Hành vi tránh thông tin

Hành vi tránh thông tin là thuật ngữ

được sử dụng để chỉ hành vi của cá nhân

nhằm cản trở, trì hoãn hoặc giới hạn việc

tìm kiếm, tiếp nhận hoặc sử dụng thông tin

thích hợp cho việc ra quyết định của mình

[Neben T, 2015; Sweeny K, 2010].

Điểm đặc biệt là thông tin được đề cập

trong khái niệm trên phải là thông tin thích

hợp cho việc ra quyết định và có thể truy

cập một cách dễ dàng. Đây cũng chính

là điểm phân biệt hành vi tránh thông tin

với các hành vi tương tự khác như hành

vi không sử dụng thông tin vì không hứng

thú, vì thiếu thời gian, vì không có điều kiện

truy cập, vì thông tin không thích hợp cho

việc ra quyết định, Nói cách khác, hành

vi tránh thông tin là hành vi của cá nhân

nhằm tránh tiếp nhận hoặc sử dụng thông

tin hữu ích cho việc ra quyết định của mình

mặc dù thông tin đó có sẵn hoặc có thể truy

cập một cách dễ dàng [Neben T, 2015].

pdf 6 trang kimcuc 8140
Bạn đang xem tài liệu "Hành vi tránh thông tin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hành vi tránh thông tin

