Giới thiệu khung phân loại thư viện quốc hội Mỹ

Khung phân loại Thư viện Quốc hội

(Library Congress Classification, viết tắt là

LCC) là một hệ thống phân loại ra đời vào

cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, được

phát triển bởi Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ

(LC-Library Congress), nhằm mục đích

tổ chức và sắp xếp các bộ sưu tập trong

thư viện. Hiện tại, LCC là một trong những

khung phân loại được sử dụng rộng rãi trên

thế giới, thường được áp dụng trong các thư

viện chuyên ngành, học thuật lớn. Trong

những thập kỷ gần đây, Thư viện Quốc hội

đã xây dựng hồ sơ điện tử LCC bằng hình

thức trực tuyến, tài liệu hướng dẫn sử dụng

được truy cập miễn phí trên website. LCC

không phải là hệ thống phân loại phổ biến

duy nhất, bên cạnh nó, còn có rất nhiều

khung phân loại khác như: DDC (Dewey

Decimal Classification), UDC (Universal

Decimal Classification), BBK (Bibliotechno

- Biblilgraficheskaija - Klassifikacija),

BBC (Bliss Bibliographic Classification),

CC (Colon Classification) [3].

Tại Việt Nam, DDC và BBK là hai hệ thống

phân loại được sử dụng nhiều nhất, tuy

nhiên hiện nay, sự hữu ích của LCC đã

vượt qua biên giới lãnh thổ quốc gia, trở

thành một khung phân loại toàn cầu. LCC

là một trong những khung phân loại được

sử dụng rộng rãi trên thế giới. Bài viết giới

thiệu lịch sử hình thành và phát triển, khái

quát những đặc tính, nguyên tắc, cấu trúc,

công cụ hỗ trợ của LCC. Dựa trên các ví

dụ cụ thể, tác giả phân tích những ưu điểm,

hạn chế góp phần tạo nên một cách nhìn

rõ nét hơn về LCC như là một công cụ hữu

ích, có tính áp dụng cao đối với các thư

viện chuyên ngành tại Việt Nam

pdf 10 trang kimcuc 8980
Bạn đang xem tài liệu "Giới thiệu khung phân loại thư viện quốc hội Mỹ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giới thiệu khung phân loại thư viện quốc hội Mỹ

