Giáo trình Tiếng Việt 8 (Cách biểu đạt ngôn ngữ) - Phần 1

Dùng chung tên gọi các bậc học với hệ thống giáo dục đương thời, nhóm

Cánh Buồm chỉ thay đổi cách học sao cho tự thân từng học sinh có thể đến với

những điều cao hơn, xa hơn, và dễ tự học hơn so với một nền giáo dục lấy bục

giảng làm trung tâm. Nhiệm vụ bậc học, cũng là mục tiêu trông chờ ở cuối bậc

Phổ thông cơ sở Cánh Buồm là một nền tảng trí tuệ làm hành trang vào đời cho

toàn thể thanh thiếu niên – (a) một phương pháp học đúng đắn; (b) một tư duy

mạch lạc; và (c) một năng lực hành dụng.

pdf 73 trang thom 06/01/2024 3060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tiếng Việt 8 (Cách biểu đạt ngôn ngữ) - Phần 1", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Tiếng Việt 8 (Cách biểu đạt ngôn ngữ) - Phần 1

Giáo trình Tiếng Việt 8 (Cách biểu đạt ngôn ngữ) - Phần 1
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
3Bậc phổ thông cơ sở, như tên gọi, là bậc tạo nền 
tảng trí tuệ cho toàn thể trẻ em – sau chín năm 
học, một trí tuệ nền tảng gồm có (a) một phương 
pháp học đúng đắn; (b) một tư duy mạch lạc; và 
(c) một năng lực hành dụng – hành trang và đạo 
lý vào đời của người thiếu niên 15–16 tuổi. 
Tiếng Việt 8
CÁCH BIỂU ĐẠT NGÔN NGỮ
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
4TIẾNG VIỆT 8
© Nhóm Cánh Buồm, 2016
Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ. Mọi hình thức xuất bản,
sao chụp, phân phối dưới dạng in ấn hoặc văn bản điện tử không có
sự cho phép của Nhóm Cánh Buồm là vi phạm bản quyền.
Email: lienhe@canhbuom.edu.vn | Website: www.canhbuom.edu.vn
BIÊN SOẠN:
Bài mở đầu:
PHẦN 1
Bài nhập:
Bài 1:
Bài 2:
Bài 3: 
Bài 4:
PHẦN 2
Bài nhập:
Bài 5:
Bài 6:
Bài 7:
PHẦN 3
Bài nhập:
Bài 8:
Bài 9:
Bài 10:
Bài 11:
PHẦN 4
Bài nhập:
Bài 12:
Bài 13:
Bài học cuối năm:
Những cách biểu đạt ngôn ngữ (Phạm Toàn)
NGÔN NGỮ KHOA HỌC
Cách biểu đạt tiếng Việt trong ngôn ngữ khoa học (Lê Thời Tân)
Con gà có trước hay quả trứng có trước (Cao Chi)
Hiện tượng con người của Teilhard de Chardin (Đặng Xuân Thảo)
Lời tựa sách Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim)
Tâm lý ngày Tết (Phạm Quỳnh)
NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
Cách biểu đạt tiếng Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật (Phạm Toàn)
Bách niên giai lão (Đặng Tiến)
Tiếng nói của văn nghệ (Nguyễn Đình Thi) 
Thật là quá đẹp! (Fabienne Brugère - Hoàng Thanh Thủy dịch)
NGÔN NGỮ CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI
Cách biểu đạt tiếng Việt trong ngôn ngữ chính trị–xã hội (Phạm Toàn)
Diễn văn Gettysburg của A. Lincoln (Phạm Anh Tuấn)
Ba bức thư gửi những người yêu chuộng hòa bình (Albert Einstein - Nguyễn Vũ Hảo dịch)
Vấn đề phương Đông và phương Tây (Phạm Quỳnh)