Hành vi tránh thông tin
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
10 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2018
TS Ngô Thanh Thảo
 Trường ĐH KHXH&NV- ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh
Tóm tắt: Bài viết giới thiệu tổng quát về hành vi tránh thông tin và hoạt động nghiên cứu hành 
vi tránh thông tin trong một số lĩnh vực.
Từ khóa: Thông tin; hành vi thông tin.
Information avoidance behavior
Abstract: The article presents overview of information avoidance behavior and its research 
literature.
Keywords: Information avoidance; information behavior.
HÀNH VI TRÁNH THÔNG TIN 
Đặt vấn đề 
Đến nay, lý thuyết và thực tiễn đều 
chứng minh rằng thông tin có giá trị đặc 
biệt quan trọng đối với việc ra quyết định 
của các cá nhân. Tuy nhiên, trên thực tế 
không phải lúc nào con người cũng muốn 
truy cập và sử dụng thông tin mặc dù thông 
tin đó có sẵn và có thể đem lại nhiều lợi ích 
cho người sử dụng. Hành vi tránh thông tin 
ngày càng trở nên phổ biến hơn trong xã 
hội và đem lại những hậu quả nhất định 
cho cá nhân và cho xã hội nói chung. Vì 
vậy, hành vi tránh thông tin ngày càng 
được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh 
vực khác nhau quan tâm nghiên cứu.
1. Khái niệm hành vi tránh thông tin
Hành vi tránh thông tin là thuật ngữ 
được sử dụng để chỉ hành vi của cá nhân 
nhằm cản trở, trì hoãn hoặc giới hạn việc 
tìm kiếm, tiếp nhận hoặc sử dụng thông tin 
thích hợp cho việc ra quyết định của mình 
[Neben T, 2015; Sweeny K, 2010]. 
Điểm đặc biệt là thông tin được đề cập 
trong khái niệm trên phải là thông tin thích 
hợp cho việc ra quyết định và có thể truy 
cập một cách dễ dàng. Đây cũng chính 
là điểm phân biệt hành vi tránh thông tin 
với các hành vi tương tự khác như hành 
vi không sử dụng thông tin vì không hứng 
thú, vì thiếu thời gian, vì không có điều kiện 
truy cập, vì thông tin không thích hợp cho 
việc ra quyết định,  Nói cách khác, hành 
vi tránh thông tin là hành vi của cá nhân 
nhằm tránh tiếp nhận hoặc sử dụng thông 
tin hữu ích cho việc ra quyết định của mình 
mặc dù thông tin đó có sẵn hoặc có thể truy 
cập một cách dễ dàng [Neben T, 2015].
Hiện nay, hành vi tránh thông tin trở nên 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
11THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2018
phổ biến trong nhiều lĩnh vực hoạt động 
khác nhau, từ hoạt động sản xuất, kinh 
doanh, nghiên cứu khoa học đến các hoạt 
động trong đời sống hàng ngày của con 
người. Chẳng hạn, các nhà đầu tư tránh 
xem danh mục đầu tư của mình khi thị 
trường chứng khoán đi xuống (hiệu ứng đà 
điểu); những người có vấn đề về sức khỏe 
thường tránh xem kết quả xét nghiệm mặc 
dù thông tin đó có thể giúp họ đưa ra quyết 
định tốt hơn; các nhà quản lý tránh nghe 
những ý kiến trái ngược những quyết định 
họ đã đưa ra, mặc dù những ý kiến đó có 
thể giúp họ cải thiện công việc của mình,... 
Hành vi tránh thông tin có thể rất đa 
dạng như: yêu cầu một ai đó không tiết lộ 
thông tin; rời khỏi một vị trí nào đó để tránh 
biết thông tin; không thực hiện các bước 
cần thiết để nắm bắt nội dung thông tin, 
Người sử dụng cũng có thể tránh thông tin 
ở nhiều mức độ khác nhau như: hoàn toàn 
chặn thông tin; tìm hạn chế trong một số 
nguồn thông tin; xử lý thông tin tìm được 
một cách qua loa,  
Hành vi tránh thông tin có thể xảy ra nhất 
thời hoặc thường xuyên. Người sử dụng có 
thể tạm thời tránh thông tin với dự định sẽ 
tìm thông tin sau đó hoặc có thể quyết định 
tránh thông tin hoàn toàn. Hành vi tránh 
thông tin có thể là hành vi thụ động, ví dụ 
khi một cá nhân không có hành động nào 
để nhận thông tin, hoặc chủ động, ví dụ khi 
một cá nhân yêu cầu một ai đó không cung 
cấp thông tin hoặc có những hành động để 
tránh thông tin [Sweeny K, 2010].
Hành vi tránh thông tin có thể chịu tác 
động của nhiều yếu tố khác nhau như: đặc 
điểm cá nhân, bao gồm khả năng định 
