Góp ý về những sai sót trong cuốn sách “Độc học môi trường”

Cuốn sách Độc học môi trường do Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Lê Huy Bá chủ biên

được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2000 theo tôi là một tài liệu quý. Tôi đã chọn mua,

đọc nhiều lần rồi giới thiệu với đồng nghiệp và sinh viên của mình một cách hào hứng.

Bởi rằng theo tôi, đây là một tài liệu tham khảo có chiều sâu với hàm lượng khoa học

lớn. Nó rất hữu ích cho các hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học, không chỉ

cho ngành môi trường học mà còn cho nhiều ngành học liên quan khác nữa như nông

nghiệp, lâm nghiệp, quản lý tài nguyên đất, nước, lâm thủy sản Điều đáng tiếc là

sách tồn tại khá nhiều sai sót, từ lỗi chính tả đến tính nhất quán khoa học, từ lỗi in ấn

đến sơ suất cách hành văn mà qua đó người đọc có thể hiểu nhầm khái niệm, nhận

định sai phạm trù khoa học và đặc biệt đối với sinh viên thiếu kinh nghiệm có thể trích

dẫn máy móc những sai sót này vào các công trình của bản thân. Gần đây, tôi lại có

dịp đọc lại cuốn sách tái bản lần thứ ba, có chỉnh lý bổ sung (Nxb Đại học Quốc gia

TP Hồ Chí Minh, 2008), bao gồm 2 tập: tập 1 “Phần cơ bản” và tập 2 “Phần chuyên

đề”. Lại một lần nữa, nhóm tác giả đã trao cho độc giả một món quà đầy đủ hơn, hoàn

chỉnh hơn. Tôi đã đọc và lại nuối tiếc, vì những sai sót vẫn chưa được chỉnh sửa một

cách triệt để.

pdf 7 trang kimcuc 3440
Bạn đang xem tài liệu "Góp ý về những sai sót trong cuốn sách “Độc học môi trường”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Góp ý về những sai sót trong cuốn sách “Độc học môi trường”

