Hai hình thức hôn nhân phổ biến trong văn học dân gian người việt và một số tộc người miền núi phía Bắc
Văn học dân gian có lợi thế trong việc thể hiện trí tưởng tượng phong phú cũng như
bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của con người một cách tự do nhất. Điều đó hoàn toàn có thể lý
giải được bởi văn học dân gian được ra đời và bắt nguồn từ cuộc sống, hiện thực. Cuộc
sống chính là mảnh đất màu mỡ để văn học dân gian đâm chồi nảy lộc. Văn học dân gian
của người Việt và các tộc người phía Bắc đã phản ánh được nhiều vấn đề lớn trong xã hội
cũ như: Hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, tâm linh, kinh nghiệm sống, ứng xử, Bên
cạnh đó văn học dân gian cũng phản ánh những vấn đề hẹp như mối quan hệ gia đình, dòng
tộc, hôn nhân,. đặc biệt là quan hệ hôn nhân trong gia đình người Việt xưa đã được văn
học dân gian phản ánh dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Song theo sự khảo sát của chúng
tôi ở một số thể loại văn học dân gian của người Việt và một số tộc người miền núi phía
Bắc chúng tôi thấy có hai loại hôn nhân xuất hiện khá nhiều trong các thể loại văn học dân
gian đó là: Hôn nhân phức hôn và hôn nhân đơn hôn. Vì vậy, trong chuyên khảo này chúng
tôi đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu hai hình thức hôn nhân này để làm sáng tỏ mối quan hệ
qua lại giữa hôn nhân trong gia đình người Việt và hôn nhân trong gia đình một số tộc
người sinh sống tại vùng miền núi phía Bắc Việt Nam
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hai hình thức hôn nhân phổ biến trong văn học dân gian người việt và một số tộc người miền núi phía Bắc
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 17 HAI HÌNH THỨC HÔN NHÂN PHỔ BIẾN TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN NGƯỜI VIỆT VÀ MỘT SỐ TỘC NGƯỜI MIỀN NÚI PHÍA BẮC Bàn Thị Quỳnh Giao Viện Văn học Tóm tắt: Văn học dân gian là một tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam, là nơi lưu giữ những nét đẹp của đời sống tinh thần người Việt song hành cùng các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Chủ đề hôn nhân là một trong những chủ đề được văn học dân gian đề cập đến khá nhiều, song có hai chủ đề hôn nhân được văn học dân gian người Việt và một số tộc người phía Bắc khai thác nhiều đó là chủ đề hôn nhân đơn hôn và hôn nhân phức hôn. Từ khóa: Văn học dân gian, hôn nhân đơn hôn, hôn nhân phức hôn Nhận bài ngày 20.4.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày 25.5.2020 Liên hệ tác giả: Bàn Thị Quỳnh Giao; Email: quynhgiao.ban40@gmail.com 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Văn học dân gian có lợi thế trong việc thể hiện trí tưởng tượng phong phú cũng như bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của con người một cách tự do nhất. Điều đó hoàn toàn có thể lý giải được bởi văn học dân gian được ra đời và bắt nguồn từ cuộc sống, hiện thực. Cuộc sống chính là mảnh đất màu mỡ để văn học dân gian đâm chồi nảy lộc. Văn học dân gian của người Việt và các tộc người phía Bắc đã phản ánh được nhiều vấn đề lớn trong xã hội cũ như: Hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, tâm linh, kinh nghiệm sống, ứng xử, Bên cạnh đó văn học dân gian cũng phản ánh những vấn đề hẹp như mối quan hệ gia đình, dòng tộc, hôn nhân,... đặc biệt là quan hệ hôn nhân trong gia đình người Việt xưa đã được văn học dân gian phản ánh dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Song theo sự khảo sát của chúng tôi ở một số thể loại văn học dân gian của người Việt và một số tộc người miền núi phía Bắc chúng tôi thấy có hai loại hôn nhân xuất hiện khá nhiều trong các thể loại văn học dân gian đó là: Hôn nhân phức hôn và hôn nhân đơn hôn. Vì vậy, trong chuyên khảo này chúng tôi đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu hai hình thức hôn nhân này để làm sáng tỏ mối quan hệ qua lại giữa hôn nhân trong gia đình người Việt và hôn nhân trong gia đình một số tộc người sinh sống tại vùng miền núi phía Bắc Việt Nam. 2. NỘI DUNG 2.1. Hôn nhân phức hôn 18 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Trong