Hành vi thông tin của giảng viên

Trong môi trường giáo dục đại học, đội

ngũ giảng viên là một trong những nhân tố

ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo và

nghiên cứu của nhà trường. Giảng viên thực

hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ khác nhau

như giảng dạy, nghiên cứu khoa học và phục

vụ cộng đồng. Mỗi nhiệm vụ đòi hỏi giảng

viên luôn nỗ lực để đạt được mục tiêu và

hiệu quả công việc, trong đó bao gồm hoạt

động tìm kiếm và sử dụng thông tin từ nhiều

nguồn khác nhau.

 Quá trình hình thành nhu cầu tin cũng

như hoạt động tìm kiếm, sử dụng và chia sẻ

thông tin của giảng viên- là những biểu hiện

hành vi thông tin (HVTT) của giảng viên- chịu

ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố ở các mức

độ khác nhau, như: trình độ chuyên môn,

quỹ thời gian, khả năng nhận diện nhu cầu

tin, kỹ năng sử dụng và tìm kiếm thông tin

từ các hệ thống tìm tin,. Ngoài ra, các yếu

tố khác như vai trò, yêu cầu của nhà trường

đối với giảng viên cũng tác động rất lớn đến

HVTT của giảng viên. Những ảnh hưởng đó

hình thành đặc điểm trong HVTT của giảng

viên các trường đại học nói chung, tại Tp. Hồ

Chí Minh nói riêng.

pdf 7 trang kimcuc 7120
Bạn đang xem tài liệu "Hành vi thông tin của giảng viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hành vi thông tin của giảng viên