Góp ý về những sai sót trong cuốn sách “Độc học môi trường”
122 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
* Cựu giảng viên Trường Đại học Nông Lâm Huế.
GÓP Ý VỀ NHỮNG SAI SÓT TRONG CUỐN SÁCH 
“ĐỘC HỌC MÔI TRƯỜNG”
 Đỗ Xuân Cẩm*
Cuốn sách Độc học môi trường do Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Lê Huy Bá chủ biên 
được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2000 theo tôi là một tài liệu quý. Tôi đã chọn mua, 
đọc nhiều lần rồi giới thiệu với đồng nghiệp và sinh viên của mình một cách hào hứng. 
Bởi rằng theo tôi, đây là một tài liệu tham khảo có chiều sâu với hàm lượng khoa học 
lớn. Nó rất hữu ích cho các hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học, không chỉ 
cho ngành môi trường học mà còn cho nhiều ngành học liên quan khác nữa như nông 
nghiệp, lâm nghiệp, quản lý tài nguyên đất, nước, lâm thủy sản Điều đáng tiếc là 
sách tồn tại khá nhiều sai sót, từ lỗi chính tả đến tính nhất quán khoa học, từ lỗi in ấn 
đến sơ suất cách hành văn mà qua đó người đọc có thể hiểu nhầm khái niệm, nhận 
định sai phạm trù khoa học và đặc biệt đối với sinh viên thiếu kinh nghiệm có thể trích 
dẫn máy móc những sai sót này vào các công trình của bản thân. Gần đây, tôi lại có 
dịp đọc lại cuốn sách tái bản lần thứ ba, có chỉnh lý bổ sung (Nxb Đại học Quốc gia 
TP Hồ Chí Minh, 2008), bao gồm 2 tập: tập 1 “Phần cơ bản” và tập 2 “Phần chuyên 
đề”. Lại một lần nữa, nhóm tác giả đã trao cho độc giả một món quà đầy đủ hơn, hoàn 
chỉnh hơn. Tôi đã đọc và lại nuối tiếc, vì những sai sót vẫn chưa được chỉnh sửa một 
cách triệt để. 
Xuất phát từ lòng thiện cảm đối với cuốn sách, lòng ngưỡng mộ đối với GS TS 
Lê Huy Bá – người đã chủ biên và tập hợp các cộng tác viên để chỉnh sửa, bổ sung 
và cho tái bản cuốn sách, tôi xin chân thành đóng góp một số ý kiến với mong muốn 
trong lần tái bản tới đây cuốn sách được hoàn thiện hơn. Do điều kiện thời gian có hạn, 
sau đây tôi chỉ xin góp ý tập 1 “Độc học môi trường cơ bản”.
Để dễ nhận ra những sai sót cần soát xét để chỉnh sửa, tôi xin góp ý theo từng 
phạm trù. Để nêu góp ý, tôi sẽ dẫn ra những sai sót có kèm số trang. Tất nhiên, việc 
dẫn trang chỉ là một vài ví dụ cụ thể để thấy đó là một số sai sót có thật, giúp nhóm tác 
giả dễ dàng kiểm chứng, chúng tôi không thể chỉ ra tất tần tật từng trang, từng dòng 
một cách đầy đủ được. Xin nói thêm là những sai sót nêu ra sau đây theo tôi là không 
hoàn toàn do tác giả mà còn do lỗi biên tập và lỗi chế bản. 
I. Danh pháp sinh học
Xuyên suốt các chương của quyển sách, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều sai sót 
về cách viết tên khoa học các loài vi sinh vật, các loài thực vật và các loài động vật. 
1. Danh pháp loài
1.1. Viết sai nguyên tắc danh pháp quốc tế
Nhìn chung, sách có tính sai sót đồng loạt là cách viết tên loài sinh vật không 
theo nguyên tắc quốc tế. Theo nguyên tắc, mỗi tên khoa học loài bao gồm 2 từ, từ 
ĐỌC SÁCH
123Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
đầu phải viết hoa, từ thứ hai không viết hoa, nhưng ở các chương trong sách, đa số 
đều được viết thường, một vài trường hợp lẻ tẻ thì từ thứ nhất không viết hoa mà lại 
viết hoa từ thứ hai. Về mặt nguyên tắc, danh pháp khoa học loài cũng thống nhất in 
nghiêng (tránh sự nhầm lẫn với cụm từ tiếng Anh, tiếng Pháp), nhưng đôi chỗ trong 
sách nó cũng được in đứng. Ví dụ như: 
a. Tên các loài vi khuẩn: lẽ ra phải viết Pseudomonas tabaci, Salmonella typhi, 