chế độ phụ quyền hôn nhân phức hôn là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng rạn nứt mối quan hệ hôn nhân trong gia đình, theo khảo sát của chúng tôi trong các thể loại văn học dân gian Việt Nam nói chung và văn học dân gian một số tộc người thiểu số miền núi phía Bắc có mô tả nhiều đến hai mối quan hệ hôn nhân, gia đình, đó là: dạng hôn nhân nhất phu đa thê (polygyny) và dạng hôn nhân nhất thê đa phu (polyandry), song loại hôn nhân nhất phu đa thê là loại phổ biến hơn cả. Loại hôn nhân, gia đình nhất phu đa thê (polygyny) xuất hiện nhiều trong xã hội cũ, ở đó có sự phân hóa địa vị xã hội giữa nam giới với nữ giới cộng thêm quan niệm trọng nam khinh nữ nên vai trò của những người đàn ông càng được nâng cao, vì thế tình trạng hôn nhân “năm thê, bảy thiếp” diễn ra khá phổ biến. Người đàn ông trong mối quan hệ nhất phu đa thê thường là những người được ưu đãi về mặt kinh tế và có địa vị xã hội cao, việc “năm thê, bảy thiếp” như là để củng cố thêm địa vị xã hội của họ. Trong loại hôn nhân, gia đình nhất phu đa thê, quyền uy của người chồng với các thành viên trong gia đình đặc biệt với những người vợ là rất lớn, ngược lại sự tự do, quyền hạn của người phụ nữ trong gia đình đó là rất thấp, họ sống cuộc sống cam chịu. Chúng ta bắt đầu đi từ câu chuyện cổ Hoàng Đế bán hành của dân tộc Tày. Truyện kể rằng có một ông vua háo sắc, mặc dù đã có rất nhiều thê thiếp xong khi thấy dân gian bàn tán về sắc đẹp của vợ anh nông dân, ông ta bèn lấy quyền lực của mình bắt vợ anh nông dân vào cung làm cung nữ. Khi vị hoàng đế háo sắc bắt được người đẹp đưa vào cung, ông ta đã làm đủ mọi cách để cho nàng cười nhưng lúc nào nàng cũng buồn xo, ngày đêm khóc lóc, nàng sống trong nhung lụa nhưng vẫn không quên được người chồng nghèo. Qua câu chuyện chúng ta có thể dễ dàng nhận ra được đặc điểm hôn nhân trong xã hội cũ được phản ánh qua những câu chuyện dân gian, ở đó những người đàn ông có quyền uy (như Hoàng Đế, các Quan, các cậu ấm,) thường “năm thê bảy thiếp”, những người đàn ông đó thường dựa vào quyền lực, tiền bạc để định đoạt hôn nhân của mình, những người phụ nữ trong những cuộc hôn nhân đó thường không có hạnh phúc, có những người phụ nữ bị ép vào cung làm vợ vua nhưng có khi cả đời vẫn chưa biết mặt chồng. Tình cảnh thê, thiếp ấy không chỉ xuất hiện trong những câu chuyện dân gian mà nó còn xuất hiện trong ca dao người Việt. Khi đề cập đến hình thức hôn nhân đa thê ca dao không miêu tả trực tiếp cảnh “một ông hai bà” hay “một ông nhiều bà” mà ca dao tập trung miêu tả, phản ánh sự nhẫn nhịn, sự cam chịu, đành chấp nhận số phận chung chồng, đầy đắng cay, tủi nhục của những người phụ nữ trong xã hội xưa, chẳng hạn như: “Có ai lấy lẽ chú tôi thì vào Thím tôi chả bảo làm sao Nói lên vài tiếng lào nhào mấy câu” (2) Hay: “Đêm nằm thổn thức ngồi khêu đèn phụng Canh sang năm gần lụn khúc rồng Trách ai ở chẳng hết lòng Phụ tình gần gũi có chồng xa xôi.” (3) TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 19 Ca dao người Việt thường dùng lời lẽ nhẹ nhàng để nói lên nỗi lòng của những người phụ nữ mang phận làm thê thiếp thì dân ca Dao lại chọn cách nói thẳng vào vấn đề, người Dao cho rằng hôn nhân nhất phu đa thê là quan hệ hôn nhân không nên tồn tại trong mối quan hệ gia đình, bởi quan hệ ấy là nguyên nhân phá vỡ mối quan hệ gia đình. Bằng lối nói so sánh ví von người Dao đã nhắc nhở những người làm chồng chớ tham lam, một nhà mà có hai vợ gia đình sẽ không êm ấm cũng như đất có hai vua cuộc sống của người dân sẽ đói khổ, lầm than: “Chá dậu nhây tảy chá dăm lo Cốc dậu nhây hùng cốc dăm ón” Dịch thơ: “Nhà có hai vợ nhà chẳng vui Nước có hai vua nước chẳng an” (4) Nếu người Dao lấy lối nói so sánh để lên án hôn nhân nhất phu đa thê thì người Thái lại chọn cách lên án gay gắt mối quan hệ hôn nhân nhất phu đa thê. Chuyện cổ tích U Thềm kể lại rằng một ông vua đã có tới bốn bà vợ nhưng với lòng tham của một người đàn ông có quyền uy, ông ta vẫn muốn kiếm thêm người phụ nữ khác làm vợ. Vì lòng tham ông ta đã trúng kế của yêu tinh, hại bốn bà