Hiểu biết chung về các thể loại văn bản pháp quy (Phạm Chi Lan)
ĐỂ NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ BIỂU ĐẠT TIẾNG VIỆT
Vài lưu ý để nâng cao trình độ biểu đạt bằng Tiếng Việt (Phạm Toàn)
Một số đặc điểm tâm lý người Việt trong dùng từ và viết câu văn (Hoàng Trọng Phiến)
Viết câu văn như thế nào cho đúng (Nguyễn Hải Hoành)
Tự đánh giá kết quả học tập (Phạm Toàn)
Các tác giả soạn văn bản chính – các bài tập đều do ban Biên tập nhóm Cánh Buồm soạn
Biên tập: Nguyễn Thị Minh Hà, Mạc Văn Trang, Vũ Thế Khôi, Hoàng Hưng, 
Lê Thời Tân, Phạm Toàn
Tổ chức bản thảo: Phạm Toàn, Nguyễn Thị Minh Hà, Lê Thời Tân và Nguyễn Thị Thanh Hải
Đọc bản thảo cuối cùng: Ban biên tập, cùng với Bùi Văn Nam Sơn, Phạm Khiêm Ích, Đặng Tiến, Hoàng 
Trọng Phiến, Nguyễn Hải Hoành, Lê Thời Tân
Chịu trách nhiệm cuối cùng: Nhóm Cánh Buồm 
(Các hình ảnh sử dụng trong sách này được chúng tôi lấy xuống từ Internet.)
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
5Bộ sách Phổ thông cơ sở Cánh Buồm
Dùng chung tên gọi các bậc học với hệ thống giáo dục đương thời, nhóm 
Cánh Buồm chỉ thay đổi cách học sao cho tự thân từng học sinh có thể đến với 
những điều cao hơn, xa hơn, và dễ tự học hơn so với một nền giáo dục lấy bục 
giảng làm trung tâm. Nhiệm vụ bậc học, cũng là mục tiêu trông chờ ở cuối bậc 
Phổ thông cơ sở Cánh Buồm là một nền tảng trí tuệ làm hành trang vào đời cho 
toàn thể thanh thiếu niên – (a) một phương pháp học đúng đắn; (b) một tư duy 
mạch lạc; và (c) một năng lực hành dụng. 
Bậc Phổ thông cơ sở chín năm là một thể thống nhất, chia ra hai giai đoạn 
với nhiệm vụ khác nhau nhưng nối tiếp nhau và đã được thể hiện trong sách 
Văn và sách Tiếng Việt Cánh Buồm:
• Giai đoạn Tiểu học Cánh Buồm năm năm có nhiệm vụ rèn luyện 
phương pháp học mà mục tiêu là sở hữu cách tự học; 
• Giai đoạn Trung học cơ sở Cánh Buồm bốn năm có nhiệm vụ giúp các 
em dùng phương pháp học đã có để tự tìm đến các tri thức cần thiết;
Từ đó có thể suy ra: nhiệm vụ của bậc Phổ thông trung học là tập nghiên 
cứu để chuẩn bị cho cách tập độc lập nghiên cứu ở bậc Đại học (và cách độc lập 
nghiên cứu ở bậc sau Đại học).
Đi theo định nghĩa trên, bộ sách Tiểu học Cánh Buồm (đột phá với hai 
môn Tiếng Việt và Văn) thể hiện rõ tính chất tập tự học. Đến bộ sách Trung học 
cơ sở Cánh Buồm này, hoạt động học được tập trung vào hành động tự học. Việc 
học tiến hành bằng tự nghiên cứu, trao đổi nhóm, viết tiểu luận, hội thảo khoa 
học, xuất bản kỷ yếu xem như công trình tự đánh giá của cả lớp, cũng là cái 
mốc tham khảo cho các bạn năm học sau.
Tiếp nối cách học từ bậc Tiểu học Cánh Buồm, người dạy (bao gồm giáo 
viên và những người đỡ đầu trí tuệ khác) sẽ dắt dẫn học sinh đi dần vào con 
đường tự học. Cụ thể là, với mỗi bài học, người dạy vẫn nên hướng dẫn ngắn 