Hành vi thông tin của giảng viên
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
17THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018
ThS Bùi Hà Phương
Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh 
Tóm tắt: Từ kết quả nghiên cứu hành vi thông tin của giảng viên tại các trường đại học ở Tp. 
Hồ Chí Minh, bài viết nhận diện một số loại hành vi thông tin của giảng viên. Phân tích một số điểm 
mạnh, hạn chế trong hành vi thông tin của giảng viên và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện 
hành vi thông tin của giảng viên trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tự học. 
Từ khóa: Hành vi thông tin; giảng viên; kết quả nghiên cứu; thông tin-thư viện.
Information behavior of lecturers 
Abstract: Based on the research on information behavior of lecturers at universities in Ho Chi 
Minh City, the article identifies some common types of information behavior, analyzes the strengths 
and limitations of these behaviors as well as recommends solutions for lecturers to improve their 
information behavior in lecturing, researching and self-studying.
Keywords: Information behavior; lecturers; research result; information-library.
HÀNH VI THÔNG TIN CỦA GIẢNG VIÊN 
Đặt vấn đề
	Trong	môi	 trường	giáo	dục	đại	học,	đội	
ngũ	giảng	viên	 là	một	 trong	những	nhân	 tố	
ảnh	hưởng	rất	lớn	đến	chất	lượng	đào	tạo	và	
nghiên	cứu	của	nhà	trường.	Giảng	viên	thực	
hiện	 đồng	 thời	 nhiều	 nhiệm	 vụ	 khác	 nhau	
như	giảng	dạy,	nghiên	cứu	khoa	học	và	phục	
vụ	 cộng	 đồng.	Mỗi	 nhiệm	 vụ	 đòi	 hỏi	 giảng	
viên	 luôn	 nỗ	 lực	 để	 đạt	 được	mục	 tiêu	 và	
hiệu	quả	công	việc,	 trong	đó	bao	gồm	hoạt	
động	tìm	kiếm	và	sử	dụng	thông	tin	từ	nhiều	
nguồn	khác	nhau.	
	Quá	 trình	 hình	 thành	 nhu	 cầu	 tin	 cũng	
như	hoạt	động	tìm	kiếm,	sử	dụng	và	chia	sẻ	
thông	tin	của	giảng	viên-	là	những	biểu	hiện	
hành	vi	thông	tin	(HVTT)	của	giảng	viên-	chịu	
ảnh	hưởng	của	rất	nhiều	yếu	tố	ở	các	mức	
độ	 khác	 nhau,	 như:	 trình	 độ	 chuyên	 môn,	
quỹ	thời	gian,	khả	năng	nhận	diện	nhu	cầu	
tin,	 kỹ	năng	sử	dụng	và	 tìm	kiếm	 thông	 tin	
từ	các	hệ	thống	tìm	tin,...	Ngoài	ra,	các	yếu	
tố	khác	như	vai	trò,	yêu	cầu	của	nhà	trường	
đối	với	giảng	viên	cũng	tác	động	rất	lớn	đến	
HVTT	của	giảng	viên.	Những	ảnh	hưởng	đó	
hình	thành	đặc	điểm	trong	HVTT	của	giảng	
viên	các	trường	đại	học	nói	chung,	tại	Tp.	Hồ	
Chí	Minh	nói	riêng.	
Việc	 nhận	 diện	 những	 đặc	 điểm	 khác	
nhau,	 các	 yếu	 tố	 tác	 động	 đến	 HVTT	 của	
giảng	viên	và	phác	thảo	mô	hình	HVTT	của	
giảng	viên	các	trường	đại	học	ở	Tp.	Hồ	Chí	
Minh	 có	 những	 ý	 nghĩa	 nhất	 định	 đối	 với	
giảng	 viên,	 các	 trường	 đại	 học,	 các	 nguồn	
thông	 tin,	 trong	đó	 thư	 viện	đại	 học	 là	một	
trong	 những	 nguồn	 thông	 tin	 quan	 trọng.	
Bài	viết	này	cung	cấp	cách	nhìn	chi	tiết	hơn	
về	HVTT	của	giảng	 viên	 tại	một	 số	 trường	
đại	học	ở	Tp.	Hồ	Chí	Minh,	nhận	diện	được	
những	đặc	trưng	cơ	bản	về	HVTT	của	giảng	
viên	và	đưa	ra	mô	hình	HVTT	của	giảng	viên.	
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
18 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018
 1. Nhận diện loại hành vi thông tin của 
giảng viên tại các trường đại học ở thành 
phố Hồ Chí Minh 
Việc	 nghiên	 cứu	 nhận	 dạng	 HVTT	 của	
giảng	viên	được	 thực	hiện	 thông	qua	khảo	
sát	bằng	phiếu	hỏi	tại	6	trường	đại	học	công	
lập	tại	Tp.	Hồ	Chí	Minh.	Phiếu	khảo	sát	được	
phát	ngẫu	nhiên	cho	giảng	viên	cơ	hữu	tại	6	
trường	đại	học	công	lập	theo	6	nhóm	ngành,	
lĩnh	vực	trong	thời	gian	4	tháng.	Kết	quả	thu	
được	là	447	trong	tổng	số	600	phiếu	hợp	lệ,	
đạt	tỷ	lệ	thu	hồi	62%.	Đồng	thời,	nhóm	nghiên	
cứu	 cũng	 sử	 dụng	 kết	 hợp	 phương	 pháp	
phỏng	vấn	sâu	giảng	viên	để	hiểu	rõ	hơn	về	
HVTT	của	giảng	viên	 tại	một	số	 trường	đại	
học	tại	Tp.	Hồ	Chí	Minh.	
Nội	dung	khảo	sát	và	phỏng	vấn	sâu	bao	
gồm:	mục	tiêu	tìm	kiếm	thông	tin	của	giảng	