vợ của mình và đứa con sắp chào đời, cuối cùng chính ông ta cũng bị yêu tinh hại chết, còn bốn bà vợ và đứa con của ông ta thì được tiên ông cứu sống. Vậy câu chuyện trên người Thái muốn gửi gắm đến người đọc điều gì? Có lẽ đây không còn là một lời nhắn nhủ nhẹ nhàng đến những người đàn ông đừng tham lam nữa dường như nó là một lời răn đe, một lời dọa nạt đối với những người đàn ông có tiền, có thế trong xã hội cũ chớ nên tham lam, chiếm đoạt cùng lúc nhiều người phụ nữ cho riêng mình, đa thê ắt có ngày chết thảm. Vẫn cùng mô típ đó trong truyện cổ tích của người Việt chúng ta cũng bắt gặp vô vàn những câu chuyện về những ông vua, ông chúa đã dùng quyền uy của mình để cướp đoạt những người phụ nữ trong thiên hạ về làm của riêng, họ đã tạo nên biết bao gia đình phức hôn nhất phu đa thê, mà tất cả những người phụ nữ trong những câu chuyện kể ấy thường không biết đến hai chữ HẠNH PHÚC trong hôn nhân bởi một gia đình nhất phu đa thê thường được tạo ra bởi quyền lực của người đàn ông nên nụ cười hạnh phúc không xuất hiện trong những gia đình đó, chẳng hạn như chuyện: Cô Mi, Ai mua hành tôi, Người vợ thông minh, trong cuốn Kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam. Theo khảo sát của chúng tôi kiểu hôn nhân nhất phu đa thê xuất hiện trong truyện cổ tích và ca dao dân ca với tần suất lớn, chúng tôi khảo sát 41 truyện cổ tích trong cuốn Truyện cổ tích người Việt (tập 1) do nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Huế chủ biên thì có tới 13 truyện chiếm tới 31% những câu chuyện đề cập đến hình thức hôn nhân nhất phu đa thê. Tất cả những người phụ nữ khi được hoặc bị bắt về làm vợ, làm thê, làm thiếp khi tuổi đời còn rất trẻ, nhan sắc đang độ rực rỡ, tâm hồn họ đang tràn đầy khao khát hạnh phúc vậy mà những khát khao ấy họ bị dập tắt ngay khi bắt đầu bước chân vào cuộc hôn nhân nhất phu đa thê. Bởi khi bước chân vào cuộc hôn nhân nhất phu đa thê họ phải dồn hết tâm trí phục vụ cho người chồng (giống như phục vụ một ông chủ), họ phải cắt đứt hết mọi mối liên hệ 20 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI với bên ngoài, được đặt tên mới và học cách vâng lời. Từ khi họ bắt đầu cuộc sống hôn nhân nhất phu đa thê thì họ không còn là chính họ nữa, mọi buồn vui, sống chết của họ đều phụ thuộc vào người đàn ông mà họ gọi là chồng cho dù có khi họ chỉ được gặp gỡ thoáng qua một vài lần trong đời người đàn ông mà mình phải gọi là chồng ấy. Trong ca dao, dân ca nhân dân xưa thường mượn những lời ca để thể hiện rõ thái không đồng tình với hình thức hôn nhân này bởi họ nhận biết rõ hôn nhân nhất phu đa thê là một lưỡi dao “đâm chết” tâm hồn của những người phụ nữ trẻ đang mang trong mình khát khao được yêu, được hưởng hạnh phúc từ người chồng, từ gia đình riêng của mình. Ca dao, dân ca thường không đem đến một cái kết cho những cuộc hôn nhân đó nhưng những câu chuyện cổ tích lại thường đem đến cho người đọc một kết thúc có hậu, những người đàn ông đa thê thường gánh chịu những đau đớn cả về thể xác lẫn tâm hồn khi trót dùng tiền bạc, quyền uy để ép những người phụ nữ vào cuộc hôn nhân nhất phu đa thê. Còn những người phụ nữ bị ép làm thê, làm thiếp sẽ được giải thoát và tự tìm được cuộc sống đơn hôn hạnh phúc cho riêng mình. Kết thúc trong những câu chuyện cổ tích cũng chính là khát vọng là mơ ước của những người phụ nữ xưa, họ luôn mơ ước sẽ có một cuộc sống hôn nhân đơn hôn và mơ ước đó hoàn toàn chính đáng để con người vươn tới trong xã hội tiến bộ khi hình thức hôn nhân đơn hôn được thực hiện, hình thức phức hôn bị loại bỏ. Trong chế độ mẫu quyền chúng tôi thấy hình thức nhất thê đa phu (polyandry) cũng có xuất hiện, song rất ít. Theo các nhà nhân học thống kê, trên thế giới có ba nơi xuất hiện hình thức hôn nhân này, đó là trường hợp người Tây Tạng ở Himalaya, người Toda ở Nam Ấn Độ, người dân đảo Marquesans, Polynesia. Trong văn học dân gian người Việt và văn học dân gian các tộc người phía Bắc chúng ta thấy xuất hiện hình thức hôn nhân này nhưng dưới dạng hôn nhân biết mẹ mà không biết cha (tức là kiểu hôn nhân sinh con mà không