hướng và cách giải quyết các vấn đề; đặc 
điểm của bối cảnh hoạt động của người sử 
dụng, bao gồm áp lực thời gian, đặc điểm 
của công việc và môi trường làm việc, 
nguồn lực để giải quyết vấn đề; đặc tính 
của thông tin bao gồm số lượng và chất 
lượng của thông tin, trong đó chất lượng 
của thông tin đóng vai trò đặc biệt quan 
trọng [Golman R, 2016].
2. Nguyên nhân của hành vi tránh 
thông tin 
Các nguyên nhân dẫn đến hành vi tránh 
thông tin như sau [Golman R, 2016]:
- Nỗi lo sợ: cảm giác lo sợ có thể dẫn 
đến hành vi tránh thông tin của một cá 
nhân. Các nhà khoa học cho rằng đôi khi 
con người muốn tránh thông tin về sự rủi 
ro, ví dụ một tai họa hoặc bệnh tật, để làm 
giảm nỗi lo sợ về những rủi ro đó. Chẳng 
hạn, một số bệnh nhân ung thư thường 
tránh thông tin về tình trạng bệnh hoặc dự 
đoán về sự tiến triển của bệnh để giảm nỗi 
lo về khả năng không thể chữa khỏi bệnh.
- Mong muốn tránh sự tiếc nuối: cảm 
giác tiếc nuối xuất hiện khi mọi người so 
sánh kết quả của một quyết định với những 
gì sẽ xảy ra nếu họ thực hiện một lựa chọn 
khác. Tương tự như mong muốn tránh thất 
vọng, mong muốn tránh cảm giác tiếc nuối 
có thể dẫn đến hành vi tránh thông tin. Ví 
dụ, kết quả các nghiên cứu thực nghiệm 
trong lĩnh vực tâm lý học cho thấy nhiều 
người tiêu dùng tránh thông tin về sản 
phẩm họ không chọn mua hoặc thông tin 
về hạn chế của sản phẩm họ đã chọn mua. 
Điều này giúp họ tránh được cảm giác tiếc 
nuối về quyết định của mình.
- Tránh sự mâu thuẫn: từ những năm 
1950, các nhà khoa học đã nhận định 
rằng, nhiều người không thích những thông 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
12 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2018
tin mâu thuẫn với niềm tin hoặc quan điểm 
của mình về thế giới xung quanh. Kết quả 
nghiên cứu về quyết định trong quản lý 
doanh nghiệp cũng chỉ ra rằng các nhà 
quản lý có xu hướng tránh những thông tin 
có thể mâu thuẫn với các quyết định họ đã 
đưa ra. 
- Duy trì niềm tin: trong nhiều trường 
hợp, con người đầu tư thời gian, tiền bạc 
và công sức cho những mục đích nhất định 
dựa trên niềm tin của mình. Vì vậy, những 
thông tin có khả năng làm xói mòn niềm tin 
vốn là nền tảng của sự đầu tư có thể là mối 
đe dọa cho chính sự đầu tư. Trong những 
trường hợp này, việc tránh những thông tin 
có khả năng làm xói mòn niềm tin sẽ giúp 
cho con người củng cố niềm tin để tiếp tục 
theo đuổi mục đích của mình.
- Duy trì động lực: kết quả nghiên cứu 
thực nghiệm trong các lĩnh vực giáo dục, 
kinh tế và tâm lý học cho thấy, con người 
có thể tránh thông tin trong một số trường 
hợp vì sợ thông tin sẽ tác động và làm mất 
đi động cơ thúc đẩy thực hiện một công 
việc hoặc nhiệm vụ nào đó của mình.
- Trốn tránh trách nhiệm: trong một số 
trường hợp, mọi người có thể tránh thông 
tin vì lo sợ rằng việc tiếp nhận thông tin sẽ 
làm họ cảm thấy có lỗi, dẫn đến cắn rứt 
lương tâm vì hành vi không hợp đạo lý của 
mình. Chẳng hạn, người tiêu dùng có thể 
tránh thông tin về việc một nhà sản xuất 
có những hành động bị dư luận lên án như 
gian lận trong việc xử lý chất thải làm ô 
nhiễm môi trường hay sử dụng lao động 
trẻ em để giảm chi phí sản xuất vì hành vi 
tránh thông tin này sẽ giúp cho người tiêu 
dùng không cảm thấy áy náy khi mua và sử 
dụng sản phẩm của nhà sản xuất đó.
3. Các kiểu tránh thông tin 
Mặc dù về lý thuyết thì hành vi tránh 
thông tin đơn giản là không tìm kiếm, tiếp 
nhận và sử dụng thông tin nhưng trên thực 
tế con người sử dụng nhiều cách khác 
nhau để tránh thông tin. Dưới đây là một số 
cách thực hiện hành vi tránh thông tin phổ 
biến nhất [Golman R, 2016].
- Tránh tương tác với nguồn thông tin: 
một cá nhân có thể chọn cách tránh các 
kênh thông tin cụ thể như: tránh đọc một 
số loại báo hoặc tạp chí; tránh nghe hoặc 
xem một số chương trình của đài phát 
thanh hoặc truyền hình; tránh trao đổi với 
một số người,
- Không chú ý: đây là kiểu tránh thông 