gọn về chủ đề, nội dung và cách học; rồi khi đi vào chi tiết, sau một “câu hỏi 
suy ngẫm”, hoặc sau “lời gợi ý thảo luận”... người dạy cần phải đòi hỏi học sinh 
viết ý tưởng của mình thành đoạn văn năm câu – năng lực đã được rèn từ Lớp 
4 và Lớp 5. 
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
6Sẽ dễ dàng cho học sinh nếu các em được học sách Tiểu học Cánh Buồm 
trước khi dùng sách Trung học cơ sở Cánh Buồm – ít ra cũng phải học hai tập 
sách tự học Tiếng Việt và Văn dành cho các em trên mười tuổi. 
Trong tiến trình giáo dục này, giáo viên có cơ hội đồng hành cùng học sinh 
thân yêu của mình. Theo cách tổ chức học này, uy tín của thầy cô giáo và tình 
nghĩa nhà giáo với học trò sẽ được tạo dựng theo cách khác, dân chủ, cởi mở và 
thẳng thắn.
Mong các bạn thành công.
 Nhóm Cánh Buồm
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
7BÀI MỞ ĐẦU
NHỮNG CÁCH BIỂU ĐẠT NGÔN NGỮ
Hướng dẫn học
Các bạn học sinh Lớp 8 thân mến,
Trong hành trang ngôn ngữ học với tiếng Việt là vật liệu, các bạn đã có 
những gì cho mình sau hai năm học Tiếng Việt Lớp 6 và Tiếng Việt Lớp 7? 
Các bạn đã có ý thức ngôn ngữ học để nâng cao năng lực dùng từ ngữ tiếng 
Việt. Chỉ là dùng từ ngữ thôi à? Đúng thế! Từ ngữ, từ ngữ, và từ ngữ. Ngay cả 
khi học ngữ âm tiếng Việt qua những cách ghi âm (Lớp 6), thực chất việc học 
nội dung đó cũng nhằm nâng cao năng lực dùng từ ngữ vì các bạn có ý thức vì 
sao trong kho từ vựng lại có từ thuần Việt và từ Hán–Việt chẳng hạn. Lên Lớp 
7, việc học ngôn ngữ càng tập trung thêm vào nâng cao năng lực dùng từ ngữ 
tiếng Việt. 
Vì từ ngữ tiếng Việt là địa hạt vô cùng khó khăn, thậm chí khó khăn nhất 
so với các địa hạt khác (ngữ âm, cú pháp, văn bản). Ngay khi đã “đủ trình độ” 
dùng ngôn ngữ như một “công cụ”, thì năng lực dùng từ ngữ vẫn là phần khó 
nhất. So với công cụ con dao chẳng hạn, năng lực dùng từ ngữ giống như cái 
lưỡi dao so với các bộ phận khác của con dao! Chẳng thế mà khi đề cập đến chữ 
nghĩa, nhà thơ Xuân Diệu đã chẳng thốt lên: “Dao có mài mới sắc” (tác phẩm 
cùng tên, Văn học, Hà Nội, 1963). 
Bài mở đầu này tiếp tục giúp các bạn đi tiếp con đường “mài” con dao ngôn 
ngữ qua những cách biểu đạt ngôn ngữ. 
Vẫn dùng vật liệu là những ngôn từ của kho từ vựng tiếng Việt, vẫn dùng 
những vật liệu đó qua những câu và nhữmg cách lập luận thành văn bản nói 
hoặc viết, song cách biểu đạt ngôn ngữ khoa học có khác với ngôn ngữ nghệ 
thuật và có khác với ngôn ngữ chính trị – xã hội. 
Bài mở đầu này giúp các bạn nhận rõ để thực hành những cách biểu đạt 
ngôn ngữ khác nhau đó.
Mời bắt đầu.
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
8Mở đầu
Con người là động vật biết tạo ra và dùng công cụ để bảo đảm cuộc sống của 