biết cha đứa trẻ là ai, hay còn gọi là hôn nhân chung chồng). Kiểu hôn nhân chung chồng được bắt đầu từ truyền thuyết Sự tích vua bà bến nước và vua ông cội cây, mẹ Cội Công và nàng Bến đều là những phụ nữ có chồng, chồng của họ là những người đàn ông hiền lành chất phác, nhưng mẹ Cội Công và nàng Bến mang thai những đứa con của mình lại không phải với người chồng đầu ấp tay gối của mình. Việc mang thai của mẹ Cội Công và nàng Bến nó xuất hiện yếu tố thần và chịu sự ảnh hưởng, chi phối của thần thánh, điều này trên thực tế đã cho thấy giữa những thánh nhân này với người chồng của người mẹ sinh ra họ hoàn toàn không có mối quan hệ huyết thống với nhau. Trong chế độ mẫu quyền chúng ta thấy dường như không tồn tại khái niệm “phụ thân” bởi bản thân người mẹ cũng không xác định được “phụ thân” của những đứa trẻ là ai? Do vậy những đứa trẻ khi được sinh ra chúng cũng không thể xác định được ai trong số những người đàn ông đang sống cạnh chúng có quan hệ huyết thống với mình, chúng cũng chưa từng nghĩ đến việc tìm hiểu rõ chuyện này. Hơn nữa, trong điều kiện xã hội thời đó, việc xác định mối quan hệ huyết thống cha con là không thể thực hiện được vì thế mà trong dân gian đã lưu truyền những truyền thuyết ghi chép về những đứa con mà người phụ nữ sinh ra không phải là con của người chồng cùng chung sống mà có thể là con của một vị thần nào đó ví dụ như: Tuyện Trung Định Công thời Hùng Vương hay Sự tích bảy anh em TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 21 Lương, Hải, Long, Lôi, Sơn, Nhạc, Lĩnh thời Hùng Vương,... là những câu chuyện như thế. Những người vợ sống với chồng cả cuộc đời có với chồng một vài đứa con nhưng chỉ vô tình đi nương, đi rẫy họ ướm chân, họ nằm ngủ mơ trong rừng, họ được một loài vật nào đó cứu lúc lâm nguy khi trở về sống với chồng họ mang thai rồi sinh ra những đứa con không mang hình hài người cha đang chung sống với mẹ chúng. Không chỉ trong truyền thuyết mới xuất hiện hình thức hôn nhân này, trong truyện cổ tích của các dân tộc cũng xuất hiện nhiều mô tuýp hôn nhân như vậy. Nhân vật Nàng Út trong truyện cổ tích cùng tên là một nhân vật được sinh ra trong sự cầu nguyện của một gia đình nông dân nghèo. Khi bố mẹ cô đã già tự nhiên mẹ cô có thai rồi sinh ra cô, do Nàng Út sinh ra chỉ bé bằng ngón tay nên cha mẹ cô không nuôi đem bỏ vào rừng. Ở trong rừng trong lúc đói bụng cô đã tìm thấy vỏ quả dưa hấu mà vỏ quả dưa hấu ấy là hoàng tử ăn trong lúc đi săn, ăn xong chỗ vỏ dưa hấu ấy cô mang thai rồi sinh ra một cậu con trai kháu khỉnh. Hoàng tử đi săn về cung luôn bứt dứt muốn quay trở lại rừng nơi mình ăn dưa hấu bỏ lại vỏ ấy. Hay Sự tích ông đầu rau trong kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam đã kể lại chuyện một người phụ nữ có chồng gặp năm hạn hán mất mùa, đói kém người chồng đã phải đi nơi khác tìm cái ăn, người vợ ở nhà được một gia đình giúp đỡ trong cơn đói kém. Không bao lâu người vợ trong gia đình chủ đã giúp người đàn ông mất vợ ngỏ lời với nàng, nàng cứ lần lữa mãi tới 7 năm sau mới kết hôn với người đàn ông đó nhưng nàng đâu ngờ chỉ 3 tháng sau khi nàng kết hôn người chồng cũ trở về. Người chồng cũ, người vợ, người chồng mới lần lượt tìm đến cái chết rồi họ được Diêm Vương cho hóa thành 3 ông đầu rau sống vui vẻ hạnh phúc của cuộc sống “một bà hai ông”. Các thể loại văn học dân gian đã xây dựng được hình tượng phụ nữ trong hình thức hôn nhân nhất thê đa phu không phải để lên án, phê phán như nhất phu đa thê mà chính là đề cao đặc điểm hôn nhân mẫu hệ, đây được coi là thiết chế xã hội đầu tiên của loài người ở thời kỳ công xã nguyên thủy. Đó là những câu chuyện trong truyền thuyết, truyện cổ tích còn trong ca dao, dân ca chúng ta không bắt gặp những câu ca phản ánh hôn nhân nhất thê đa phu, có chăng chúng ta chỉ gặp những câu ca lên án những người phụ nữ sống không chung thủy với chồng, chẳng hạn như: “Không ngờ thuyền bè qua bến Bờ nghiêng ngả Mọi đảo, khắp góc trời bình yên Không ngờ em yêu lại gian tình theo trai Không ngờ em mặc lụa diêm dúa tìm chồng Không ngờ em chải tóc mượt đi với ai chờ đợi” (9) Người phụ nữ đang sống với chồng mà “Loạn trôn từ thủa vắng chồng tới nay”, “ve ông lái mành”, những người phụ nữ như nhân vật xuất hiện trong bài ca dao trên trong xã hội hiện đại chúng ta gọi đó là những người đàn bà ngoại tình, mà những người đàn bà ngoại tình sẽ không có cuộc sống gia đình hạnh phúc. Vì thế, chúng ta cần phân biệt rõ hôn nhân nhất thê đa phu với những hiện tượng những người đàn bà đang sống với chồng mà có mối 22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI quan hệ tình dục ngoại hôn trong văn học dân gian. Có thể thấy hôn nhân phức hôn là kiểu hôn nhân xuất hiện nhiều trong những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, còn trong ca dao, dân ca hôn nhân phức hôn chỉ xuất hiện kiểu hôn nhân nhất phu đa thê, kiểu hôn nhân nhất thê ... cao”. Trong một số định nghĩa khác của các Từ điển được biết đến nhiều ở Châu Âu như Từ điển Xã hội (Nxb Larousse, 1973): “Gia đình bao gồm một nhóm người gắn bó với nhau bằng một mối liên hệ hôn nhân, huyết thống hay là việc nhận con nuôi, có sự tác động qua lại giữa chồng và vợ, giữa bố và mẹ, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh, chị em và họ hàng”. Từ điển Xã hội (Nxb Les Encyclopedies du savoir moderne, 1973): “Gia đình là một nhóm xã hội không thể quy về các nhóm khác: Sự hình thành của nó, cấu trúc, các chiều hướng, các quan hệ giữa các thành viên và các quan hệ của nó với toàn bộ cơ chế xã hội, các chức năng biến đổi trong thời gian và không gian gắn liền với các hệ thống xã hội và các hình thức của nền văn minh”. Cho dù khái niệm về gia đình trong triết học hay xã hội học đưa ra rất rõ ràng, cụ thể nhưng chúng ta có thể thấy rằng gia đình chỉ thực sự tồn tại khi người đàn ông và người đàn bà cùng nhau vun đắp hạnh phúc, cùng nhau xây dựng kinh tế gia đình, cùng chăm sóc những đứa con được ra đời trong niềm hạnh phúc vô bờ bến của cha mẹ. Nhưng hạnh phúc không phải tự nhiên mà có, hạnh phúc đôi khi phải trải qua những thăng trầm, những biến cố của cuộc đời, đôi khi người đàn ông muốn có được hạnh phúc như mong muốn họ phải tự chiến đấu, tự tranh đoạt lấy người con gái mà mình đem lòng yêu thương. Chính vì vậy, trong hình thức hôn nhân đơn hôn ta thấy xuất hiện hai hình thức hôn nhân chính đó là hôn nhân với nhân vật mang lốt và hôn nhân tranh đoạt. Kết hôn với nhân vật mang lốt là một trong những biểu hiện của mô típ kết hôn. Nhân vật mang lốt thường là nhân vật người con gái út hiền lành, tốt bụng trong gia đình giàu có, hoặc là những người con gái xấu xí trong gia đình nghèo nhưng giàu lòng vị tha, nhân hậu. Nhân vật mang lốt luôn phải phấn đấu để khẳng định mình với những thách thức lớn: Gia đình nghèo khó, bị phân biệt đối xử, hoặc thuộc dòng dõi chúa tể các loài vật. Trong hôn nhân, cái lốt của nhân vật là thách thức lớn khi nhân vật đó muốn bảo vệ tình yêu chính đáng của mình. Có được hạnh phúc lứa đôi, cái lốt sẽ được cởi bỏ. Đó là nhân vật chàng Rắn trong truyện Lấy chồng Rắn của dân tộc Cao Lan vùng Tuyên Quang, chàng trai mang TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 23 lốt rắn đã kết hôn cùng người con gái xấu xí, con vợ cả của một người đàn ông hai vợ, mẹ cô gái mất nên cô phải sống trong sự ghẻ lạnh của mẹ kế và đứa em cùng cha khác mẹ, khi được cha ngỏ lời muốn một trong hai chị em kết hôn với rắn để gia đình được yên, không để rắn quấy phá cô chị đã nhận lời kết hôn và có một gia đình êm ấm, tràn ngập niềm vui. Qua đây, tác giả dân gian khẳng định quyền hạnh phúc của mỗi người trong xã hội, đồng thời cũng muốn khẳng định gia đình một vợ, một chồng con cái sẽ có cuộc sống hạnh phúc, giàu sang và quan niệm về sự hài hoà đạo đức và thẩm mỹ của con người. Hôn nhân đơn hôn với nền tảng, cơ sở là tình yêu, sự cảm thông, tin tưởng lẫn nhau luôn là khao khát của người bình dân. Truyện cổ tích luôn đề cao, ca ngợi những người phụ nữ hiền dịu, chung thủy, hết mực yêu thương chồng. Những con người độc ác, muốn phá vỡ quan hệ hôn nhân một vợ, một chồng đều bị lên án, trừng phạt. Nhờ sự trợ giúp của bạn bè và lực lượng thần kỳ các ông