Clostridium perfringens thì đã viết pseudomonas tabaci (tr. 34), salmonela typhi (tr. 
36), clostridium perfringens (tr. 131) 
b. Tên các loài nấm: lẽ ra phải viết Cryptococcus neoformans, Coccidioides 
immitis, Histoplasma capsulatum, Aspergillus flavus thì đã viết cryptococcus 
neoformans, coccidioides immitis, histopplasma capsulatum, aspergillus flavus (tr. 162).
c. Tên các loài thực vật: lẽ ra phải viết Ajuga remoa, Antiraris toxicaria, 
Papaver somniferum, Prunus armeniaca, Abrus precatorius, Conium maculatum, 
Cicuta maculate, Aethusa cynapium, Cicuta maculate thì đã viết ajuga remoa (tr. 
293), antiraris toxicaria, papaver somniferum (tr. 300), prunus armeniaca, aburus 
precatorius (tr. 298), conium maculatum, cicuta maculate, aethusa cynapium, cicuta 
maculate (tr.304)
d. Tên các loài động vật: lẽ ra phải viết Crassostrea virginica, Mercenaria 
mercenaria, Xiphias gladius, Makaira ampla, Thunnus thynnus, Thunnus albacares, 
Euthynnus pelamis, Columba livia, Azemiops feae, Bungarus candidus thì đã viết 
crassostrea virginica, mercenaria mercenaria (tr. 124), xiphias gladius, makaira 
ampla, thunnus thynnus, thunnus albacores, euthynnus pelamis (tr. 138), columba 
livia (tr. 171), azemiops feae, bungarus candidus (tr. 285)
1.2. Viết sai tổng hợp trong cùng một tên loài
a. Sai do không viết hoa từ thứ nhất và lỗi chính tả: lẽ ra phải viết Frankenia 
grandifolia, Thiobacillus ferrooxidans, Croton tiglium, Pachyrhizus erosus, Gelsemium 
elegans, Ricinus communis, Artemisia vulgaris, Solanum dulcamara, Solanum nigrum 
thì đã viết frankenia grandi folia (tr. 72), thiobacilus feroxidances (tr. 100), cron tiglium 
(tr. 298), pachryrhizus erosces, gelsenium gams (tr. 299), ricius communis (tr. 300), 
artemisia nulgaris (tr. 301), solaum dulcamara, solaum nigrum (tr. 310) 
b. Sai do in đứng, viết hoa cả hai từ và lỗi chính tả: lẽ ra phải viết Thiobacillus 
ferrooxidans thì lại viết Thiobacilus Feroxidance (tr. 53).
c. Sai do viết hoa, viết thường vô nguyên tắc và dùng dấu ngoặc vô nghĩa: lẽ 
ra phải viết Eleocharis dulcis thì lại viết (eleocharis) (Dulcis) (tr. 63). 
d. Sai do in đứng và viết hoa tùy tiện: lẽ ra phải viết Eleocharis dulcis thì lại 
viết Eleocharis Dulcis (tr. 59).
e. Sai do in đứng và lỗi đánh máy: lẽ ra phải viết Eleocharis dulcis thì lại viết 
Eleocharisdulcis (tr. 62, 63). 
g. Sai do không viết hoa từ thứ nhất, in đứng và lỗi đánh máy: lẽ ra phải viết 
Aspergillus niger, Rosa laevigata thì lại viết aspergillusniger, rosallaevigata (tr. 263, 298). 
h. Sai do không viết hoa từ thứ nhất và sai nguyên tắc ký hiệu một hay nhiều 
loài chưa xác định cụ thể: theo nguyên tắc, trường hợp một cá thể chỉ mới xác định 
124 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
được chi, chưa xác định được loài thì dùng ký hiệu “sp.” đặt ở vị trí thứ hai (sau tên 
chi/giống) và phải in đứng. Tương tự như thế, nếu muốn nói đến một tập hợp loài 
thuộc một chi nào đó thì dùng ký hiệu “spp.” đặt ở vị trí thứ hai (sau tên chi/giống) và 
phải in đứng. Ví dụ: lẽ ra phải viết Trichoptera sp., Ephemeroptera sp., Chlorella sp., 
Digitaria spp. thì đã viết trichoptera sp. (tr. 113), ephemeroptera sp., chlorella sp., 
digitaria spp. (tr. 165).
i. Sai do không viết hoa từ thứ nhất, lỗi chính tả, chú thích không rõ: lẽ ra 
phải viết Frankenia grandifolia var. campestris thì đã viết frankenia grandi folia 
(campestris) (tr. 72).
j. Sai do không viết hoa từ thứ nhất và nhầm lẫn tên tác giả với tính ngữ: lẽ ra 
