát đúm với các lời hát cổ còn phù hợp với hiện tại. Cần thành lập các câu lạc bộ hát đúm tại địa ph−ơng. Tuy nhiên việc thành lập câu lạc bộ cũng nên giảm sự can thiệp của chính quyền địa ph−ơng trong khâu quản lý, tổ chức Tài liệu tham khảo 1. Lê Văn Bé (1977), B−ớc đầu tìm hiểu về ng−ời Thổ ở Nh− Xuân, Thanh Hóa, Luận án tốt nghiệp đại học, Đại học Tổng hợp Hà Nội. 2. Ban chấp hành Đảng bộ xã Yên Lễ (2011), Lịch sử Đảng bộ xã Yên Lễ, Nxb. Thanh Hóa, Thanh Hóa. 3. Nguyễn Đỗ Hiệp (2013), Hát đúm của ng−ời Việt ở Bắc bộ, Luận án tiến sĩ văn hóa học, Học viện Khoa học xã hội. 4. Nguyễn Văn Huyên (2002), Hát đối của thanh niên nam nữ ở Việt Nam, Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Nguyễn Xuân Kính (2006), Thi Pháp ca dao, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Phạm Hoàng Mạnh Hà, Trần Thị Liên (2012), Đời sống văn hóa các dân tộc ở Thanh Hóa, Nxb. Thanh Hóa, Thanh Hóa. 7. Vũ Loan (2001) Hát đúm thủy Nguyên - Văn hóa văn nghệ dân gian Hải Phòng, Nxb. Hải Phòng, Hải Phòng. 8. Phạm Lê Hòa, Đỗ Lan Ph−ơng (2001), “Hát đúm Phả Lễ - Thủy Nguyên - Hải Phòng”, Văn hóa nghệ thuật (7), tr.46-53. 9. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (1997), Kho tàng diễn x−ớng dân gian Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
File đính kèm:
- hat_dum_cua_nguoi_tho_va_van_de_giu_gin_bao_ton_trong_boi_ca.pdf