chồng đã thoát khỏi âm mưu phá vỡ hạnh phúc gia đình để rồi cuối cùng được đoàn viên, sum họp với người vợ thủy chung, sống hạnh phúc bên nhau đến trọn đời, như truyện Sọ Dừa của người Việt, Người vợ thông minh của người H’mông,... Các câu chuyện đều kết thúc có hậu, hôn nhân đơn hôn vẫn được duy trì cho dù nó bị những thế lực xấu luôn tìm cách phá vỡ thì những người đàn ông trong quan hệ hôn nhân đơn hôn vẫn tìm mọi cách để đoạt được người phụ nữ của mình trở về sống hạnh phúc bên cạnh mình. Kết thúc có hậu của kiểu truyện này mang tính công thức và là qui luật phổ biến của tiểu loại truyện cổ tích về chủ đề hôn nhân đơn hôn. Diễn biến cốt truyện của tiểu loại truyện này đạt đến hồi kết đoàn viên sum họp là nhờ tác giả dân gian đã biết khai thác tối đa những mô típ chính và phụ của dạng truyện này: Hôn nhân tiền định, tranh cướp vợ người, tái sinh, lừa cướp vợ người, tranh cướp lại vợ, lực lượng phù trợ thần kỳ gồm: rắn, lá cây thần, Hình thức hôn nhân đơn hôn là nền tảng vững chắc để duy trì cuộc sống hôn nhân và gia đình. Trong truyện cổ tích khi đề cập đến hình thức đơn hôn thường có hai tuyến nhân vật đó là: Những người chồng rất mực yêu vợ và thủy chung với vợ; những tên quan, vua lấy quyền uy của mình để cướp những người vợ xinh đẹp của những người chồng đậm chất nông dân về làm vợ, làm thiếp, Tiêu biểu như truyện Ai mua hành tôi của người Việt, từ việc anh chồng cứu sống con chim sẻ và được chim trả ơn bằng một lọ nước thơm, người vợ mang ra tắm, gội trở nên xinh đẹp, vua thấy hình người vợ liền sai quan đại thần và thị vệ bắt người phụ nữ về làm vợ. Người vợ ở trong cung không nói, chẳng cười chỉ đến khi nghe được tiếng nói của chồng mới cười nói và lập mưu giết tên vua gian ác sống hạnh phúc bên chồng và ngai vàng. Hay truyện Nàng Kháy của dân tộc Nùng cũng đề cập đến sự thủy chung, son sắt của người vợ giành cho chồng và tình yêu trước sau như một của người chồng giành cho vợ. Không chỉ truyện cổ tích đề cao hôn nhân đơn hôn mà trong ca dao người Việt cũng có nhiều câu ca dao đề cao hình thức hôn nhân này, chẳng hạn: “Đói lòng ăn nắm lá sung Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng Một thuyền một lái chẳng xong 24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Một chĩnh đôi gáo còn nong tay vào” Những người phụ nữ xưa cho rằng, hôn nhân của họ có hạnh phúc, có êm ấm hay không là do vợ chồng đồng lòng xây dựng nên. Nếu “chồng đôi, vợ ba” thì hôn nhân sẽ không bền vững, đồng thời sẽ mang lại những đau khổ cho nhau, chi bằng một vợ, một chồng đói no có nhau cuộc sống hạnh phúc xiết bao: “Đói no một vợ một chồng Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi” Họ cùng nguyện thề khi sống có nhau thậm chí khi chết đi họ vẫn thủy chung chỉ một vợ, một chồng: “Duyên số đến ngày kết thành đôi. Hai người cùng hứa sống hòa thuận Chung thủy với nhau chết chẳng rời Lúc sống hai người chung chăn gối Chết cũng chung nhau ngôi mộ chôn” Nhờ hình thức hôn nhân đơn hôn mà các gia đình người Dao tồn tại bền vững theo chế độ phụ quyền, người chồng là chủ gia đình nhưng không vì thế mà người chồng có thể làm theo ý muốn của mình. Đặc biệt là người đàn ông Dao không được lấy hai vợ, lấy vợ rồi thì không được bỏ vợ. Hôn nhân của người Việt và các tộc người phía Bắc về cơ bản dựa trên cơ sở tình yêu và tự nguyện, một vợ, một chồng theo nguyên tắc ngoại hôn dòng họ, nội hôn tộc người. Quyền quyết định hôn nhân phần chính do đôi trai gái, cha mẹ chỉ có vai trò định hướng. Cũng có trường hợp do sự kết nối của hai bên gia đình nhưng không hoàn toàn áp đặt mà đồng thời cũng được đôi trai gái ưng thuận, họ sẽ cùng nhau chung sống, cùng nhau tăng gia sản xuất, gia đình hòa thuận, êm ấm: “Nay nên vợ nên chồng Yêu nhau, đi theo nhau Lấy nhau, đi theo nhau Lấy nhau, cùng chung sống Em làm, anh cũng làm Sớm chiều trên ruộng nương” Khi đã thành vợ thành chồng thì việc hòa thuận và thủy chung được đề cao và thường xuyên nhắc nhở lẫn nhau trong cuộc sống gia đình nhằm hướng đến một gia đình ấm no hạnh phúc: “Em ơi chua ngọt đã