viên,	mức	độ	ảnh	hưởng	của	các	yếu	tố	đến	
việc	hình	thành	nhu	cầu	tin	của	giảng	viên,	
những	 nguồn	 thông	 tin	 hỗ	 trợ	 giảng	 dạy,	
nghiên	 cứu	 khoa	 học	 và	 tự	 học	 của	 giảng	
viên;	cơ	sở	để	lựa	chọn	từng	nguồn	thông	tin	
của	giảng	viên,	đánh	giá	về	mức	độ	sử	dụng	
thư	viện	trường	của	giảng	viên,	đánh	giá	về	
mức	 độ	 đáp	 ứng	 của	 thư	 viện	 trường	 đối	
với	nhu	cầu	tin	của	giảng	viên,	đánh	giá	về	
hiệu	quả	của	hệ	thống	tìm	tin	trong	thư	viện	
trường,	mức	độ	ảnh	hưởng	của	các	yếu	tố	
đến	việc	lựa	chọn	hệ	thống	tìm	tin	của	giảng	
viên,	cách	thức	tìm	kiếm,	lưu	trữ	và	chia	sẻ	
thông	tin	của	giảng	viên	cũng	như	các	yếu	tố	
ảnh	hưởng	đến	hành	vi	sử	dụng	và	chia	sẻ	
thông	tin	của	giảng	viên.	
Từ	phân	tích	kết	quả	khảo	sát,	chúng	tôi	
nhận	 diện	 bốn	 loại	HVTT	 cơ	 bản	 của	 giáo	
viên,	đó	là:	HVTT	cá	nhân,	HVTT	phối	hợp,	
HVTT	hỗn	hợp	và	HVTT	phức	hợp.	
1.1. Hành vi thông tin cá nhân
Giảng	viên	 thường	 là	cá	nhân	 thực	hiện	
các	hoạt	động	nghiên	cứu	một	cách	độc	lập.	
Chẳng	hạn,	mỗi	giảng	viên	sẽ	chủ	động	tìm	
kiếm	 thông	 tin	cũng	như	sử	dụng	 thông	 tin	
nhằm	mục	đích	cụ	 thể	của	cá	nhân.	HVTT	
này	 thường	 gặp	 ở	 những	 giảng	 viên	 đang	
thực	 hiện	 một	 nghiên	 cứu	 nhất	 định	 như	
viết	bài	báo,	tham	luận,	soạn	bài	giảng	cho	
môn	học	mà	họ	đảm	nhiệm.	Đồng	thời,	với	
HVTT	 này,	 giảng	 viên	 thường	 thực	 hiện	
một	cách	chủ	động	và	độc	lập,	bởi	lẽ,	họ	là	
người	 quyết	 định	 phạm	 vi	 nhu	 cầu	 tin	 của	
mình,	 phương	 thức	 tìm	 kiếm	 thông	 tin,	 tổ	
chức	thông	tin	cũng	như	sử	dụng	thông	tin	
nào	phù	hợp.	Đặc	biệt,	đối	với	giảng	viên	có	
HVTT	này,	họ	thường	tự	chủ	động	bố	trí	thời	
gian	linh	hoạt	để	tìm	được	thông	tin	mà	mình	
cần.	 Nhìn	 chung,	 khuynh	 hướng	 HVTT	 cá	
nhân	này	 thường	 thấy	ở	những	giảng	viên	
đang	trong	giai	đoạn	tự	học	nâng	cao	trình	
độ.	Tuy	nhiên,	ở	các	hoạt	động	khác,	HVTT	
của	giảng	viên	cũng	thể	hiện	các	đặc	điểm	
này.	Kết	quả	khảo	sát	cho	thấy,	trong	số	23	
giảng	viên	là	nghiên	cứu	sinh	và	17	học	viên	
cao	học	được	hỏi,	có	27	giảng	viên	(chiếm	
67.5%)	 đã	 nhận	 diện	 và	 mô	 tả	 HVTT	 của	
mình	là	HVTT	cá	nhân.	
Ngoài	 ra,	một	 trong	những	biểu	hiện	dễ	
nhận	thấy	trong	HVTT	cá	nhân	này	chính	là	
trước	 khi	 tìm	 kiếm	 thông	 tin	 từ	 các	 nguồn	
thông	tin	khác,	họ	có	khuynh	hướng	tìm	kiếm	
trong	bộ	sưu	tập	của	cá	nhân	mà	họ	có	sẵn.	
Để	làm	rõ	hơn,	kết	quả	khảo	sát	cho	thấy,	có	
117	lượt	giảng	viên	(chiếm	tỷ	lệ	26.2%)	cho	
rằng	HVTT	của	họ	là	HVTT	cá	nhân.	Kết	quả	
phỏng	vấn	cũng	cho	thấy	giảng	viên	“có thể 
tự tìm kiếm thông tin từ Internet, vì tài liệu 
trên Internet có rất nhiều và có thể tìm khi có 
thời gian rảnh rỗi”.
1.2. Hành vi thông tin phối hợp
Trong	 hoạt	 động	 giảng	 dạy,	 nghiên	 cứu	
khoa	học	của	giảng	viên,	sự	phối	hợp	được	
thể	hiện	qua	rất	nhiều	hoạt	động,	ví	dụ,	quá	
trình	chia	sẻ,	trao	đổi	thông	tin	và	giải	quyết	
vấn	 đề	 cùng	 nhau.	 Những	 hoạt	 động	 này	
được	 thực	 hiện	 bởi	 nhóm	 hoặc	 đội	 trong	
cộng	đồng	học	thuật	như	giữa	giảng	viên	này	
với	giảng	viên	khác,	giữa	giảng	viên	với	sinh	
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
19THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018
viên	hoặc	các	mối	quan	hệ	khác.	HVTT	phối	
hợp	được	định	nghĩa	là	các	hoạt	động	được	
thực	hiện	bởi	nhóm	người	nhằm	xác	định	và	
giải	quyết	nhu	cầu	thông	tin	chung	[Poltrock	
et	al.,	2003].	HVTT	phối	hợp	cũng	được	hiểu	
là	 “hoạt	 động	 tiếp	 cận	 thông	 tin	 nhằm	 giải	
quyết	vấn	đề	mà	liên	quan	trực	tiếp	(giao	tiếp) 
hoặc	 gián	 tiếp	 (văn	 bản,	 ghi	 chú)	 đến	 quá	
trình	tương	tác	với	cá	nhân	khác.	Khi	đó,	cá	
nhân	đó	được	 xem	 là	một	 nguồn	 thông	 tin	
liên	 quan	 đến	 quá	 trình	 tìm	 kiếm	 thông	 tin	
trong	bối	cảnh	làm	việc	hoặc	cộng	đồng	rộng	
lớn	hơn	[Hansen	&	Jarvelin,	2005].
Với	HVTT	này,	mỗi	giảng	viên	thường	có	