Giới thiệu khung phân loại thư viện quốc hội Mỹ
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
39THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
GIỚI THIỆU KHUNG PHÂN LOẠI THƯ VIỆN QUỐC HỘI MỸ
Ngô Nguyễn Cảnh
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
Mở đầu
Khung phân loại Thư viện Quốc hội 
(Library Congress Classification, viết tắt là 
LCC) là một hệ thống phân loại ra đời vào 
cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, được 
phát triển bởi Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ 
(LC-Library Congress), nhằm mục đích 
tổ chức và sắp xếp các bộ sưu tập trong 
thư viện. Hiện tại, LCC là một trong những 
khung phân loại được sử dụng rộng rãi trên 
thế giới, thường được áp dụng trong các thư 
viện chuyên ngành, học thuật lớn. Trong 
những thập kỷ gần đây, Thư viện Quốc hội 
đã xây dựng hồ sơ điện tử LCC bằng hình 
thức trực tuyến, tài liệu hướng dẫn sử dụng 
được truy cập miễn phí trên website. LCC 
không phải là hệ thống phân loại phổ biến 
duy nhất, bên cạnh nó, còn có rất nhiều 
khung phân loại khác như: DDC (Dewey 
Decimal Classification), UDC (Universal 
Decimal Classification), BBK (Bibliotechno 
- Biblilgraficheskaija - Klassifikacija), 
BBC (Bliss Bibliographic Classification), 
CC (Colon Classification) [3]. 
Tại Việt Nam, DDC và BBK là hai hệ thống 
phân loại được sử dụng nhiều nhất, tuy 
nhiên hiện nay, sự hữu ích của LCC đã 
vượt qua biên giới lãnh thổ quốc gia, trở 
thành một khung phân loại toàn cầu. LCC 
là một trong những khung phân loại được 
sử dụng rộng rãi trên thế giới. Bài viết giới 
thiệu lịch sử hình thành và phát triển, khái 
quát những đặc tính, nguyên tắc, cấu trúc, 
công cụ hỗ trợ của LCC. Dựa trên các ví 
dụ cụ thể, tác giả phân tích những ưu điểm, 
hạn chế góp phần tạo nên một cách nhìn 
rõ nét hơn về LCC như là một công cụ hữu 
ích, có tính áp dụng cao đối với các thư 
viện chuyên ngành tại Việt Nam.
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Thư viện Quốc hội được thành lập vào 
năm 1800. Năm 1801, những cuốn sách 
đầu tiên đặt hàng từ Anh đã có mặt trong 
thư viện (740 cuốn sách và 3 bản đồ). Ngày 
26/01/1802, Tổng thống Thomas Jefferson 
đã ra một đạo luật cơ bản đầu tiên, xác 
nhận vai trò và chức năng của thư viện, 
cho phép thư viện phục vụ Quốc hội, sau 
này (1815), thư viện mở rộng phục vụ cho 
các cơ quan chính phủ và tư pháp. Năm 
1814, quân đội Anh xâm chiếm thành phố 
Washington và Thư viện Quốc hội bị phá 
hủy, số lượng tài liệu bị phá hủy ước tính 
3000 bản. Sau sự kiện này, năm 1815 
Jefferson đã đề nghị bán thư viện cá nhân 
cho Quốc hội để "tái khởi động" thư viện 
của mình với số lượng 6.487 cuốn sách, 
được phân loại bởi chính Jefferson [9]. Thư 
viện đã thông qua hệ thống này và sử dụng 
nó với một số sửa đổi cho đến khi kết thúc 
vào thế kỷ XIX. Năm 1857, Thư viện Quốc 
hội chuyển đến một tòa nhà mới. Đến thời 
điểm này, bộ sưu tập của thư viện đã phát 
triển lên đến 1,5 triệu bản, hệ thống phân 
loại của Jefferson bây giờ không còn thích 
hợp cho bộ sưu tập hiện tại của thư viện. 
Một chương trình phân loại chi tiết đã được 
lập ra trước sự phát triển nhanh chóng 
của bộ sưu tập tài liệu. Các khung phân 
loại thập phân Dewey (DDC), khung phân 
loại mở rộng Cutter (Cutter’s Expansive 
Classification) và khung Hartwig’s Halle 
của Đức đã được đưa vào nghiên cứu, 
nhưng không một khung nào trong số đó 
thích hợp cho bộ sưu tập hiện tại. Vì vậy, 
Thư viện đã quyết định xây dựng một hệ 
thống phân loại mới của riêng mình. Khung 
phân loại được thiết lập đầu tiên vào năm 
1901 với lớp Z là lớp khởi đầu được xuất 
bản 1902 (thư viện và khoa học thư viện). 
Tiếp theo là E-F (Lịch sử Hoa Kỳ và địa lý), 
được phát triển và xuất bản 1901. Từ đó, 
các lớp khác được tiếp tục phát triển. Mỗi 
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
40 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
chủ đề của LCC có chứa một lớp chính, 
một phân lớp, hoặc một nhóm các lớp phụ. 
Các lớp chủ đề riêng biệt được xuất bản 
ngay khi chúng được hoàn thành. Năm 
1948, tất cả các lớp của LCC được xuất 
bản, ngoại trừ lớp K (luật), đến năm 1969, 
bước đầu hoàn thành đối với pháp luật của 
Hoa Kỳ và hoàn chỉnh lớp K vào năm 2004 
với phân lớp KB (luật tôn giáo). Ngay từ 
đầu, các lớp chuyên biệt của LCC đã được 
phát triển và duy trì theo chủ đề do các 
chuyên gia phụ trách từng kho đảm nhiệm. 