tin khi một cá nhân đã có thông tin trong 
tay nhưng vẫn quyết định không tập trung 
chú ý đến thông tin đó. Có nhiều kiểu 
không chú ý khác nhau, trong đó một số 
kiểu có thể tương tự kiểu tránh tương tác 
nguồn thông tin. Ví dụ, nếu một người nhìn 
thấy một nhan đề bài báo và quyết định 
không chú ý đến, nghĩa là không đọc bài 
báo đó thì trường hợp này có thể xếp vào 
kiểu tránh tương tác nguồn tin hoặc không 
chú ý đều được. Tuy nhiên, khi một người 
đã đọc một bài báo nhưng quyết định hoàn 
toàn không nghĩ gì về nó thì đó chính là 
trường hợp không chú ý. 
- Diễn giải thông tin thiên lệch: khi thông 
tin được thu thập, xem xét và sử dụng theo 
nhiều cách khác nhau thì người sử dụng 
vẫn có thể tránh thông tin bằng cách diễn 
giải thiên lệch hoặc tránh rút ra những kết 
luận quan trọng nhất và logic nhất từ thông 
tin đó. Kết quả nhiều công trình nghiên cứu 
trong các lĩnh vực khác nhau cho thấy con 
người thường xem xét và diễn giải thông 
tin hoặc dữ liệu theo cách sao cho có thể 
củng cố niềm tin của mình và có xu hướng 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
13THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2018
chê bai chất lượng của thông tin trái ngược 
với những gì họ vẫn tin tưởng hoặc muốn 
tin tưởng.
- Quên: ngay cả khi đã nhận và xem xét 
thông tin thì một cá nhân vẫn có thể tránh 
bằng cách quên thông tin đó đi. Việc cố 
tình quên lãng có thể giúp con người vượt 
qua được những trải nghiệm khó chịu trong 
cuộc sống hoặc làm giảm sự mâu thuẫn về 
nhận thức. 
4. Hậu quả của hành vi tránh thông tin 
Hành vi tránh thông tin có thể đem lại 
nhiều hậu quả cho cá nhân và xã hội như 
sau:
- Làm mất cơ hội sử dụng thông tin cho 
việc ra quyết định: hậu quả rõ ràng và phổ 
biến nhất của hành vi tránh thông tin là làm 
mất cơ hội sử dụng thông tin hữu ích có thể 
hỗ trợ cho việc đưa ra quyết định đúng đắn 
của các cá nhân. Ví dụ, hành vi tránh thông 
tin về tình trạng bệnh của một người bị 
bệnh tim mạch có thể làm bệnh nhân này 
mất cơ hội được điều trị kịp thời, dẫn đến 
nguy cơ tử vong cao. Hành vi tránh thông 
tin cũng có thể làm nhiều người mất cơ hội 
tiếp cận và sử dụng ý kiến phản hồi hữu ích 
để hoàn thiện công việc của mình. Chẳng 
hạn, những giảng viên tránh đọc ý kiến 
đánh giá của người học về quá trình giảng 
dạy của mình sẽ không có được thông tin 
phản hồi có thể hữu ích cho việc nâng cao 
chất lượng hoạt động giảng dạy. Tương tự, 
những người quản lý không muốn nghe ý 
kiến đóng góp, phê bình sẽ không có thông 
tin có thể giúp họ hoàn thiện cách điều 
hành công việc. Trên thực tế, những người 
được hưởng lợi nhiều nhất từ thông tin phản 
hồi lại thường tránh thông tin này.
- Góp phần tạo ra các hành vi sai lệch: 
Hành vi tránh thông tin có thể dẫn đến 
những hành động ích kỷ hoặc trái đạo đức, 
hoặc cho phép những hành động này diễn 
ra một cách vô thức. Chẳng hạn, hành vi 
tránh thông tin có thể làm cho nhiều người 
mơ hồ, thiếu hiểu biết về những hành vi 
không chuẩn mực hoặc những trường hợp 
vi phạm đạo đức trong xã hội. Kết quả là 
thay vì phải nghiêm khắc lên án và tránh 
xa thì họ lại vô tình tiếp tay cho những hành 
động trái đạo đức hoặc thậm chí tự mình 
thực hiện những hành động đó.
- Thừa nhận và củng cố định kiến: Củng 
cố định kiến là một hình thức làm sai lệch, 
bóp méo niềm tin. Củng cố định kiến có thể 
có nhiều biểu hiện tiêu cực khác nhau và 
dẫn đến kết cục bất lợi như: làm cho người 
bệnh chấp nhận những cách điều trị phản 
khoa học, không có tác dụng dẫn đến bệnh 
nặng hơn hoặc tốn nhiều thời gian, chi phí 
hơn; làm thui chột những ý tưởng khoa học 
khi các nhà nghiên cứu giải thích một cách 
duy lý những thí nghiệm không thành công, 
quy kết chúng cho sự may rủi hoặc thiết kế 
không hoàn hảo và lặp lại các thí nghiệm 
tương tự cho đến khi chúng “đáp ứng” rồi 
kết luận một cách tự tin là giả thuyết ban 
đầu của họ hoàn toàn chính xác.