sự	tương	tác	với	các	cá	nhân	khác	như	đồng	
nghiệp,	 sinh	 viên,	 bạn	bè,	 cán	bộ	 thư	 viện	
nhằm	tìm	kiếm	thông	tin.	Cụ	thể,	họ	thường	
xác	 định	 các	 cá	 nhân	 này	 như	một	 nguồn	
thông	 tin	 khi	 tìm	 kiếm	 (85	 lượt	 ý	 kiến	 của	
giảng	viên	hoàn	toàn	đồng	ý)	và	289	lượt	ý	
kiến	đồng	ý	rằng	họ	luôn	tận	dụng	các	nguồn	
thông	tin	khi	tìm	kiếm	như	đồng	nghiệp	bạn	
bè.	Chẳng	hạn,	khi	giảng	viên	có	nhu	cầu	tìm	
một	tài	liệu	chuyên	ngành	mà	họ	hoạt	động,	
họ	thường	hỏi	đồng	nghiệp	hỗ	trợ	bằng	cách	
mượn	tài	liệu	mà	đồng	nghiệp	có	sẵn.	Ngoài	
ra,	giảng	viên	có	thể	nhờ	đồng	nghiệp	mua	
giúp	từ	các	nhà	sách	khi	họ	có	chuyến	công	
tác	nước	ngoài.	Đặc	biệt,	một	 trong	những	
cách	 thức	 mà	 giảng	 viên	 thường	 thể	 hiện	
HVTT	 phối	 hợp	 đó	 là	 thông	 qua	 các	 đồng	
nghiệp	đang	học	tập,	nghiên	cứu	dài	hạn	tại	
nước	ngoài.	
Ngoài	 ra,	HVTT	phối	hợp	của	giảng	viên	
còn	 được	 thể	 hiện	 ở	 quá	 trình	 giảng	 viên	
phối	hợp	với	đồng	nghiệp,	sinh	viên	và	các	
cá	nhân	khác	nhằm	giải	quyết	vấn	đề	chung	
của	nhóm.	Chẳng	hạn,	khi	cùng	thực	hiện	đề	
tài	nghiên	cứu	khoa	học,	các	cá	nhân	giảng	
viên	thường	có	sự	phối	hợp	bằng	cách	chia	
sẻ	thông	tin	mà	họ	tìm	được	nhằm	thực	hiện	
mục	 tiêu	 chung	mà	nhóm	đặt	 ra.	Đặc	 điểm	
này	tương	ứng	với	hành	vi	của	giảng	viên	khi	
“sẵn	sàng	chia	sẻ	thông	tin	với	mọi	người”	(39	
lượt	ý	kiến	hoàn	toàn	đồng	ý	và	410	lượt	đồng	
ý	rằng	họ	sẵn	sàng	chia	sẻ	 thông	tin	khi	họ	
có).	Kết	quả	này	cho	 thấy,	sự	phối	hợp	của	
giảng	viên	được	thể	hiện	không	chỉ	qua	quá	
trình	họ	tự	tìm	kiếm	thông	tin	cho	cá	nhân,	mà	
còn	là	sự	phối	hợp	trong	chia	sẻ	thông	tin	với	
cộng	đồng.	Đây	là	một	điểm	mạnh	nổi	bật	về	
HVTT	của	giảng	 viên,	 bởi	 lẽ	 điều	này	hoàn	
toàn	phù	hợp	với	vai	trò	của	mỗi	người	giảng	
viên	trong	môi	trường	học	thuật.	
1.3. Hành vi thông tin hỗn hợp
Sự	kết	hợp	đồng	thời	giữa	HVTT	cá	nhân	
và	HVTT	phối	hợp	là	cơ	sở	hình	thành	một	
loại	HVTT	mang	tính	chất	hỗn	hợp,	vừa	đồng	
thời	 mang	 yếu	 tố	 cá	 nhân	 của	 từng	 giảng	
viên,	đồng	thời	vừa	là	sự	phối	hợp	hiệu	quả	
của	giảng	viên	với	các	cá	nhân	khác	 trong	
cộng	đồng	học	thuật.	
Đối	 với	 HVTT	 hỗn	 hợp	 này,	 giảng	 viên	
thường	khai	thác	và	tận	dụng	tối	đa	hiệu	quả	
nguồn	thông	tin.	Đồng	thời,	bản	 thân	giảng	
viên	cũng	có	khả	năng	tự	hoàn	thiện	hành	vi	
của	mình	trong	quá	trình	thoả	mãn	nhu	cầu	
tin.	Những	giảng	viên	có	HVTT	này	thường	
cho	rằng,	trong	quá	trình	tìm	kiếm	thông	tin,	
họ	thường	tìm	trong	ít	nhất	là	2	nguồn	thông	
tin	 trở	 lên	 (250	 lượt	 giảng	 viên	 đồng	 ý	 và	
hoàn	toàn	đồng	ý	rằng	họ	thường	tìm	ít	nhất	
là	2	nguồn	 thông	 tin	 trở	 lên).	Trong	khi	đó,	
85	lượt	ý	kiến	trả	lời	bình	thường	và	có	rất	ít	
giảng	viên	cho	rằng	họ	tiếp	cận	cả	hai	nguồn	
thông	tin	khi	tìm	kiếm.	Kết	quả	khảo	sát	này	
cho	thấy,	giảng	viên	thường	nỗ	lực	tìm	kiếm	
từ	 nhiều	 nguồn	 đáng	 tin	 cậy,	 trong	 đó	 bao	
gồm	nguồn	thông	tin	của	cá	nhân	giảng	viên	
và	các	nguồn	khác	từ	đồng	nghiệp,	Internet,	
thư	viện	của	trường	nhằm	có	được	thông	tin	
thoả	mãn	nhu	 cầu.	Ngoài	 ra,	một	 số	giảng	
viên	cũng	luôn	cần	đến	sự	hỗ	trợ	của	người	
khác	khi	tìm	kiếm	như	cán	bộ	thư	viện,	đồng	
nghiệp,	bạn	bè,	...	Tuy	nhiên,	số	lượng	giảng	
viên	cần	sự	hỗ	trợ	khi	 tìm	kiếm	chiếm	tỷ	 lệ	
không	cao	(chỉ	125	lượt	giảng	viên	trả	lời)	và	
số	giảng	viên	khác	thì	cho	rằng	họ	không	cần	
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
20 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018
đến	sự	hỗ	trợ	đó	(265	trả	lời	là	bình	thường	
và	49	lượt	giảng	viên	cho	rằng	họ	không	cần	
đến	 sự	hỗ	 trợ	 của	người	 khác	 khi	 tìm	 tin).	
Điều	này	cho	thấy,	giảng	viên	vừa	là	người	
chủ	 động	 thực	 hiện	 HVTT	 của	 mình	 một	
cách	độc	 lập,	đồng	 thời	 cũng	 là	người	cần	
sự	trợ	giúp	của	người	khác	khi	tìm	kiếm,	đặc	
biệt	khi	họ	cần	thoả	mãn	những	nhu	cầu	tin	
phức	tạp.	
Kết	 quả	 phỏng	 vấn	 giảng	 viên	 tại	 các	
trường	đại	học	trên	địa	bàn	Tp.	Hồ	Chí	Minh	
cho	 thấy,	 sự	 hỗ	 trợ	 từ	 phía	 thư	 viện	 là	 rất	
cần	 thiết	và	hữu	 ích	đối	với	các	giảng	viên	
trong	việc	 tìm	kiếm	 tài	 liệu	và	 tổ	chức,	sắp	
xếp	thông	tin.
Như	vậy,	xét	ở	góc	độ	nhất	định,	thì	HVTT	
của	giảng	viên	vừa	mang	tính	chủ	động	của	
từng	giảng	viên,	đồng	thời	vừa	có	sự	tương	
tác	trước,	trong	hoặc	sau	khi	tìm	kiếm	thông	
tin,	 cũng	như	 tổ	 chức,	 sử	dụng	 và	 chia	 sẻ	
thông	tin.	
1.4. Hành vi thông tin phức hợp
Mỗi	cá	nhân	giảng	viên	có	khả	năng	thực	
hiện	đồng	 thời	nhiều	hoạt	động	 trong	cùng	
một	thời	điểm.	Điều	này	có	thể	hiểu	là	HVTT	
phức	hợp,	nghĩa	là	tập	hợp	các	hành	vi	mà	
giảng	 viên	 thực	 hiện	 đồng	 thời	 trong	 cùng	
một	 thời	 điểm.	Chẳng	hạn,	 khi	 nhu	 cầu	 tin	
nảy	 sinh,	 giảng	 viên	 sẽ	 kết	 hợp	 tìm	 kiếm	
thông	tin.	Cùng	với	quá	trình	tìm	kiếm	thông	
tin,	họ	sẽ	chọn	lọc	những	thông	tin	phù	hợp	
và	 tiến	hành	 lưu	 trữ,	sử	dụng.	Hành	vi	này	
thường	được	thực	hiện	bởi	những	giảng	viên	
có	ít	 thời	gian	để	tìm	và	sử	dụng	thông	tin.	
Ví	dụ,	khi	giảng	viên	viết	bài	tạp	chí	về	một	
vấn	đề	cụ	thể,	họ	đồng	thời	vừa	tìm	tin,	vừa	
chọn	lọc	và	sử	dụng	thông	tin	trong	bài	viết	
của	mình.	Ngoài	ra,	một	số	kết	quả	khảo	sát	
cũng	cho	thấy,	khi	giảng	viên	tìm	kiếm	thông	
tin	về	vấn	đề	cụ	thể,	họ	có	khuynh	hướng	lưu	
trữ	thông	tin	trong	bộ	sưu	tập	cá	nhân,	đồng	
thời	đọc	và	sử	dụng	những	thông	tin	phù	hợp	
cho	mục	đích	cụ	thể.	Sau	đó,	họ	tiếp	tục	tìm	
những	thông	tin	khác.	
Có	thể	thấy,	HVTT	của	giảng	viên	rất	đa	
dạng,	 trong	 đó,	 căn	 cứ	 vào	 biểu	 hiện	 của	
giảng	viên	khi	tương	tác	với	thông	tin,	kết	quả	
nghiên	cứu	đề	xuất	bốn	loại	hành	vi	nổi	bật,	
đó	là:	HVTT	cá	nhân,	HVTT	phối	hợp,	HVTT	
hỗn	hợp	và	HVTT	phức	hợp.	Phân	tích	kết	
quả	khảo	sát	cho	 thấy,	 từ	447	phiếu	 trả	 lời	
của	giảng	viên	-	39,1%	số	giảng	viên	được	
hỏi	có	HVTT	phối	hợp,	chiếm	tỷ	lệ	cao	nhất.	
Có	26,2%	giảng	viên	cho	rằng	HVTT	của	họ	
là	HVTT	cá	nhân,	nghĩa	 là	họ	 tìm	kiếm,	sử	
dụng	thông	tin	một	cách	độc	lập	và	chủ	động,	
trong	khi	có	16.1%	giảng	viên	có	HVTT	hỗn	
hợp	và	18%	có	HVTT	phức	hợp.
Từ	thực	tiễn	nghiên	cứu	HVTT	của	giảng	
viên	tại	các	trường	đại	học	ở	Tp.	Hồ	Chí	Minh	
cho	thấy	HVTT	của	giảng	viên	như	sau:
-	Thứ	nhất,	HVTT	của	giảng	viên	tại	các	
trường	đại	học	ở	Tp.	Hồ	Chí	Minh	thể	hiện	
qua	 sự	 khác	 biệt	 của	 từng	 cá	 nhân	 giảng	
viên,	 đặc	điểm	nhu	 cầu	 tin	 của	giảng	 viên,	
hành	vi	tìm	kiếm,	sử	dụng	và	chia	sẻ	thông	
tin	của	giảng	viên;
-	Thứ	hai,	HVTT	của	giảng	viên	chịu	 tác	
động	từ	rất	nhiều	yếu	tố	khác	nhau,	trong	đó,	
vai	 trò	 của	 giảng	 viên	 là	 yếu	 tố	 quyết	 định	
và	ảnh	hưởng	 trực	 tiếp	đến	 sự	hình	 thành	
nhu	 cầu	 tin	 của	 giảng	 viên,	 đồng	 thời	 thúc	
đẩy	 giảng	 viên	 tìm	 kiếm,	 sử	 dụng	 và	 chia	
sẻ	thông	tin.	Cụ	thể,	nhu	cầu	tin	được	hình	
thành	dựa	trên	yêu	cầu	của	hoạt	động	giảng	
dạy	và	nghiên	cứu	khoa	học.	Đồng	thời,	quỹ	
thời	gian	của	giảng	viên	tác	động	rất	lớn	đến	
hành	vi	tìm	kiếm,	sử	dụng	và	chia	sẻ	thông	
tin	của	giảng	viên;
-	Thứ	ba,	xuất	phát	từ	việc	nhận	thức	về	
vai	trò	của	giảng	viên	trong	giảng	dạy,	nghiên	
cứu	khoa	học,	tự	học	hay	phục	vụ	cộng	đồng,	
ngoài	việc	chủ	động	tìm	kiếm	thông	tin,	mỗi	
giảng	 viên	 còn	 có	 sự	 phối	 hợp,	 hỗ	 trợ	 lẫn	
nhau	 trong	quá	 trình	 tìm	kiếm,	 sử	dụng	 và	
chia	 sẻ	 thông	 tin	 với	 đồng	nghiệp,	 bạn	bè,	
người	học	và	cộng	đồng	khoa	học	nói	chung.	
Chính	sự	phối	hợp	này	góp	phần	hình	thành	
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
21THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018
một	số	 loại	HVTT	của	giảng	viên	bao	gồm:	
HVTT	cá	nhân,	HVTT	phối	hợp,	HVTT	hỗn	
hợp	 và	 HVTT	 phức	 hợp.	 Trong	 đó,	 HVTT	
phối	 hợp	 của	 giảng	 viên	 được	 xem	 là	 loại	
hành	vi	phổ	biến	trong	quá	trình	giảng	viên	
tìm	kiếm	và	sử	dụng	thông	tin.	