Họ có trách nhiệm bổ sung và thay đổi 
LCC trong tương lai. Không giống như các 
hệ thống phân loại khác, LCC không phải 
là sản phẩm của một người, mà là sự kết 
hợp của hàng loạt chủ đề đặc biệt giữa các 
kho với nhau tạo nên một khung phân loại 
hoàn chỉnh. Cho đến đầu những năm 1990, 
LCC tồn tại chủ yếu dưới dạng in ấn. Việc 
chuyển đổi LCC thành khổ mẫu đọc máy 
được bắt đầu vào năm 1993, hoàn thành 
vào năm 1996. Việc chuyển đổi sang dạng 
điện tử đã được thực hiện bằng cách sử 
dụng định dạng phân loại USMARC (nay 
gọi là MARC21). Đây là điều rất quan trọng 
cho sự phát triển của LCC, cho phép LCC 
được tra cứu trực tuyến đem lại hiệu quả 
lớn hơn so với bản in. Năm 2013, Thư viện 
Quốc hội công bố chuyển đổi sang xuất 
bản trực tuyến đối với tài liệu biên mục, 
bao gồm cả khung phân loại LCC. Dịch 
vụ phân phối biên mục (CDS) sẽ không 
còn in các ấn bản mới của tiêu đề đề mục 
(LCSH), LCC (bản in) và ấn phẩm biên 
mục khác. Thay vào đó Thư viện đã quyết 
định cung cấp miễn phí các phiên bản 
PDF tải về thông qua website (www.loc.
org), bao gồm các tài liệu đào tạo, hướng 
dẫn về nguyên tắc và thông lệ của khung 
phân loại LCC. Ngoài ra, CDS còn cung 
cấp các dịch vụ nâng cao cho các thư viện 
thông qua công cụ: Cataloger's Desktop, 
Classification Web. Đây là hai công cụ ứng 
dụng trên web dựa trên nền tảng LCC và 
LCSH, hỗ trợ tìm kiếm và duyệt tìm các lớp 
LCC, cung cấp liên kết đến các bảng tương 
ứng để xây dựng ký hiệu phân loại cho tài 
nguyên thư viện [3]. 
2. Nguyên tắc, đặc tính và cấu trúc 
LCC
2.1. Nguyên tắc LCC
LCC là một hệ thống phân loại mang 
tính liệt kê, tức là hệ thống liệt kê các số 
phân loại cho chủ đề đơn, kép, thậm chí 
với chủ đề phức tạp trong bảng. Những lớp 
chính của LCC đại diện cho các chủ đề 
chính được chia thành nhiều lớp con khác 
nhau, sau đó tiếp tục được chia thành tiểu 
mục nhỏ hơn. Phân loại như vậy tạo ra một 
sự phân cấp cho LCC, phát triển từ tổng 
quát tới cụ thể.
Các bảng LCC được phát triển độc lập 
bởi các nhóm chuyên gia khác nhau dựa 
trên "Literacy warrant" sự phát triển của bộ 
sưu tập. Vì vậy, mỗi bảng độc lập với một 
số khác biệt.Ví dụ K (luật), P (ngôn ngữ). 
LCC sắp xếp chủ đề theo thứ tự chữ 
cái, khi một chi tiết của chủ đề mới được 
thêm vào đều được sắp xếp theo thứ tự 
chữ cái của chủ đề đó. Cách sắp xếp này 
không được hệ thống từ trước và không 
thiết lập được mối quan hệ giữa các chủ 
đề trong bảng. Vì thế, trong LCC luôn có 
chú thích trực tiếp đối với chủ đề mới được 
thêm vào. Về mặt này, nó không giống với 
các hệ thống phân loại nghiêm ngặt khác, 
chẳng hạn như phân loại thập phân Dewey 
(DDC), trong đó mối quan hệ phân cấp 
giữa các chủ đề được thể hiện bằng số có 
thể được chia nhỏ liên tục.
2.2. Đặc tính LCC
Tính biểu thị: Ký hiệu LCC giới hạn sự 
biểu thị so với các khung phân loại phổ biến 
khác, đặc biệt là so với DDC. Trong LCC, 
các ký hiệu cho biết mối quan hệ thứ bậc 
thông qua chữ in hoa và số Cutter. Đôi khi 
chúng còn được mở rộng đến phần số thập 
phân để hiển thị sự lệ thuộc. Tuy nhiên, 
việc sử dụng khả năng này đối với LCC 
còn hạn chế, chưa sử dụng nhiều [10]. 
Tính cập nhật: LCC có khả năng cập 
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
41THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
nhật khái niệm hoặc chủ đề mới khi cần 
thiết phải thêm vào trong bảng phân loại, 
cho phép chèn cả phân lớp mới và phối hợp 
với các chủ đề khác. Có thể nói khả năng 
cập nhật thông tin mới của LCC là rất lớn, 
chủ đề mới có thể được thêm vào hệ thống 
một cách dễ dàng. Ở cấp độ lớp chính I, O, 
X, W và Y chưa được chỉ định cho bất kỳ đối 
tượng nào và dự kiến sẽ sử dụng trong tương 
lai. Ở cấp độ phân lớp, giữa hai chữ cái kết 
hợp có sẵn khoảng trống nhằm mục đích 
sử dụng trong tương lai. Ngoài ra còn có lựa 
chọn để tự thêm vào ba ký tự kết hợp với 
biểu thị của phân lớp mới (ví dụ: AC=>ACA; 
AD=>ADA; AD185=>AD185.40). Phân 
lớp có thể được thêm bằng cách sử dụng 
phần mở rộng thập phân và số Cutter (ví 
dụ: .C87) [3].
Tính dễ nhớ: LCC cho phép sắp xếp một 
ký hiệu liên kết nhất định với một khái niệm 
chủ đề, bằng cách sử dụng chữ cái ban đầu 
để chỉ ra các lớp nhất định. Ký hiệu LCC 
không có công cụ hỗ trợ ghi nhớ, nhưng 
nhìn chung khi nhìn vào bảng người phân 
loại có thể nhớ rất nhanh các lớp chính, từ 
đó dò tìm về các phân lớp nhỏ hơn để thiết 
lập số phân loại. Một số ví dụ về thuật nhớ 