từng Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau” Hay: “Trăm năm lòng gắn dạ ghi TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 25 Dẫu ai đem bạc đổi chì cũng không” Tuy không phải mối tình nào cũng kết thúc có hậu, nhưng không phải vì thế mà con người mất niềm tin vào cuộc sống. Chính tình yêu và bao mộng ước thật đẹp nơi tương lai là động lực, là nguồn sống để con người vượt qua và hướng đến cái đẹp ấy. Con đường đi nếu toàn là thảm đỏ thì người đi sẽ không ý thức được bước chân của mình như thế nào; con đường đi ấy phải có nhiều chông gai để từ đó phát huy được nỗ lực, tinh thần cầu tiến của mỗi con người. Cho nên, dù có trắc trở, hờn trách nhau thế nào thì tình yêu vẫn là một tiếng nói khát vọng hạnh phúc của con người từ xưa cho đến ngàn sau, mà điều ấy đã được ông cha ta thể hiện một cách rõ nhất qua những câu ca dao thật đẹp chan chứa tình người. Và như chúng ta đã biết, người Việt nói chung và đồng bào các dân tộc thiểu số từ xưa và nay đều sống rất đậm tình, nặng nghĩa, chung thủy sắt son. Bởi thế mà họ còn gửi gắm niềm tin mong mỏi của mình được chung sống hạnh phúc nhân nghĩa, vẹn toàn trước sau với mọi người trong truyện cổ tích. Trầu cau là một trong những câu chuyện tiêu biểu làm sáng rõ ước mơ này. Trầu cau kết thúc bằng cái chết vĩnh viễn của ba nhân vật chính. Người em, người anh và người vợ. Cái chết của họ là một bài học luôn nhắc nhở mọi người phải sống bằng chính mình, phải biết yêu thương, độ lượng, tránh sự nghi kị, ghen tuông vu vơ. Bởi tất cả đều có thể phải trả giá rất đắt. Một gia đình đang sống yên vui, hòa thuận là thế mà chỉ vì một sơ suất của người vợ, ôm nhầm người em chồng mà khiến người anh nghi ngờ, sinh ra ghét bỏ, hắt hủi em người en trai ruột thịt. Người vợ không có lỗi, chỉ vì quá nhớ thương, mong mỏi gặp chồng nên sinh ra nhầm lẫn. Người anh mới có lỗi, đã không có lòng tin, ghen tuông vu vơ, hiểu nhầm vợ và em, Cuối cùng, họ chết đi, hóa thành tảng đá, dây trầu, cây cau đứng bên nhau. Người đời sau khi ăn lá trầu với quả cau và thêm một chút vôi thì làm môi đỏ, miệng thơm. Điều đó nói lên, nếu vợ chồng yêu thương nhau thông cảm cho nhau, anh em hòa thuận đoàn kết thì gia đình sẽ êm ấm, sắc son. Hôn nhân bao hàm một sự thay đổi trong vị trí xã hội của hai người và ảnh hưởng đến vị trí xã hội của con, cháu. Hôn nhân cũng tạo ra tính hợp pháp của con cái do người vợ sinh ra và thiết lập các mối quan hệ họ hàng bên vợ và họ hàng bên chồng, nhìn trong quan hệ xã hội. Còn nhìn từ góc độ văn hóa, hôn nhân là một quá trình xã hội mà mô hình mẫu của nó là sự kết hợp giữa một người đàn ông với một người đàn bà, là sự kiện làm biến đổi những thành viên của nó, làm thay đổi quan hệ giữa những người thân thuộc của mỗi bên và duy trì những khuôn mẫu xã hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số quyền lợi và nghĩa vụ đi kèm”. Hôn nhân đơn hôn luôn có cái kết hạnh phúc, đặc biệt những người phụ nữ trong kiểu hôn nhân đơn hôn họ được sống êm đềm, hạnh phúc trong sự che chở, bảo vệ của người chồng. 3. KẾT LUẬN Hôn nhân là một trong những vấn đề cơ bản, yếu tố khởi đầu quyết định tạo dựng gia đình và sự bền vững của gia đình. Hôn nhân và gia đình có mối quan hệ biện chứng, nhân quả, gắn liền với không gian văn hóa tộc người và quá trình tộc người. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, hình thái hôn nhân phản ánh trình độ phát triển, văn minh của 26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI một xã hội tương ứng với nó. Thời kỳ mông muội, loài người sống trong tình trạng tạp hôn cũng không hơn gì bầy đàn của loài vật, tính chất của hôn nhân lúc này chưa ý thức được vai trò xã hội của nó ngoài bản năng duy trì nòi giống đơn thuần. Khi con người thông minh xuất hiện, loài người dần được thiết lập một trật tự xã hội nhất định và hôn nhân cũng có những hình thái tương ứng. Sự biến đổi từ hôn nhân gia đình phức hôn sang hình thức hôn nhân gia đình đơn hôn đã phần nào phản ánh được khát vọng hạnh phúc gia đình của con người đồng thời là bước ngoặt từ xã hội cổ xưa sang xã hội văn minh, hiện đại. Truyền thuyết, cổ tích và ca dao là các thể loại văn học dân gian có lợi thế trong việc phản ánh bức tranh hiện thực xã hội. Truyền Thuyết, cổ tích với lợi thế về trí tưởng tượng vô cùng tự do, phong phú đã sáng tạo nên rất nhiều những cốt truyện phản ánh các mối quan hệ đa dạng từ gia đình đến xã hội. Nhưng truyền thuyết, cổ tích cũng như các loại truyện kể dân gian khác có hạn chế là thiên về diễn biến sự việc, hành động nhân vật mà ít khả năng thể hiện tâm trạng tư tưởng của nhân vật. Còn ca dao lại là tiếng nói trữ tình với phương thức biểu đạt chủ yếu là biểu cảm nên có thể đề cập đến tất cả những góc khuất trong tư tưởng, tình cảm của con người. Ca dao thể hiện các mối quan hệ của con người vô cùng sâu sắc. Với những điểm mạnh và điểm yếu riêng của từng thể loại, cổ tích và ca dao đã bổ sung lẫn nhau trong việc phác hoạ các mối quan hệ gia đình và xã hội của người Việt. Ca dao và cổ tích giúp người đọc có thể hình dung được hành trình lịch sử, hành trình văn hoá của con người Việt Nam trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Giá trị của chất nhân văn trong các thể loại văn học dân gian này là giúp người đọc khám phá những vẻ đẹp hiện thực cuộc sống bình thường, làm phong phú nhận thức của con người, nâng cao đời sống tinh thần và bồi đắp tâm hồn con người ngày càng tốt đẹp hơn. Chất nhân văn là kết tinh, hội tụ giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, tạo nên sức cuốn hút, hấp dẫn mọi thế hệ, là sự gắn kết mạch nguồn dân tộc từ quá khứ đến tương lai. Chính chất nhân văn ấy đã tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình, phá vỡ đi mối quan hệ vốn dĩ vô cùng lỏng lẻo trong hôn nhân phức hôn để thêm gắn kết hơn trong mối quan hệ hôn nhân đơn hôn, đem lại sự công bằng, cuộc sống hạnh phúc cho những người phụ nữ trong xã hội xưa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Huế (2014), Truyện cổ tích người Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 2. Nguyễn Xuân Kính (2002), Tổng tập VHDG người Việt, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. 3. Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân người Dao Tuyển, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 4. Vũ Minh Chi (2004), Nhân học văn hóa - Con người với thiên nhiên, xã hội và thế giới siêu nhiên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Kiều Thu Hoạch (2004), Tổng tập VHDG người Việt, Tập 4, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. Hoàng Văn Trụ (1997), Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 27 8. Friedrich Engels (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Tuyển tập Mác-Ăngghen, Tập VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 9. Từ điển nhân học (1997), Nxb. Les Encyclopedies du savoir moderme. 10. Từ điển nhân học (1997), Nxb. Les Encyclopedies du savoir moderme. 11. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (2002), Tổng tập VHDG người Việt, Tập 15, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 13. Triệu Hữu Lý (1990), Dân ca Dao, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 14. Hoàng Văn Trụ (1997), Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc. 15. Đinh Gia Khánh (1995), Ca Dao Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, Đà Nẵng. 16. Friedrich Engels (1961), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Tuyển tập Mác-Ăngghen, Tập VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội. TWO COMMON MARRIAGE TYPES IN FOLK LITERATURE OF VIETNAMESE AND NOTHERN ETHNIC MINORITIES Abstract: Folk literature is a Vietnamese priceless mental legacy where has preserved the beauty of Vietnamese mental life in a long period of national history. Marriage is one of the themes which has been mentioned in folk literature for many years. However, monogamy and polygamy are considered as two main types of marriage that have been mentioned the most in Vietnamese and several Northern ethnic minorities folk literature. Keywords: Folk literature, Monogamy, Polygamy
File đính kèm:
- hai_hinh_thuc_hon_nhan_pho_bien_trong_van_hoc_dan_gian_nguoi.pdf