Nhằm	 góp	 phần	 khai	 thác	 tối	 đa	 giá	 trị	
của	 thông	 tin,	 hỗ	 trợ	 giảng	 viên	 thực	 hiện	
vai	trò,	nhiệm	vụ	của	mình,	những	phân	tích	
trên	chính	là	cơ	sở	đề	xuất	những	giải	pháp	
nhằm	hoàn	thiện	HVTT	của	giảng	viên	trong	
những	nội	dung	nghiên	cứu	tiếp	theo.	
2. Một số ưu điểm, hạn chế về hành vi 
thông tin của giảng viên 
Trước	hết,	 quá	 trình	 nhận	diện	 nhu	 cầu	
tin,	 hành	 vi	 tìm	 kiếm,	 sử	 dụng	 và	 chia	 sẻ	
thông	tin	của	giảng	viên	có	một	vài	điểm	nổi	
bật	tạo	nên	những	đặc	trưng	trong	HVTT	của	
giảng	viên.	Những	điểm	mạnh	này	góp	phần	
hoàn	thiện	HVTT	của	giảng	viên	trong	hoạt	
động	giảng	dạy,	nghiên	cứu	khoa	học	và	tự	
học	của	mình.	
Giảng viên có trình độ chuyên môn cao. 
Giảng	viên	tại	các	trường	đại	học	ở	Tp.	Hồ	
Chí	Minh	có	trình	độ	chuyên	môn	phù	hợp,	
đáp	ứng	yêu	cầu	đào	tạo	và	nghiên	cứu	khoa	
học	của	nhà	trường.	Phần	lớn	giảng	viên	đạt	
tối	thiểu	trình	độ	thạc	sỹ,	có	một	số	ít	giảng	
viên	đang	trong	giai	đoạn	học	tập	nâng	cao	
trình	độ	để	phục	vụ	đào	tạo	và	nghiên	cứu	
khoa	học	của	nhà	trường.	
Năng lực sử dụng ngoại ngữ và kỹ năng 
tin học, sử dụng công nghệ của giảng viên 
tương đối tốt. Đây	là	điều	kiện	thuận	lợi	giúp	
giảng	 viên	 có	 thể	 tìm	 kiếm,	 chọn	 lọc,	 khai	
thác	và	sử	dụng	đa	dạng	nguồn	tài	nguyên	
thông	tin	khác	nhau	(loại	hình	tài	 liệu,	cách	
thức	 tìm	kiếm	 thông	 tin,	khả	năng	sử	dụng	
hệ	thống	tìm	tin,	khả	năng	tiếp	cận,	sử	dụng	
thông	 tin	 bằng	 nhiều	 ngôn	 ngữ	 khác	 nhau	
trong	tìm	kiếm,	sử	dụng	và	chia	sẻ	thông	tin).
Giảng viên có khả năng định hướng và 
xác định nhu cầu tin một cách rõ ràng.	Cụ	
thể,	 giảng	 viên	 có	 khả	 năng	 nhận	 diện	 và	
giới	hạn	được	phạm	vi	thông	tin	mà	mình	cần	
(nội	dung,	 loại	hình,	ngôn	ngữ	phù	hợp	với	
nhu	cầu	tin).
Giảng viên có khả năng định hướng nguồn 
thông tin và chọn lọc thông tin để tiết kiệm 
thời gian, công sức của mình.	Đặc	biệt,	các	
nguồn	 thông	 tin	được	nhiều	giảng	viên	 lựa	
chọn	là	đồng	nghiệp	và	Internet.	
Tuy	 nhiên,	 kết	 quả	 khảo	 sát	 HVTT	 của	
giảng	viên	 tại	các	 trường	đại	học	ở	Tp.	Hồ	
Chí	Minh	cho	thấy	bên	cạnh	những	ưu	điểm,	
HVTT	của	giảng	viên	vẫn	còn	những	hạn	chế	
cần	có	những	giải	pháp	để	hoàn	thiện	hơn.	
Quỹ thời gian của giảng viên đối với hoạt 
động tìm kiếm và sử dụng thông tin là rào 
cản ảnh hưởng rất lớn đến HVTT của giảng 
viên.	Bởi	lẽ,	mỗi	giảng	viên	cần	có	sự	phân	
bổ	chủ	động	và	hợp	 lý	 thời	gian	đồng	 thời	
cho	 việc	 thực	 hiện	 nhiều	 vai	 trò,	 nhiệm	 vụ	
khác	nhau	và	thời	gian	dành	cho	hoạt	động	
tìm	kiếm,	sử	dụng	thông	tin.	
Khả năng tận dụng và khai thác tối đa hiệu 
quả đa dạng nguồn thông tin của giảng viên 
còn nhiều hạn chế. Mặc	dù	đã	sử	dụng	các	
nguồn	thông	tin	quen	thuộc,	đáp	ứng	được	
một	phần	nhu	cầu	 tin	của	mình,	giảng	viên	
vẫn	chưa	khai	thác	đầy	đủ	giá	trị	các	nguồn	
thông	tin	khác,	như:	thư	viện	trường	đại	học	
nơi	giảng	viên	đang	công	tác,	 thư	viện	của	
hệ	thống	các	trường	đại	học,	thư	viện	khác	
trên	địa	bàn	Tp.	Hồ	Chí	Minh.	Đặc	biệt,	tiêu	
chí	 lựa	 chọn	 nguồn	 thông	 tin	 quen	 thuộc	
cũng	tạo	nên	sự	thiếu	chủ	động	và	ngại	thay	
đổi	trong	HVTT	của	giảng	viên,	do	vậy,	làm	
hạn	chế	khả	năng	mở	rộng	phạm	vi	tiếp	cận	
các	nguồn	thông	tin	khác	mà	trước	đó	giảng	
viên	chưa	từng	sử	dụng.	
Giảng viên gặp một vài khó khăn trong 
quá trình lưu trữ, tổ chức, sắp xếp tài liệu 
trong bộ sưu tập cá nhân.	 Đôi	 khi,	 giảng	
viên	cũng	gặp	khó	khăn	khi	 tìm	kiếm	thông	
tin	trong	chính	bộ	sưu	tập	của	mình.	Một	số	
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
22 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018
giảng	viên	cũng	cần	đến	sự	hỗ	trợ	của	thư	
viện	trường	trong	quá	trình	xử	lý	và	tổ	chức	
bộ	sưu	tập	cá	nhân	mà	giảng	viên	có	được	
(tủ	sách	cá	nhân,	thư	viện	tư	nhân).
Sự phối hợp trong HVTT của giảng viên 
chưa biểu hiện rõ nét.	Cụ	thể,	bắt	đầu	từ	khi	
giảng	viên	hình	thành	nhu	cầu	tin,	xác	định	