trong lớp A, nơi ký hiệu thứ hai của phân 
lớp được lấy từ tên của chủ đề. Ví dụ: AC 
cho Collection, AE cho Encyclopaedias, 
AN cho Newpaper, AS cho Social, v.v.
Tính ngắn gọn: Ký hiệu trong LCC tương 
đối ngắn gọn so với các khung phân loại 
khác như DDC. Nó cho phép kết hợp giữa 
nhiều ký hiệu với những đặc trưng riêng mà 
vẫn đảm bảo tính ngắn gọn.
2.3. Cấu trúc LCC
2.3.1. Lớp chính (Main class)
LCC phân chia toàn bộ tri thức của nhân 
loại thành 21 lớp chính, ký hiệu được xác 
định bằng bảng chữ cái. 
Các lớp chính (Main class) của LCC gồm:
A - Các công trình chung
B - Triết học. Tâm lý. Tôn giáo
C - Các khoa học phụ trợ cho lịch sử
D - Lịch sử: Lịch sử nói chung và lịch sử 
thế giới cổ đại
E-F - Lịch sử nước Mỹ
G - Địa lý. Bản đồ. Nhân loại học. Giải trí
H - Các khoa học xã hội
J - Khoa học chính trị
K - Pháp luật
L - Giáo dục
M - Âm nhạc
N - Mỹ thuật
P - Ngôn ngữ và Văn học
Q - Khoa học
R - Y học
S - Nông nghiệp. Nghề cá và săn bắn
T - Kỹ thuật
U - Kỹ thuật quân sự
V - Hàng hải
Z - Thư mục. Thư viện học
Các chữ cái I, O, W, X, Y không được chỉ 
định, dự kiến sẽ dành cho các ngành khoa 
học mới trong tương lai.
2.3.2. Lớp con (Phân lớp - Subclass)
Mỗi lớp chính, trừ trường hợp E và F, 
được phân chia thành nhiều lớp con đại 
diện cho các chủ đề của lớp chính. Hầu 
hết các lớp con được biểu thị bằng hai hoặc 
ba chữ cái. Ví dụ: 
A - Các vấn đề chung 
AC - Bộ tùng thư, tùng thư, ấn phẩm tiếp tục 
AE - Bách khoa thư tổng hợp
AG - Sách tra cứu, tham khảo
Mỗi phân lớp được chia nhỏ thành các 
đơn vị đại diện cho thành phần của phân 
lớp phụ để chỉ định hình thức, địa điểm, 
thời gian và chủ đề phụ. Chúng được biểu 
thị bằng số nguyên 1-9999 hoặc một số có 
phần mở rộng thập phân. Ví dụ: 
Q Khoa học
QD Hóa học
QD 71-142 Hóa học phân tích
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
42 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
QD 145-197 Hóa học vô cơ
QD 241-244 Hóa học hữu cơ 
2.3.3. Các thành phần của LCC
Tính đến đầu tháng 3 năm 2017, LCC 
có tất cả 41 ấn bản (pdf) được xuất bản 
trên web dành cho các lớp chính và phân 
lớp của LCC. Mỗi bảng in bao gồm: lời nói 
đầu, đề cương, văn bản chính của khung, 
bảng phụ trợ và chỉ mục. 
- Lời nói đầu (Preface): lời nói đầu cho 
biết lịch sử và những thay đổi từ phiên bản 
trước, liệt kê, phác thảo các phân lớp, bảng 
phụ và chỉ mục trong bảng.
- Đề cương (Outline): bao gồm bản tóm 
tắt chi tiết về chủ đề, chủ đề phụ. Đầu tiên, 
nó phác thảo các lớp con được dùng làm 
nội dung trong bảng chính, tiếp đó là phác 
thảo chi tiết với 2 hoặc 3 cấp độ phân cấp 
của hệ thống.
- Bảng chính (Main tables): được các 
nhóm chuyên gia xây dựng và hoàn thiện, 
do đó mỗi lớp có những tính năng riêng, 
giữa các bảng có sự khác nhau trong việc 
sử dụng và phương pháp tổng hợp ký hiệu 
phân loại. Tuy nhiên, một số tính năng nhất 
định được chia sẻ chung cho các bảng như: 
về mặt tổ chức, ký hiệu, phương pháp, sắp 
xếp hình thức và đơn vị địa lý. Những đơn vị 
trong một lớp, phân lớp hoặc chủ đề chính 
được tạo theo một khuôn mẫu chung gồm 
bảy yếu tố: (1) hình thức chung: tạp chí định 
kỳ, xã hội, bộ sưu tập, từ điển, bách khoa 
toàn thư, hội nghị, triển lãm, thư viện, niên 
giám, bảo tàng v.v; (2) lý thuyết, triết học; 
(3) lịch sử, tiểu sử; (4) luận án hoặc các 
tác phẩm tổng hợp; (5) luật, quy định, nhà 
nước; (6) học tập, giảng dạy, nghiên cứu; 
(7) các đối tượng đặc biệt và phân ngành 
của các đối tượng. Việc bổ sung, thay đổi 
sau đó đã biến đổi khuôn mẫu này khác đi 
so với hiện tại, nhưng nhìn chúng vẫn được 
nhận ra ở một mức độ nào đó.
- Chú thích (Caption): được sử dụng 
trong toàn bộ bảng, có ý nghĩa quan trọng 
trong việc hiển thị quan hệ phân cấp với 
chủ đề chính và chủ đề phụ. Ngoài ra, 
ghi chú là một phần không thể thiếu trong 
LCC, thường đi kèm với số lớp chính và 
tiêu đề, chỉ ra phạm vi của số đó, hoặc có 
thể hướng dẫn cán bộ phân loại tham khảo 
một số phân loại khác hoặc phân lớp khác 
của bảng.
- Các bảng phụ (Tables): được sử dụng 
rộng rãi trong LCC, cho phép gán một số 
phân loại cụ thể hoặc phần mở rộng để sắp 
xếp các chủ đề tương tự mà không cần in 
lại các chỉ dẫn lặp đi lặp lại nhằm tiết kiệm 
không gian. Bảng phụ trong LCC được 
phân theo ba loại: bảng nằm bên trong 
bảng chính (còn gọi là bảng nội bộ), bảng 
nằm ngoài bảng chính (còn gọi là bảng 
ngoài) và bảng ứng dụng chung (dùng 