- Tư duy nhóm: là hiện tượng tâm lý xảy 
ra với một nhóm người vì mong muốn duy 
trì sự thống nhất và hài hòa trong nhóm 
nên đưa ra những quyết định khác biệt so 
với cơ chế suy nghĩ và ra quyết định thông 
thường của từng cá nhân trong nhóm. Tư 
duy nhóm thường ảnh hưởng tiêu cực đến 
việc ra quyết định. Khi xảy ra hiện tượng 
tư duy nhóm, mọi người thường đánh giá 
vấn đề không toàn diện, hoàn toàn tránh 
thông tin hoặc tìm kiếm thông tin một cách 
sơ sài, xử lý thông tin thiên lệch và sử dụng 
một cách phiến diện. Sự khan hiếm thông 
tin làm cho nhóm khó thay đổi hoặc điều 
chỉnh những quyết định không đúng đắn.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
14 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2018
- Góp phần tạo định kiến trong truyền 
thông: Nếu người sử dụng tránh những 
thông tin làm ảnh hưởng đến quan điểm 
hiện tại và chỉ cần thông tin hỗ trợ các quan 
điểm này thì lẽ tất nhiên là các phương tiện 
truyền thông sẵn sàng cung cấp thông 
tin được yêu cầu. Trong cuộc chiến giành 
người đọc và người xem, một số phương 
tiện truyền thông sẵn sàng cung cấp thông 
tin có nội dung thiên lệch để phù hợp với 
quan điểm của đối tượng mục tiêu của 
mình nhằm tăng lượng người đọc hoặc 
người xem. 
- Làm lây lan bệnh: Việc tránh xét 
nghiệm y khoa về các bệnh truyền nhiễm 
có thể góp phần làm lây lan các bệnh này. 
Khi một cá nhân bị bệnh truyền nhiễm 
nhưng lại lựa chọn tránh xét nghiệm, có 
thể do sợ kết quả xét nghiệm xấu, thì hành 
vi tránh thông tin kiểu này có thể dẫn đến 
khả năng lây bệnh cao, làm ảnh hưởng tiêu 
cực đến những người khác.
- Nghi ngờ, phủ nhận những kiến thức 
khoa học cơ bản và các chứng cứ khoa 
học: Hành vi tránh thông tin có thể dẫn đến 
sự nghi ngờ và phủ nhận những kiến thức 
khoa học cơ bản, ví dụ như phủ nhận sự 
biến đổi khí hậu mặc dù đây là vấn đề đặc 
biệt quan trọng và được nhiều người quan 
tâm hiện nay. Rất nhiều công trình nghiên 
cứu khoa học đã chứng minh rằng chính 
con người gây ra biến đổi khí hậu và có 
thể giảm mối đe dọa của biến đổi khí hậu 
đối với nhân loại nếu con người chung tay 
hành động. Tuy nhiên,vẫn còn nhiều người 
phủ nhận những kết luận này, bất chấp các 
số liệu thống kê khoa học. Hơn nữa, những 
người phủ nhận sự biến đổi khí hậu còn 
có xu hướng phỉ báng những công trình 
nghiên cứu trái ngược quan điểm của họ 
[Golman R, 2016].
5. Nghiên cứu hành vi tránh thông tin
Ở nước ngoài, nghiên cứu hành vi thông 
tin được bắt đầu từ thập niên 1950 trong 
lĩnh vực tâm lý học và truyền thông với 
các công trình nghiên cứu thực nghiệm 
về động cơ tránh thông tin. Đến nay, hoạt 
động nghiên cứu hành vi tránh thông tin 
được phát triển trong các lĩnh vực khác 
nhau như tâm lý học, truyền thông, chăm 
sóc sức khỏe, kinh tế học, khoa học máy 
tính, thông tin học, thư viện học, khoa học 
thần kinh, Hành vi tránh thông tin được 
nghiên cứu với nhiều khía cạnh từ các góc 
độ khác nhau như: Nguyên nhân của hành 
vi tránh thông tin; Các yếu tố tác động đến 
hành vi tránh thông tin; Các kiểu hành vi 
tránh thông tin; Mức độ và thang đo mức 
độ tránh thông tin; Hội chứng đà điểu; Các 
mô hình nghiên cứu hành vi tránh thông 
tin trong các lĩnh vực khác nhau; Các khía 
cạnh cụ thể của hành vi tránh thông tin như 
tránh tìm thông tin, tránh sử dụng thông 
tin [Isaksson V, 2014; Narayan B, 2011; 
Neben T, 2013].
Đặc biệt, có nhiều công trình khoa học 
tập trung nghiên cứu cách hạn chế hành 
vi tránh thông tin. Các nhà nghiên cứu đã 
đề xuất một số biện pháp hạn chế hành vi 
tránh thông tin như: Cung cấp thông tin rõ 
ràng và đầy đủ về tác giả để giúp người sử 
dụng dễ dàng lựa chọn thông tin thích hợp, 
từ đó giảm hành vi tránh thông tin; Thay 
đổi nội dung các chương trình đào tạo kiến 
thức thông tin và phát triển chương trình 
đào tạo kiến thức số; Thay đổi cách quảng 
bá và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ 
thông tin theo hướng cá nhân hóa để phù 