nguồn	thông	tin,	tra	cứu	trong	hệ	thống	tìm	
tin	cho	đến	khi	xử	lý,	sử	dụng	thông	tin,	hầu	
hết	giảng	viên	đều	thực	hiện	một	cách	ngẫu	
nhiên	và	không	có	chiến	lược	cụ	thể.	Chẳng	
hạn,	 chỉ	 khi	 chưa	 tìm	 được	 thông	 tin	 cần	
thiết,	giảng	viên	mới	nhờ	sự	hỗ	trợ	của	đồng	
nghiệp,	 bạn	bè	 trong	và	ngoài	 nhà	 trường.	
Điều	này	đôi	khi	 	ảnh	hưởng	đến	hiệu	quả	
tìm	 kiếm	 và	 sử	 dụng	 thông	 tin	 của	 giảng	
viên,	 gây	mất	 nhiều	 thời	 gian	 và	 công	 sức	
của	giảng	viên.	
3. Giải pháp hoàn thiện hành vi thông 
tin của giảng viên
Xuất	 phát	 từ	 những	 hạn	 chế	 nêu	 trên,	
bài	 viết	 trình	 bày	một	 số	 giải	 pháp	 cơ	 bản	
nhằm	 hoàn	 thiện	 HVTT	 của	 giảng	 viên	 tại	
các	 trường	đại	học	ở	Tp.	Hồ	Chí	Minh.	Có	
3	 nhóm	 giải	 pháp	 chính	 nhằm	 hoàn	 thiện	
HVTT	 của	 giảng	 viên,	 bao	 gồm:	 nhóm	giải	
pháp	đối	với	mỗi	giảng	viên,	nhóm	giải	pháp	
đối	với	nhà	trường	và	nhóm	giải	pháp	đối	với	
thư	viện	đại	học.	
Đối với mỗi giảng viên, vấn	đề	nâng	cao	
nhận	thức	của	giảng	viên	về	vai	trò	của	thư	
viện	đại	học	đến	hoạt	động	giảng	dạy,	nghiên	
cứu	và	tự	học	là	một	trong	những	giải	pháp	
cần	 được	 thực	 hiện.	 Đây	 là	một	 giải	 pháp	
tương	đối	khó	thực	hiện	trong	bối	cảnh	các	
trường	đại	học	hiện	nay,	do	giảng	viên	chưa	
đánh	 giá	 cao	 vai	 trò	 của	 thư	 viện	 đại	 học.	
Điều	 này	 có	 thể	 xuất	 phát	 từ	 quan	 điểm,	
nhận	 thức	 và	 cách	đánh	giá	 chủ	quan	của	
giảng	viên.	Chính	vì	vậy,	để	thực	hiện	được	
giải	pháp	này,	mỗi	giảng	viên	cần	tự	ý	thức	
được	những	lợi	ích	mà	thư	viện	đại	học	có	
thể	mang	 đến	 cho	 giảng	 viên.	 Chẳng	 hạn,	
thông	qua	nguồn	 lực	 thông	 tin	của	các	 thư	
viện	đại	học,	các	giảng	viên	có	thể	khai	thác,	
sử	dụng	hiệu	quả	 và	nâng	 cao	 chất	 lượng	
giảng	 dạy	 và	 nghiên	 cứu	 của	 mình.	 Giải	
pháp	này	đòi	hỏi	ý	 thức	xuất	phát	 từ	chính	
mỗi	giảng	viên	khi	giảng	viên	cho	rằng,	thư	
viện	đại	học	chưa	 thoả	mãn	được	nhu	cầu	
tin	của	mình	do	vốn	tài	liệu	hạn	chế,	không	
gian	chật	hẹp,	thái	độ	cán	bộ	thư	viện	không	
phù	hợp,...	Điều	này	có	nghĩa	là	giảng	viên	
cần	 chủ	 động	 đề	 nghị	 thư	 viện	 đại	 học	 có	
những	biện	pháp	điều	chỉnh,	thay	đổi	và	hỗ	
trợ	kịp	thời.	Hay	nói	cách	khác,	chỉ	khi	giảng	
viên	đánh	giá	cao	về	tầm	quan	trọng	và	vai	
trò	của	thư	viện	đại	học	trong	quá	trình	mỗi	
giảng	 viên	 thực	 hiện	 nhiệm	 vụ	 trong	 nhà	
trường	thì	thư	viện	đại	học	mới	hiểu	rõ	và	có	
thể	tác	động	tích	cực,	góp	phần	hoàn	thiện	
HVTT	của	giảng	viên.	
Bên	cạnh	đó,	đặc	thù	của	HVTT	của	giảng	
viên	cũng	mang	tính	phối	hợp	giữa	giảng	viên	
và	các	đồng	nghiệp	trong	quá	trình	tìm	kiếm,	
chia	sẻ	thông	tin.	Do	vậy,	mỗi	giảng	viên	cần	
chủ	động	xây	dựng	và	phát	 triển	mối	quan	
hệ	liên	cá	nhân	của	giảng	viên	trong	phạm	vi	
nhà	trường	và	trong	cộng	đồng	chuyên	môn	
cùng	 lĩnh	 vực.	Điều	này	 rất	 có	 ý	 nghĩa	đối	
với	quá	trình	giảng	viên	tìm	kiếm	thông	tin	để	
phục	vụ	nhu	cầu	giảng	dạy	và	nghiên	cứu,	tự	
học	của	mình.	
Đối với các trường đại học,	 một	 số	 giải	
pháp	cần	thực	hiện	để	góp	phần	hoàn	thiện	
HVTT	 của	 giảng	 viên	 bao	 gồm	 hoàn	 thiện	
môi	 trường	 làm	việc	của	giảng	viên	 tại	các	
trường	 đại	 học	 ở	 Tp.	 Hồ	 Chí	 Minh.	 Môi	
trường	làm	việc	của	nhà	trường	sẽ	góp	phần	
hình	thành	hành	vi	của	giảng	viên	đối	với	nhà	
trường,	 trong	quá	 trình	 thực	hiện	nhiệm	vụ	
được	giao.	Đồng	thời,	nhà	trường	cần	quan	
tâm	xây	dựng	chính	sách	hỗ	trợ	về	mặt	tinh	
thần	và	tài	chính	cho	giảng	viên	trong	giảng	
dạy	và	nghiên	cứu	khoa	học.	Để	 thực	hiện	
nhóm	 giải	 pháp	 này,	 Ban	 Giám	 hiệu	 các	
trường	đại	học	cần	có	những	biện	pháp	cụ	
thể	như	đưa	ra	các	chính	sách	khen	thưởng,	
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
23THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2018
hỗ	trợ	chi	phí	cho	các	công	trình	khoa	học,	
bài	viết	được	đăng	tải	trên	các	tạp	chí	có	uy	