chung cho cả hai bảng trên). 
+ Bảng nội bộ xuất hiện trong văn bản 
của bảng chính áp dụng cho một chủ đề cụ 
thể hoặc khoảng thời gian diễn ra sự kiện. 
+ Các bảng bên ngoài xuất hiện ở cuối 
bảng chính, trước khi lập chỉ mục, áp dụng 
cho nhiều đối tượng trong một lớp hoặc 
phân lớp. 
+ Bảng ứng dụng chung xuất hiện trong 
cuốn cẩm nang hướng dẫn phân loại và 
sắp xếp ký hiệu trên kệ, chúng được áp 
dụng trong toàn bộ bảng chính.
 Các bảng thông dụng bao gồm bảng 
tiểu sử, bảng dịch và bảng địa lý dựa trên 
số Cutter. Ví dụ: 
Bảng tiểu sử
.x Số cutter cho tiểu sử 
.xA2 Tác phẩm sưu tập. Theo ngày 
.xA25 Các tác phẩm được chọn. Lựa 
chọn. Theo ngày. Kể cả trích dẫn 
.xA3 Tự truyện, nhật ký, v.v Theo ngày 
.XA4 Bức thư. Theo ngày 
.xA5 Bài phát biểu, bài tiểu luận và bài 
giảng. Theo ngày. Kể cả phỏng vấn 
.xA6-Z Cá nhân và tiểu sử phê bình. 
Theo mục nhập chính. Bao gồm cả những 
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
43THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
lời chỉ trích của các tác phẩm được lựa 
chọn, tự truyện, trích dẫn, thư từ, bài phát 
biểu, và phỏng vấn, v.v [8].
Bảng dịch
.x Tác phẩm gốc
.x125 Bản dịch tiếng Ả Rập
.x127 Bản dịch tiếng Trung
.x13 Bản dịch tiếng Anh
.x14 Bản dịch tiếng Pháp
.x15 Bản dịch tiếng Đức
.x154 Bản dịch tiếng Hebrew
.x16 Bản dịch tiếng Ý
.x163 Bản dịch tiếng Nhật
.x164 Bản dịch tiếng Hàn
.x167 Bản dịch tiếng Bồ Đào Nha
.x17 Bản dịch tiếng Nga
.x18 Bản dịch tiếng Tây Ban Nha
.x19 Bản dịch tiếng Việt
Bảng địa lý
Việt Nam: V5
Lào: L28
Mỹ: A45
Spain: S7
Japan: J3
[7].
Mục lục (index): là những chỉ mục chi 
tiết kèm theo mỗi bảng ở mặt sau của 
phiên bản in. Mục này bao gồm chỉ mục 
tham khảo một số LCC cụ thể trong bảng 
chính đó. Hiện nay, chỉ mục không được 
thiết kế trên các bảng in, được phát triển 
trong phiên bản trực tuyến, truy cập hoặc 
duyệt thông qua classification Web.
Ký hiệu: LCC là chuỗi các ký tự chuẩn 
cho lớp chính, phân lớp, đơn vị và cá nhân. 
LCC sử dụng ký hiệu chữ của La Mã bằng 
cách viết hoa chữ cái, sau đó sử dụng hỗn 
hợp số Ả-rập và dấu chấm (.) để xây dựng 
ký hiệu phân loại. Một ký tự duy nhất biểu 
thị một lớp chính và hầu hết các lớp con 
được chỉ định bởi hai chữ cái. Sự kết hợp 
ba chữ cái ... hân loại này có hai số Cutter. Số 
Cutter đầu tiên là số thu hẹp chủ đề; trong 
trường hợp này .M7 là viết tắt của 
Mississippi (chủ đề địa lý). Số Cutter thứ 
hai trên nhãn này, I5, đại diện cho sách, 
tác giả. Cả hai đều đọc giống như các ví dụ 
về số Cutter ở trên.
Một số ký hiệu khác ở cuối nhãn sách
AE
5
.E333
2004
V.1
Kết thúc ký hiệu xếp giá có thể là chữ 
cái hoặc số chỉ định thứ tự của cuốn sách 
trong một quyển, tập hoặc một số. Chúng 
được đọc theo số (v.1, v.2, v.3, ...) hoặc theo 
thứ tự bảng chữ cái (ser.A, ser.B, ...). Một 
số ví dụ phổ biến là:
v.1 Tập 193
v.193(1998) Tập 193, năm 1998
v.37, no.2 Tập 37, số 2
no.305 Số 305
ser.B Dòng B
suppl Phần bổ sung
Số phân loại cũng có thể kết thúc bằng 
một số ký hiệu (c.2, c.3...). Điều này được 
sử dụng để chỉ nhiều bản sao đối với sách 
ngoại văn.
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
45THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
2.3.6. Mã hóa trong MARC21
Trong biểu mẫu MARC 21 cho dữ liệu 
thư mục tại Thư viện Quốc hội, số phân loại 
xuất hiện trong trường 050. 
050 00 $ a PK2031 $ b .J56 1993 
050 14 $ a JQ229.A8 $ b F67 2009 
Chỉ thị thứ nhất - Tồn tại trong bộ sưu 
tập LC 
# (khoảng trống) - Không cung cấp 
thông tin (đã sử dụng khi một số phân loại 
được chỉ định bởi tổ chức khác ngoài LC); 
0 - Mục trong LC; 1 - Mục không có trong LC 
Chỉ thị thứ hai - Nguồn phân loại
0 - Được tạo bởi LC; 4 - Được tạo bởi cơ 
quan không phải là LC 
Mã trường con $ a - Số phân loại $ b - Số 
Cutter. Trường con $ a có thể được lặp lại 
để ghi số lớp thay thế. Các trường con khác 
được định nghĩa trong định dạng MARC 21, 
viz, $ 3, $ 6, và $ 8, nhưng thường không 
được sử dụng trong mục lục chung. Ngoài 
ra, trường 090 có thể được sử dụng trong 
MARC, được mã hóa trong OCLC cho các 
số phân loại LC được chỉ định cục bộ nơi cả 
hai chỉ thị đều trống.
2.3.7. Công cụ hỗ trợ LCC 
LCC được xuất bản dưới dạng in, điện tử 
và công cụ hỗ trợ giúp cho việc ứng dụng 
phân loại trong thực tế trở nên dễ dàng. 
Các công cụ đó bao gồm: Bảng in, Supper 
LCCS, Classification Web, Classification 
and Shelflisting Manual (CSM), Cataloging 