phải viết Nicotinia tabacum L., Mangifera indica L. thì lại viết nicotinia tabacumlin 
(tr. 300), mangifera indical (tr. 307)
k. Sai do không viết hoa từ thứ nhất, lỗi chính tả và không nhất quán cách 
trích dẫn tên tác giả: theo nguyên tắc, tên tác giả trích dẫn phải được in đứng, nếu viết 
tắt phải kèm dấu chấm, thế mà:
- Với tên tác giả Linnaeus lẽ ra ghi “L.” như Rhizophora mangle L., Bungarus 
candidus L., Pachyrhizus erosus L., Croton tiglium L., nhưng sách lại in không nhất 
quán là rhizophora mangle L (tr. 114), bungarus candidus linne (tr. 285), pachryrhizus 
erosces L (tr. 299), crontontiglium linn (tr. 327) 
- Tương tự như thế đối với tên nhiều tác giả khác nữa, lẽ ra phải viết Azemiops 
feae Boulenger, Rosa laevigata Mich., Gelsemium elegans Benth., Antiaris toxicaria 
Lesch., thì lại viết azemiops feae boulenger (tr.285), rosallaevigata mich (tr.298), 
gelsenium gams benth (tr. 299), antiraris toxicaria cesch (tr. 300) 
Cũng có trường hợp do ghép từ máy móc khiến người đọc thấy mơ hồ, ví dụ như 
“toxine fusarium lycopersici sacc” (tr. 34) đã phạm cùng lúc 2 lỗi: (i) lỗi hành văn: đây 
là tài liệu tiếng Việt thì phải Việt hóa thuật ngữ “toxine” thành “độc tố” như ở nhiều 
trang khác đã dùng, hơn thế nữa toxine lại là từ tiếng Pháp, trong khi hầu hết ở các 
trang sách nếu có cũng chỉ là từ tiếng Anh; (ii) lỗi khoa học: fusarium lycopersici sacc 
lẽ ra phải viết là Fusarium lycopersici Sacc., đó là tên một loài nấm do Saccardo công 
bố chỉ dùng khi nêu tên khoa học loài. Như vậy theo tôi, cụm từ này nên đổi thành 
“độc tố của nấm Fusarium lycopersici” là đủ nghĩa.
1.3. Viết tắt danh pháp không đúng quy tắc 
Về nguyên tắc, một danh pháp loài chỉ được viết tắt từ thứ nhất khi đã viết đầy 
đủ trước đó ít nhất là một lần trong đoạn văn và chỉ được viết chữ cái đầu tiên của từ 
thứ nhất có kèm dấu chấm. 
Ở trang 394, chương 9 có đoạn “Theo Wagner (1915), dịch lấy từ cây khoai tây, 
củ cải đường, sempervivum, sinapis và brassica có đặc tính ngưng kết và diệt trùng 
đối với BAC. vulagatus, BAC. putidum và B. asterosporus. Berridge (1929) tìm thấy 
trong dịch khoai tây có chất gây phản ứng ngưng kết với E. coli, B. tumefaciens, PS. 
fluorescens, X. malvacerum và PS. Py-ocyanea”. Đây là cách viết tắt tùy tiện, hiện 
trạng này dẫn đến việc mù thông tin, vì người đọc sẽ không biết BAC., B., E., PS., X. 
là viết tắt của những từ nào? Và như thế khó bề truy cập thông tin qua các tài liệu. Khi 
đọc từ viết tắt “BAC.” liệu mấy ai hiểu được từ đầy đủ của nó Bacillus, Bacteroides, 
125Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
Bacterionema, hay Bacteriovorax?; tương tự như thế “B.” xuất phát từ Bacillus, 
Bacteroides, Bacterionema, Bacteriovorax hay Brevibacillus?, “PS.” xuất phát 
từ Pseudacidovorax, Pseudomonas, Pseudonocardia hay Psychrobacter?, “X.” xuất 
phát từ Xanthobacter, Xanthomonas, Xenophilus, hay Xylella?
1.4. Viết danh pháp thứ thực vật không đúng quy tắc 
Theo nguyên tắc, danh pháp thứ phải được viết một cách đầy đủ, bao gồm danh pháp 
loài kèm theo chữ var. (viết tắt của varietas có nghĩa là thứ) và tính ngữ thứ. Như vậy lẽ 
ra phải viết Prunus armeniaca var. ansu thì sách lại viết prunus armeniaca ansu (tr. 98). 
2. Danh pháp chi (giống) 
Theo nguyên tắc danh pháp khoa học, danh pháp chi (giống) phải được viết hoa, 
in nghiêng, nhưng nhiều trang sách đã viết thường, có khi in đứng, ví dụ như daphnia 
(tr. 6), shigella (tr. 48), chlamydomonas (tr. 114), boletus, cantharellus, clitocybe, 