hợp với đối tượng mục tiêu; Thiết kế các 
hệ thống thông tin và xây dựng môi trường 
thông tin tốt hơn để đáp ứng nhu cầu tin 
đa dạng [Bawden D, 2008; Narayan B, 
2011; Neben T, 2015; Neben T, 2013].
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
15THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2018
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất 
định, hoạt động nghiên cứu hành vi tránh 
thông tin vẫn còn một số hạn chế đáng kể 
như [Neben T, 2015]:
- Hành vi tránh thông tin chưa được 
nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống 
và chuyên sâu;
- Hoạt động nghiên cứu hành vi tránh 
thông tin mới được chú trọng trong một số 
lĩnh vực;
- Các công trình nghiên cứu chủ yếu là 
nghiên cứu thực nghiệm, có rất ít công trình 
nghiên cứu lý thuyết; 
- Thiếu các khung lý thuyết chặt chẽ và 
thống nhất;
- Thiếu sự kết nối hoạt động nghiên cứu 
hành vi tránh thông tin trong các lĩnh vực 
khác nhau.
Hiện nay, hoạt động nghiên cứu hành 
vi tránh thông tin đang phát triển theo các 
xu hướng chính như: Phát triển trong các 
lĩnh vực mới như xã hội học, khoa học máy 
tính, khoa học thần kinh; Mở rộng nội 
dung nghiên cứu; Chú trọng vào nghiên 
cứu lý thuyết; Tập trung vào các công trình 
nghiên cứu chuyên sâu trong các lĩnh vực 
như chăm sóc sức khỏe, hệ thống thông 
tin, trong đời sống hàng ngày [Narayan B, 
2011; Sweeny, K. & Miller, W, 2012];
Ở Việt Nam, cho đến nay hành vi tránh 
thông tin vẫn chưa được các tổ chức quan 
tâm nghiên cứu.
Kết luận
Hành vi tránh thông tin ngày càng phổ 
biến và đem lại hậu quả đáng kể cho 
cá nhân cũng như xã hội. Vì vậy, các tổ 
chức ở Việt Nam, đặc biệt là các cơ quan 
TT-TV cần quan tâm nghiên cứu hành vi 
tránh thông tin để tìm các biện pháp ngăn 
ngừa hành vi này, từ đó nâng cao giá trị của 
thông tin đối với người sử dụng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bawden D. (2008). The dark side of 
information:overload, anxiety and other 
paradoxes and pathologies. Journal of 
Information Science, XX (X) 2008, pp. 1–12 © 
CILIP, DOI: 10.1177/0165551508095781, truy 
cập ngày 23/9/2017
2. Golman R. (2016). Information 
Avoidance https://www.researchgate.
net/publication/289717252_Information_
Avoidance, truy cập ngày 25/8/2017
3. Isaksson V. (2014). Information Avoidance 
Experienced by Academic Librarians in USA. 
A phenomenological Hermeneutic Approach 
www.diva-portal.se/smash/get/diva2:726005/
FULLTEXT01.pdf, truy cập ngày 15/9/2017
4. Manheim, L. (2014). Information non-
seeking behaviour. In Proceedings of ISIC, 
the Information Behaviour Conference, Leeds, 
2-5 September, 2014: Part 1, (paper isic18). 
Retrieved from 
isic/isic18.html, truy cập ngày 25/08/2017
5. Narayan B. (2011). The role of Infromation 
Avoidance in Every-day Life Information 
Behaviors 
doi/10.1002/meet.2011.14504801085/full, truy 
cập ngày 15/9/2017
6. Neben T. (2015). A Model of information 
avoidance in Information Systems Use http://
www.academia.edu/20712068/A_Model_
of_Defensive_Information_Avoidance_in_
Information_Systems_Use, truy cập ngày 
25/8/2017
7. Neben T. (2013). The Dual Pathway to 
Information Avoidance in Information Systems 
Use. https://ub-madoc.bib.uni-mannheim.
de/35208/1/Dual_Pathway_Neben_Heinzl_
vd_Trenck.pdf, truy cập 25/8/2017
8. Sweeny K.(2010). Information avoidance: 
Who, What, When and Why https://www.
researchgate.net/publication/232602336_
Information_Avoidance_Who_What_When_
and_Why, truy cập ngày 15/9/2017
9. Sweeny, K. & Miller, W. (2012). Predictors 
of information avoidance: when does ignorance 
seem most blissful? Self and Identity, 11(2), 
185-201 https://www.researchgate.net/profile/
Kate_Sweeny/publication/254225141, truy cập 
ngày 23/9/2017
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 10-6-2018; 
Ngày phản biện đánh giá: 25-8-2018; Ngày 
chấp nhận đăng: 15-10-2018).

File đính kèm:

  • pdfhanh_vi_tranh_thong_tin.pdf