Calculator.
Bảng in: Sau nhiều lần chỉnh sửa, hiện 
nay LCC chính thức có 41 ấn bản được 
xuất bản, từ năm 2013, Thư viện Quốc hội 
đã ngưng không xuất bản ẩn phẩm dưới 
dạng in mà thay vào đó cung cấp miễn phí 
trên website của Thư viện. Các bản cập 
nhật, thay đổi hay bổ sung được thông 
tin trực tiếp trên website www.loc.org một 
cách nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, nếu 
người sử dụng có nhu cầu sở hữu bản in 
có thể mua tại Thư viện thông qua bộ phận 
“Dịch vụ phân phối biên mục” (DCS).
Supper LCCS là một ấn phẩm in do 
Thompson Gale phát hành hàng năm, 
được kết hợp từng bảng phân loại, cập 
nhật tất cả những bổ sung, thay đổi và xóa 
các thông tin trước đó theo từng quý, từng 
năm. Hiện nay, ấn bản này đã được xuất 
bản trên vi phiếu. 
ClassificationWeb (Web phân loại) 
là một dịch vụ cung cấp World Wide Web 
(www.classificationweb.net) để truy cập 
vào khung phân loại LCC và đề mục chủ 
đề LCSH. Dịch vụ bao gồm tính năng bổ 
sung, nâng cao, nâng cấp phần mềm 
và tập tin dữ liệu mới, có thể được đưa 
vào Web phân loại. Dịch vụ cũng bao gồm 
các tham chiếu giữa khung phân loại DDC 
và LCC, bằng cách kết hợp số phân loại 
thập phân Dewey được tìm thấy trong hồ 
sơ thư mục của Thư viện Quốc hội với số 
phân loại LCC tương ứng và đề mục chủ 
đề tương quan.
Classification and Shelflisting Manual 
(CSM): Đây là một cuốn sổ tay hướng dẫn 
thực hành khung phân loại LCC và sắp 
xếp tài liệu trên kệ. Hiện nay, Thư viện cho 
phép truy cập miễn phí đến bảng hướng 
dẫn chi tiết trên website.
Cataloger's Desktop là một hệ thống 
tài liệu hướng dẫn tích hợp, trực tuyến với 
gần 300 nguồn biên mục và siêu dữ liệu 
quan trọng, luôn có sẵn 24/7. Cho phép 
tiếp cận tài nguyên mô tả và đặc biệt là truy 
cập RDA và AACR2. Cataloger's Desktop 
là hộp công cụ tích hợp tính năng biên mục 
bao gồm các chức năng sau: Kỹ thuật tìm 
kiếm thông minh và khám phá thông tin; 
Giao diện tùy chỉnh; Tổ chức nguồn tài 
nguyên thông tin. Có thể truy cập tại http://
www.loc.gov/cds/desktop/.
Cataloging Calculator là một ứng 
dụng trên website, cho phép truy cập các 
hướng dẫn đối với quy tắc mô tả AACR2, 
RDA, Marc 21, LCSH, theo hướng dẫn chi 
tiết từ OCLC và LC. Ngoài ra, Cataloging 
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
46 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
Calculator còn hỗ trợ người biên mục tạo 
số Cutter trực tuyến với LC Cutter (số 
thư viện Quốc hội), Geog. Cutter (Cutter 
địa lý), Geog. Area Codes (Cutter địa lý 
theo khu vực), Country Codes (Mã nước), 
Language Codes (Mã ngôn ngữ) với nhiều 
tùy chọn đa dạng, phong phú.
3. Đánh giá khung phân loại LCC
Cũng giống như bất kỳ một khung phân 
loại nào LCC cũng có những thế mạnh và 
hạn chế. Dưới đây là tổng hợp một số đánh 
giá và thảo luận về thế mạnh và hạn chế 
của LCC.
3.1. Ưu điểm của LCC
1. LCC có đặc tính liệt kê rất cao, bằng 
cách liệt kê tất cả đối tượng trong quá khứ, 
hiện tại và tương lai. Do số lớp LCC có ít 
chủ đề tổng quát vì thế rất dễ sử dụng. 
Điều này thật sự rất hữu ích để phân loại 
tài nguyên trong thư viện lớn, có bộ sưu 
tập toàn diện trên tất cả các chủ đề hoặc 
thư viện chuyên ngành có chủ đề hẹp và ít 
hơn, vì nó tạo điều kiện để phân lớp trở nên 
đa dạng cho một loạt các chủ đề nhỏ hơn.
2. Khung LCC được xây dựng, sửa đổi 
và duy trì bởi các chuyên gia chủ đề với 
xuất phát điểm là kho tài nguyên có sẵn 
trong thư viện, chứ không xây dựng từ tri 
thức tổng hợp, vì thế các lớp cụ thể đều 
mang một đặc trưng riêng biệt mà các lớp 
khác không thể có.
3. LCC sửa đổi, cập nhật liên tục đối 
với lớp, phân lớp. Web phân loại cập nhật 
hàng ngày những thay đổi, bổ sung từ các 
chuyên gia phân loại khi có quyết định từ 
ban biên tập LCC.
4. Thư viện Quốc hội thường xuyên 
giới thiệu LCC đến đối tác của thư viện, 
điều này mang đến cơ hội hợp tác, chia sẻ 
nguồn thông tin rộng rãi trên toàn thế giới 
bằng tất cả các ngôn ngữ. Hiện nay, Thư 
viện Quốc hội đã có 6 văn phòng, 2 dự án 
ở 5 châu lục. Đồng thời thiết lập “Chương 
trình hợp tác kiểm soát chủ đề” (SACO) [4], 
cho phép Thư viện thành viện đóng góp đề 
mục chủ đề (LCSH) và số phân loại (LCC) 
vào thư viện Quốc hội.
5. LCC đã có công cụ Web phân loại hỗ 
trợ thông qua tính năng, đặc điểm như: tìm 
kiếm nâng cao, tuỳ chỉnh, kết hợp giờ đây 
việc xây dựng số phân loại trong LCC được 
thực hiện dễ dàng. 
6. Ký hiệu LCC cho các lớp tương đối 