clorophyllum, hebeloma, lactarius, (tr. 313) thậm chí tách ra thành 2 từ và mắc 
lỗi chính tả khiến nó vô nghĩa như tryco phyton (tr. 34). Những trường hợp này lẽ 
ra phải viết Daphnia, Shigella, Chlamydomonas, Boletus, Cantharellus, Clitocybe, 
Clorophyllum, Hebeloma, Lactarius, Tricophyton.
Có trường hợp trong sách viết tên chi (giống) kèm tên tác giả được trích dẫn, 
nhưng do viết sai nguyên tắc khiến người đọc có thể nhầm tưởng là tên loài, ví dụ như 
ophiophagus gunther (tr. 284). Trường hợp này lẽ ra phải viết Ophiophagus Gunther, 
trong đó Ophiophagus là danh pháp khoa học của chi (giống) rắn Hổ mang, còn 
Gunther là tên tác giả công bố. 
3. Danh pháp họ
Theo nguyên tắc, danh pháp họ phải viết hoa và không cần in nghiêng vì đã có 
đuôi từ đặc trưng không thể nhầm lẫn với các ngôn ngữ văn bản. Vì vậy lẽ ra phải viết 
Elapidae, Viperidae, Papilionaceae, Loganiaceae thì sách đã in “họ rắn hổ elapidae 
(tr. 284), họ rắn lục viperidae (tr. 285), họ Cánh bướm (papilonacae) (tr.298), họ mã 
tiền loganiaceae (tr. 299)” 
4. Sai khái niệm loài, chi, họ
Thỉnh thoảng ở một vài trang sách có hiện tượng nhầm lẫn khái niệm về các cấp 
bậc phân loại sinh học, lẫn lộn giữa các khái niệm họ, chi, loài với nhau. 
4.1. Nhầm lẫn khái niệm loài với chi: như ở trang 114 có cụm từ “khả năng 
quang hợp của loài chlamydomonas”. Thật ra, Chlamydomonas là chi chứ không phải 
loài. Nếu văn bản tiếng Anh ghi “Chlamydomonas species” thì chúng ta phải dịch là 
“nhiều loài thuộc chi Chlamydomonas”.
4.2. Nhầm lẫn khái niệm loài với họ: ở trang 184, cụm từ “Đậu nành và đậu 
dài thuộc loài legieminosae” đã thể hiện sự nhầm lẫn giữa khái niệm loài với họ. 
Leguminosae (không phải Legieminosae) là họ chứ không phải loài, vì vậy cụm từ 
này phải được viết “Đậu nành và đậu dài là hai loài thuộc họ Leguminosae” (tên khoa 
học họ không cần in nghiêng). 
4.3. Nhầm lẫn khái niệm họ với tên gọi thông thường của một loài: ở trang 
304, cụm từ “họ rau mùi tây (parsley)” đã thể hiện sự nhầm lẫn khái niệm họ với tên 
gọi thông thường của một loài cây. Từ “parsley” chỉ là một tên gọi phổ thông cây rau 
mùi (Petroselinum crispum). Đúng ra phải viết “họ rau Mùi tây (Apiaceae)”. 
126 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
II. Danh pháp hóa học 
1. Tên nguyên tố
Nhìn chung, các chương, các trang, thậm chí có trường hợp cùng trang đã xuất 
hiện tình trạng trình bày tên các nguyên tố thiếu tính nhất quán, không theo một tiêu 
chí chuẩn nào cả. Rất nhiều trường hợp cùng một nguyên tố, nhưng chỗ viết tên theo 
kiểu này, nơi thì viết theo kiểu khác, có khi 1 nguyên tố thôi mà có đến 4 kiểu viết tên: 
1.1. Tên 1 nguyên tố được viết theo 2 kiểu: chromium (tr. 120)/ crôm (tr. 19, 
133); Flor (tr. 350)/ flo (tr. 620, 679); cadmium (tr. 99, 121, 123, 132)/ cadimi (tr. 126); 
manganese (tr. 120)/ mangan (tr. 253); oxygen (tr. 104)/ oxy (tr. 110); nitơ (tr. 152)/ 
nitrogen (tr. 215); thậm chí trong cùng một trang cũng có tình trạng này như ở trang 
156: methane (dòng 14 và 18 dưới lên)/ metan (dòng 6 dưới lên)
1.2. Tên 1 nguyên tố được viết theo 4 kiểu: chromium (tr. 120)/ crôm (tr. 133)/ 
crom (tr. 138)/ chrom (tr. 273, 275); 
Theo chúng tôi, chỉ nên chọn một trong hai cách: hoặc là Việt hóa toàn bộ, hoặc là 
viết theo danh pháp quốc tế (bằng tiếng Latin), không dùng tiếng Anh hay tiếng Pháp. 
2. Tên hợp chất
2.1. Không nhất quán cách viết tên các anion: Cũng như các nguyên tố, tên các 