tín	trong	nước	và	quốc	tế.	Đối	với	giảng	viên,	
đây	 cũng	 là	 động	 lực	 giúp	 giảng	 viên	 hình	
thành	và	phát	huy	năng	lực	nghiên	cứu	khoa	
học	của	bản	thân.	Ngoài	ra,	các	trường	đại	
học	cũng	cần	hướng	đến	xây	dựng	tiêu	chí	
đánh	giá	giảng	viên,	trong	đó	bao	gồm	đánh	
giá	năng	 lực	 thông	 tin	 của	giảng	 viên	 (nhu	
cầu	tin,	hành	vi	tìm	kiếm	thông	tin	và	chia	sẻ	
thông	tin	của	giảng	viên).
Đối với thư viện các trường đại học,	một	
số	nhóm	giải	pháp	cần	được	thực	hiện	nhằm	
hoàn	 thiện	HVTT	 của	 giảng	 viên	 nói	 riêng,	
HVTT	của	người	dùng	tin	trong	thư	viện	đại	
học	nói	chung.	Các	thư	viện	đại	học	cần	chủ	
động	nghiên	cứu	nhu	cầu	tin	của	giảng	viên;	
tăng	cường	vốn	tài	liệu	phục	vụ	nhu	cầu	tin	
của	giảng	viên;	hoàn	thiện	chất	lượng	và	đa	
dạng	 hoá	 sản	 phẩm,	 dịch	 vụ	 TT-TV;	 tăng	
cường	 hoạt	 động	 quảng	 bá	 của	 thư	 viện	
đại	học	đối	với	giảng	viên;	xây	dựng	không	
gian	phục	vụ	giảng	viên;	phát	 triển	đội	ngũ	
cán	bộ	thư	viện	hỗ	trợ	giảng	viên;	phối	hợp	
xây	 dựng	 hệ	 thống	 liên	 thư	 viện	 với	 khoa,	
bộ	môn;	...	Điều	quan	trọng	đối	với	các	thư	
viện	 đại	 học	 là	 cần	 xác	 định	 giải	 pháp	 cốt	
lõi	và	khả	thi	để	hoàn	thiện	HVTT	của	giảng	
viên.	Các	thư	viện	đại	học	cần	chú	trọng	đến	
nhóm	giải	pháp	quảng	bá	nguồn	lực	thông	tin	
của	thư	viện	đến	với	giảng	viên.	Mặc	dù	các	
thư	viện	đại	học	hiện	nay	cũng	đã	quan	tâm	
rất	nhiều	cho	hoạt	động	quảng	bá	đến	người	
dùng	tin	nói	chung,	giảng	viên	nói	riêng,	tuy	
nhiên,	số	 lượng	giảng	viên	khai	 thác	và	sử	
dụng	nguồn	lực	thông	tin	của	thư	viện	chưa	
cao.	 Chính	 vì	 vậy,	 thư	 viện	 đại	 học	 cần	
xác	định,	xây	dựng,	phát	 triển	và	quảng	bá	
những	 thế	mạnh	của	mình	đến	giảng	viên.	
Chẳng	hạn,	các	thư	viện	đại	học	có	thể	xây	
dựng	“Bộ	sách	 lưu	động”	 trực	 tiếp	đến	các	
giảng	 viên	 tại	 các	 khoa;	 phát	 triển	 các	 sản	
phẩm,	dịch	vụ	gắn	liền	với	hoạt	động	giảng	
dạy	và	nghiên	cứu	khoa	học	của	giảng	viên	
như	tổ	chức,	cung	cấp	tài	 liệu	 theo	chuyên	
đề	mà	giảng	viên	đang	quan	tâm;	quảng	bá	
các	 nhóm	 dịch	 vụ	 hỗ	 trợ	 nghiên	 cứu	 như	
cung	cấp	số	liệu	nghiên	cứu,	dữ	liệu	thứ	cấp	
theo	chủ	đề	mà	giảng	viên	đang	nghiên	cứu	
bằng	cách	các	 thư	viện	đại	học	có	 thể	 liên	
kết	 với	 các	 tổ	 chức,	 cá	 nhân,	 thư	 viện,	 cơ	
quan	 thông	 tin	 liên	quan.	Những	biện	pháp	
đòi	 hỏi	 các	 thư	 viện	 đại	 học	mất	 rất	 nhiều	
thời	gian	và	nguồn	nhân	lực	để	phục	vụ.	Tuy	
nhiên,	với	đặc	trưng	HVTT	của	giảng	viên	tại	
các	 trường	đại	 học	hiện	nay	 cho	 thấy,	 cần	
thực	hiện	giải	pháp	trên	để	kích	thích	giảng	
viên	có	thể	tiếp	cận	đến	các	nguồn	lực	thông	
tin	của	thư	viện	nhiều	hơn.
Kết luận 
Nhìn	 chung,	 HVTT	 của	 giảng	 viên	 có	
những	đặc	trưng	riêng	biệt	mang	yếu	tố	cá	
nhân	 hay	 phối	 hợp.	 Tuy	 nhiên,	 việc	 hoàn	
thiện	HVTT	cần	có	sự	tác	động	tích	cực	và	
toàn	 diện	 hơn	 từ	 phía	 bản	 thân	mỗi	 giảng	
viên,	 từ	nhà	 trường	và	 từ	 các	 thư	viện	đại	
học,	trong	đó	vai	trò	của	thư	viện	là	vô	cùng	
quan	 trọng.	 Khi	 HVTT	 của	 mỗi	 giảng	 viên	
hoàn	thiện	sẽ	là	nhân	tố	thúc	đẩy	giảng	viên	
thực	hiện	tốt	nhiệm	vụ	được	giao,	thúc	đẩy	
sự	phát	triển	chung	của	các	trường	đại	học	
và	góp	phần	nâng	cao	chất	lượng	trong	nhà	
trường.	
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.	 Poltrock,	 S.,	 Grudin,	 J.,	 Dumais,	 S.	 T.,	
Fidel,	R.,	Bruce,	H.,	and	Pejtersen,	A.	M.	(2003).	
Information seeking and sharing in design teams. 
In	 Proceedings	 of	ACM	Group	Conference,	 pp.	
239-247,	Sanibel	Islands,	FL.
2.	 Hansen,	 P.	 &	 Järvelin,	 K.	 (2005).	
Collaborative	 Information	 Retrieval	 in	 an	
information-intensive	 domain.	 Information 
Processing and Management,	41(5),	1101-1119.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 16-10-2017; 
Ngày phản biện đánh giá: 20-01-2018; Ngày 
chấp nhận đăng: 25-02-2018).

File đính kèm:

  • pdfhanh_vi_thong_tin_cua_giang_vien.pdf