ngắn gọn, nhất là khi so sánh với khung 
phân loại khác, chẳng hạn như DDC.
7. Ký hiệu LCC rất thân thiện và mở 
rộng. Các lớp mới, phân lớp, đơn vị và chủ 
đề có thể được thêm mới thuận tiện mà 
không cần yêu cầu sửa đổi hàng loạt.
8. LCC cho phép phân loại tài liệu với 
số Cutter, mở rộng số thập phân và thêm 
ngày công bố, yếu tố bổ sung của tài liệu 
(tập, quyển, số, dòng, bản sao).
9. Cẩm nang hướng dẫn phân loại và 
sắp xếp tài liệu (CSM) cung cấp lý thuyết 
toàn diện và hướng dẫn làm thế nào để 
sử dụng LCC, hoàn toàn miễn phí trên 
Internet.
10. Số LCC có sẵn để sao chép mục 
lục biên mục từ thư viện Quốc hội thông 
qua truy cập trực tuyến và nhiều bản ghi từ 
OCLC WorldCat (Mạng thư tịch toàn cầu).
11. Việc áp dụng số LCC được đưa ra 
tại Thư viện Quốc hội là phù hợp với hầu 
hết các bộ sưu tập trong thư viện khác. Một 
nghiên cứu về tính nhất quán của LCC đưa 
ra kết luận rằng, bất cứ một thư viện nào có 
hệ thống tiêu đề, đề mục thì xác suất của 
tiêu đề, đề mục đó có cùng số lớp trên LCC 
đạt tỷ lệ trên 85% [3].
12. LCC luôn có sự hỗ trợ của nguồn 
tài nguyên thông tin khổng lồ của Thư viện 
Quốc hội, vì thế LCC luôn đảm bảo độ tin 
cậy, là công cụ hữu ích để sử dụng trong 
tương lai một cách rộng rãi hơn.
3.2. Nhược điểm của LCC
1. LCC thiếu tính nhất quán: các bảng 
được phát triển và duy trì bởi các chuyên 
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
47THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
gia khác nhau, mỗi chuyên gia phụ trách 
về một chủ đề tương ứng, vì thế thiếu đi 
sự nhất quán, nhưng điều này cũng có thể 
được xem như là một lợi thế vì nó cho phép 
mỗi bảng được phát triển theo cấu trúc độc 
đáo.
2. LCC không có chỉ số tổng thể: điều 
này chỉ đúng cho định dạng in của khung, 
phiên bản trực tuyến bao gồm các chỉ số 
thống nhất.
3. Phạm vi ghi chú của LCC ít mô tả: ít 
hơn yêu cầu do số lượng đối tượng được 
liệt kê quá lớn. 
4. Có đánh giá cho rằng, LCC dựa trên 
"Literacy warrant", phát triển từ các bộ sưu 
tập của Thư viện Quốc hội, phản ánh tính 
quốc gia, cục bộ. Tuy nhiên, điều này đang 
được khắc phục và ngày càng trở nên tốt 
hơn (xem ưu điểm thứ 4 trong "Ưu điểm 
của LCC").
5. LCC có ít tài liệu hướng dẫn cho việc 
phân tích các đối tượng: điều này không có 
ảnh hưởng với ấn bản hướng dẫn phân loại 
thống nhất và hướng dẫn sắp xếp trong 
công cụ Cataloger's Desktop.
6. LCC quá đồ sộ đối với người phân loại 
để hoàn toàn làm chủ nó và thường chậm 
thay đổi khi có những cái mới trong thực tế: 
sự hạn chế này không còn khi Web phân 
loại ra đời, việc cập nhật mới hằng ngày trở 
nên dễ dàng, kèm theo đó là chức năng tìm 
kiếm nâng cao, cho phép người phân loại 
hoàn toàn kiểm soát việc biên mục.
7. Đối với chủ đề phức tạp, đa chức năng 
rất khó phân loại: tất cả các kế hoạch phân 
loại phải đối mặt với vấn đề này. Một cuốn 
sách được phân loại cho mục đích xếp giá, 
số phân loại duy nhất phải dựa trên chủ đề 
nổi bật của cuốn sách, nhưng trong trường 
hợp tài liệu điện tử nhiều số phân loại có 
thể được cung cấp cho mỗi chủ đề quan 
trọng có trong tài liệu, điều này tạo ra nhiều 
kết quả để truy cập dữ liệu hiệu quả hơn.
8. Việc sửa đổi khung đòi hỏi các quyết 
định tái phân loại (phân loại lại): ví dụ, số 
lượng sách về tôn giáo (Phật giáo) tăng, 
đòi hỏi người phân loại phải phân loại lại 
chủ đề này bằng cách xóa khỏi phân lớp 
BL và đưa về phân lớp mới BQ).
9. Một số phần của LCC đã lỗi thời và 
phản ánh thế giới trong thế kỷ 19, đầu thế 
kỷ 20: điều này đôi khi cần thiết để duy trì 
tính ổn định của hệ thống và giảm thiểu 
nhu cầu phân loại lại.
10. Chi phí in ấn khung và đăng ký 
phiên bản trực tuyến là quá lớn: hiện nay 
Thư viện Quốc hội đã cung cấp sẵn khung 
LCC miễn phí như tệp PDF tải về cùng với 
tài liệu hướng dẫn miễn phí cho việc phân 
loại trên trang web của thư viện.
11. LCC hạn chế trong việc liệt kê các 
chủ đề, sự phân chia không đồng đều 
giữa các lớp và thiếu một mục lục hoàn 
chỉnh cho toàn bộ khung phân loại: hạn 
chế trong việc liệt kê đã không còn đúng, 
xem “Ưu điểm 1 của LCC” - sự phân chia 
không đồng đều giữa các lớp giờ đây đã 
được cải thiện hằng ngày qua Web phân 
loại vì LC đã tiếp nhận chủ đề mới thông 
qua hệ thống trên toàn thế giới, như OCLC 
và hơn 1.300 đối tác. Việc thiếu mục lục 
hoàn chỉnh cho toàn bộ các lớp của LCC 
chỉ còn đúng đối với các bảng in, chúng 
hoàn toàn vô nghĩa đối với phiên bản trực 
tuyến, đặc biệt đối với Web phân loại [1].
Kết luận
LCC là khung phân loại được thiết lập dựa 
trên bộ sưu tập của Thư viện Quốc hội, được 
sử dụng nhiều trong thư viện các trường đại 
học nổi tiếng ở Hoa Kỳ và nhiều nước khác 
trên thế giới. Theo thống kê từ website Thư 
viện Quốc hội đã có hơn 1300 thư viện, 
cơ quan thông tin sử dụng khung phân 
loại LCC và trao đổi biểu ghi thư mục Thư 
viện Quốc hội thông qua cổng Z39.50 [5]. 
Trong quá trình hình thành và phát triển, 
từ một công cụ định vị tài liệu trong các 
kho của Thư viện đã trở thành công cụ 
cho phép duyệt tìm qua các danh mục trực 
NGHIỆP VỤ - KỸ THUẬT
48 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 3/2018
tuyến, tổ chức nguồn lực và cung cấp truy 
cập điện tử vào mạng lưới thông tin. Vai trò 
của LCC ngày càng quan trọng, hữu ích và 
cần được khai thác trong môi trường hiện 
tại như:
- LCC là phương tiện để tổ chức tài 
nguyên trên web, có thể hỗ trợ tìm kiếm, 
giới hạn hoặc mở rộng kết quả tìm kiếm.
- LCC cho phép liên kết dữ liệu trong 
các bảng dựa trên Web phân loại, qua đó 
tiến hành tổ chức, sắp xếp hiệu quả tài 
nguyên trên thư viện số đối với từng lĩnh 
vực chuyên ngành cụ thể. Việc kết hợp 
LCC và Web Phân loại là một điều tuyệt 
vời để trở thành một công cụ trong việc tổ 
chức, quản lý và thu thập thông tin.
Với những phân tích ở trên, LCC là 
một công cụ hữu ích dành cho tất cả các 
thư viện, đặc biệt đối với thư viện chuyên 
ngành, bởi LCC dễ sử dụng, có hướng dẫn 
chi tiết, miễn phí trên Internet và nhiều công 
cụ hỗ trợ. Cán bộ phân loại có thể nhận 
thấy rằng, thư viện của Nhạc viện, Đại học 
Mỹ thuật, Kiến trúc có thể dùng bảng (N – 
Nghệ thuật), Viện Ngôn ngữ, Viện Văn học 
(bảng P – Ngôn ngữ - Văn học), Đại học Y 
dược (bảng R – Y học), Đại học Luật (bảng 
K – Pháp luật) kết hợp với các bảng khoa 
học phụ trợ khác tạo nên một hệ thống kho 
hoàn chỉnh. Với một chuyên ngành cụ thể, 
LCC sẽ là công cụ thiết thực trong việc tổ 
chức, sắp xếp nguồn tài nguyên trong các 
thư viện chuyên ngành tại Việt Nam. Hiện 
nay, Việt Nam có 2 đơn vị áp dụng khung 
LCC vào phân loại tài liệu: Đại học Bách 
khoa Hà Nội là thư viện đi đầu trong việc 
áp dụng LCC năm 2005, tiếp đó là Đại học 
Luật Tp. Hồ Chí Minh (2011). Các trường 
đại học chuyên ngành thư viện cũng bắt 
đầu đưa LCC vào chương trình giảng dạy 
chính khóa, tiêu biểu có Khoa Thư viện-Văn 
phòng, Trường Đại học Sài Gòn [2] chính 
thức đưa vào giảng dạy năm 2009-2010, 
các trường khác cũng bắt đầu giới thiệu về 
LCC trong bài giảng chuyên đề phân loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Thúy Quỳnh. So sánh khung phân 
loại Thư viện Quốc hội Mỹ (LCC) và khung 
phân loại thập phân Dewey (DDC), truy cập 
tại, 
vien-quoc-hoi-my-lcc-va-khung-phan-loai-thap-phan-
dewey-ddc-1516-vi.htm (ngày 1/12/2017)
2. Nguyễn Minh Hiệp (2011). Giới thiệu 
khung phân loại LCC, Tạp chí Thư viện Việt 
Nam số 2 (28) - 2011 (tr. 36-41)
3. Salman Haider and RK Sharma 
(2017). Library of Congress Classification 
(LCC): past, present and its future in the digital 
era, Annals of Library and Information Studies, 
vol 64, September 2017, pp. 190-201
4. Library of Congress. About the SACO 
program, truy cập tại 
saco/about.html(ngày 01/12/2017)
5. Library of Congress. Gateway to library 
Catalogs, truy cập tại https://www.loc.gov/z3950/
gateway.html(ngày 01/12/2017)
6. Library of Congress, Library of 
Congress Classification and Shelflisting 
Manual, G150, truy cập tại https://www.loc.
gov/aba/publications/FreeCSM/freecsm.html (ngày 
01/12/2017)
7. Library of Congress. Library of 
Congress Classification and Shelflisting 
Manual, G300, truy cập tại https://www.loc.
gov/aba/publications/FreeCSM/freecsm.html(ngày 
01/12/2017)
8. Library of Congress. Library of 
Congress Classification and Shelflisting 
Manual, G320, truy cập tại https://www.loc.
gov/aba/publications/FreeCSM/freecsm.html(ngày 
01/12/2017)
9. Library of Congress. The Library of 
Congress, 1800-1992, truy cập tại 
loc.gov/loc/legacy/loc.html(ngày 01/12/2017)
10. Miksa, Francis. The LCC, truy cập tại 
https://www.ischool.utexas.edu/~l384k3fm/Franm/
CatIEs- c09-p1-29-020306.pdf (ngày 01/12/2017)
11. University of Mississippi Library. 
Library of Congress Classification Guide, truy 
cập tại 
pdf(ngày 01/12/2017)

File đính kèm:

  • pdfgioi_thieu_khung_phan_loai_thu_vien_quoc_hoi_my.pdf