anion cũng không được thể hiện nhất quán, tên cùng một anion hay cùng một cation 
cũng đã viết khác nhau, khi thì dùng tiếng Anh, khi thì dùng tiếng Việt, ví dụ:
- acid (tr. 18, 20, 22, 34, 127, 154, 155), axit (tr. 560, 562);
- oxide (tr. 97, 152, 157), oxit (tr. 253, 562, 572), oxyd (tr. 572); 
- monoxide (tr. 96, 157), monoxit (tr. 562);
- dioxide (tr. 97, 152, 157), dioxit (tr. 152, 253);
- phosphate (tr. 57, 219, 221), photphat (tr. 217);
- sulphate (tr. 99, 100), sulfate (tr. 134)
2.2. Vừa không nhất quán cách viết tên các anion, vừa không nhất quán trình 
tự tên anion và cation: 
- Với các axit: kiểu 1 (cùng tên anion được viết hai cách và để tên anion trước, 
tên cation sau): acid sulfuric, acid glucoronic (tr. 34); axit ascorbic, axit limonic (tr. 
560), kiểu 2 (để tên cation trước, tên anion sau): amino acid (tr. 127). 
- Với các oxit: cũng tương tự như thế, ví dụ: kiểu 1: monoxide carbon (tr. 96), 
dioxide carbon (tr. 97), oxide nitơ (tr. 157), oxyd nitric, oxit nhôm (tr. 572), kiểu 
2: nitơ oxide, nitric oxide, nitơ dioxide (tr. 152), carbon monoxide (tr. 157), sunfur 
dioxide (tr. 157), mangan dioxit, mangan dioxide (tr. 253), Cacbon monoxit (tr. 562)
- Có lúc lại viết liền theo 2 kiểu khác nhau: sulfurhydro (tr. 27), hydrosulfua (tr. 96) 
3. Tên các enzyme
Tên các enzyme cũng không viết nhất quán, chỗ thì dùng tiếng Anh như 
phophatase, peroxydase (tr. 59, 64) catalase, phosphatase (tr. 57, 58, 66); chỗ thì Việt 
hóa theo âm Anh như oxydaze (tr. 567), nơi thì Việt hóa theo âm Nga như catalaza (tr. 
64), oxydaza (tr. 33, 568, 569), amylaza (tr. 212), hialurodinaza (tr. 287)
127Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
III. Cách hành văn
1. Chú thích tên cây thiếu nhất quán, không chuẩn xác
Khá nhiều trường hợp, khi viết tên cây, tác giả đã mở ngoặc để chú thích một 
tên khác, nhưng thiếu tính nhất quán và có chỗ còn thiếu chính xác, ví dụ ở trang 304 
có đoạn như sau:
“Cây độc cần (parsley)
Những loài thực vật độc của dòng họ rau mùi tây (parsley) bao gồm cây độc cần 
(hemlock - conium maculatum), cây độc cần nước (waterhemlock) (cicuta maculata 
và các loại cicuta khác) và rau mùi chó (dogparsley - aethusa cynapium).
Cicuta chứa cicutoxin - là chất kính thích hệ thần kinh trung ương giống như pricotoxin.
Cicuta maculatum và aethusa cynapium gây tê liệt cơ.
Bệnh lý của độc chất cicuta tương tự như của picrotoxin gây viêm đường ruột 
với sự xung huyết ở bụng”
Đoạn văn này cho thấy:
- Cách chú thích không nhất quán, chỗ thì chú thích tiếng Anh, chỗ thì vừa tiếng 
Anh vừa tên khoa học;
- Chú thích tiếng Anh không được chuẩn xác, sai đối tượng, lỗi đánh máy, chú 
thích tên khoa học thì không theo nguyên tắc quốc tế (không viết hoa tên chi), cụ thể là:
+ Cây độc cần (parsley): chú thích sai, parsley là cây cần, cây độc cần phải là hemlock;
+ Họ rau Mùi tây (parsley): chú thích sai, họ rau Mùi tây phải là Apiaceae;
+ Các từ waterhemlock, dogparsley lẽ ra phải viết water hemlock, dog parsley;
+ Các tên khoa học conium maculatum, cicuta maculate, aethusa cynapium phải 
được viết hoa: Conium maculatum, Cicuta maculate, Aethusa cynapium. 
2. Kiểu viết nửa Việt nửa Tây 
Có khá nhiều trường hợp, trong câu văn xuất hiện những cụm từ nửa Việt nửa 
Tây vô nghĩa. Chẳng hạn như ở trang 162 có các câu như sau:
- Vi khuẩn mycobacterium gây bệnh bovine ở gia súc, lợn. 
- Vi khuẩn bovis gây bệnh loét mũi truyền nhiễm ở ngựa, lừa. 
Trong 2 câu này, có cụm từ nửa Việt nửa Tây “bệnh bovine” có lẽ do dịch 
không hoàn chỉnh cụm từ “bovine diseases” cụ thể như bệnh nhiễm Babesia (Bovine 
Babesiosis), bệnh lao bò (Bovine Tuberculosis) Cụm từ “vi khuẩn bovis” cũng 
không chuẩn xác. Từ “bovis” là một thuộc từ (sở hữu cách) của danh từ Latin “bos”, 
nó được dùng làm tính ngữ cho tên khoa học nhiều loài vi khuẩn gây bệnh ở bò như 
Babesia bovis, Brucella bovis, Mycobacterium bovis, Mycoplasma bovis Trong số 
đó, Mycobacterium bovis gây bệnh lao cho bò và một số loài động vật nuôi khác. 
Ở trang 50 có cụm từ “vi khuẩn bacteria methane” cũng là dạng hành văn nửa 
Việt nửa Tây. Lẽ ra cụm từ này chỉ viết “vi khuẩn metan” mà thôi (bacteria methane: 
vi khuẩn metan). 
128 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (128) . 2016
IV. Thuật ngữ
Các thuật ngữ được sử dụng trong sách cũng cần được xem lại vì lắm trường hợp 
thiếu nhất quán, thiếu chính xác, ví dụ:
- Ở các trang 33, 212, 287 dùng thuật ngữ “men” nhưng ở các trang 64, 66
lại dùng thuật ngữ enzyme; Tương tự như thế, chỗ thì virus, nơi thì virut;
 - Ở trang 561 có thuật ngữ “Màng lưới nội chất (Endoplasmic reticulum)”, lẽ ra 
phải gọi mạng lưới nội chất. Cùng trang có thuật ngữ “Màng tế bào (Membranches)”, 
đúng ra phải là cell membrane.
- Câu “Cây caffeine: Độc tố aminophilline có trong hạt caffeine” ở trang 310 đã 
bộc lộ 2 cụm thuật ngữ sai là “cây caffeine” và “hạt caffeine”. Đúng ra thì chỉ có cây 
cà phê và hạt cà phê, còn caffeine là một alkaloid có trong hạt cà phê. 
V. Địa danh và tên tác giả
Trong sách có hiện tượng không nhất quán cách gọi tên các địa danh và các tác 
giả, khi thì phiên âm, lúc thì dùng nguyên bản ngữ, thậm chí có khi còn sai chính tả, 
ví dụ:
- Địa danh: chỗ thì phiên âm như vùng Pirêne [Pyrénées] (tr. 327), chỗ thì dùng 
bản ngữ như Lille (tr. 329)
- Tên tác giả: cũng như thế, khi thì Pôlunop (tr. 69), Tơrốtki (tr. 297), Maicơn 
(tr. 329), khi thì Ruhling et al, Bengston et al (tr. 169), Cantwell et al (tr. 172), Nriaga 
(tr. 249), Nriagu (tr. 250), Albert Calmette, Pasteur (tr. 329), thậm chí sai tên như 
Hutchinsonquy (tr. 46).
Kết luận
Với những sai sót vừa nêu ở trên, chúng tôi hy vọng trong lần tái bản tới nhóm 
tác giả sẽ rà soát, chỉnh sửa để mang lại cho độc giả một phiên bản mới tốt hơn, tin 
cậy hơn.
 Đ X C
TÓM TẮT
Cuốn “Độc học môi trường” là tài liệu tham khảo hữu ích cho các hoạt động giảng dạy và 
nghiên cứu khoa học không chỉ với ngành Môi trường học mà còn đối với nhiều ngành khoa học 
tự nhiên và thực nghiệm khác. Điều đáng tiếc là đã đến lần tái bản thứ ba, sách vẫn tồn tại nhiều 
sai sót chưa được chỉnh sửa. Bài viết chỉ ra một số sai sót của các tác giả đồng thời góp ý hướng 
chỉnh sửa với mong muốn trong lần tái bản sau cuốn sách được hoàn thiện, giúp độc giả hài lòng 
hơn và yên tâm trích dẫn khi thực hiện những công trình khoa học liên quan. 
ABSTRACT
SUGGESTIONS ON MISTAKES IN THE BOOK ENVIRONMENTAL TOXICOLOGY
Environmental Toxicology is a reliable reference book for teaching and scientific research 
on the Environmental Studies as well as other natural and experimental studies. It is a pity that 
there are still a number of mistakes which need correcting although it was reprinted the third 
time. The article points out some mistakes and recommends some ways of correction to make it 
better in the next edition in order to help readers feel contented and secure to cite in their related 
research work. 

File đính kèm:

  • pdfgop_y_ve_nhung_sai_sot_trong_cuon_sach_doc_hoc_moi_truong.pdf