mình, nhờ đó mà loài người có được như ngày nay. 
Công cụ không chỉ để lao động như con dao, cái cuốc, cái cày..., cho đến cả 
những công cụ cơ khí, cơ giới khác như chúng ta vẫn thấy trong thời đại chúng 
ta đang sống.
Công cụ của con người còn bao gồm cả hệ thống ngôn ngữ mẹ đẻ, được 
dùng để giúp con người trưởng thành. 
Các bạn hãy chú ý đến đặc điểm hết sức quan trọng này: những công cụ 
lao động đều được làm ra ở bên ngoài con người và chúng được sử dụng như 
những đồ vật nằm bên ngoài con người.
Công cụ ngôn ngữ thì khác. Công cụ này được làm ra từ bên trong con người. 
Bộ não chỉ huy mắt em nhỏ nhìn các đồ vật (và sự vật khác), não chỉ huy tai em 
nhỏ nghe để nhận biết người xung quanh em “gọi tên” các đồ vật và sự vật đó 
ra sao, não chỉ huy tay em nhỏ cầm, nắm, mó máy, sử dụng và cảm nhận đồ vật 
và sự vật (mó máy cả sự vật khó nhận ra như “tình mẹ con”)... Sau nữa, não còn 
chỉ huy việc giao tiếp giữa chủ thể nói năng với người xung quanh để giúp em 
nhỏ “tự đánh giá” năng lực hiểu và gọi đúng tên đồ vật và sự vật. 
Như vậy, hoàn toàn khác với cách làm ra công cụ lao động bằng các vật 
liệu thuần vật chất, công cụ ngôn ngữ được tạo ra vừa là vật chất vừa là tinh 
thần – thực chất là có tính tinh thần, ngoại trừ việc phát âm thì có tính vật 
chất. Nhưng, suy cho cùng, ngay cả phát âm cũng mang tính tinh thần, vì chủ 
thể nói năng phải nói ra cả nhận thức cũng như tình cảm của mình. Nói công 
cụ ngôn ngữ nằm bên trong con người được hiểu như là nó được tạo ra từ những 
mối quan hệ tinh thần không nhìn thấy được bằng mắt thường. 
1. Chức năng ngôn ngữ
Khi đã có công cụ, thì phải biết rõ công cụ đó làm những công việc gì và 
tiến hành công việc như thế nào.
Dựa theo tác giả George Mounin trong tác phẩm Chìa khóa ngôn ngữ học 
(tiếng Pháp Clefs pour la linguistique, 1968) chúng ta nhận thấy công cụ ngôn 
ngữ có những chức năng sau:
a. Chức năng giao tiếp. Con người không “nói cho vui”, không “nói chơi”, 
mà bao giờ cũng nói với người đối thoại với mình. Ngay cả khi bập bẹ học nói, 
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
9thì em nhỏ cũng trông đợi có người trả lời mình. Ngay cả khi chỉ nói thầm một 
mình (nói không thành lời, nói trong đầu, nói trong ý nghĩ riêng của mình) thì 
cũng vẫn có một đối tượng vắng mặt để mình nói với người đó. Nếu xem lại mô 
hình học nói (mục “công cụ ngôn ngữ”) ta thấy chủ thể nói năng A ngay từ khi 
học tiếng nói đầu tiên đã cần đến “đối tác” C giúp mình kiểm tra việc học – mối 
quan hệ sơ khai đó đã mang tính giao tiếp rồi. 
Con người dùng công cụ ngôn ngữ để giao tiếp, qua giao tiếp thì con người 
được học ngôn ngữ, học theo cách tiếp nhận, và còn học trong cả cách biểu đạt 
nữa. Đó là chức năng thứ hai.
b. Chức năng biểu đạt. Khi em nhỏ “nghêu ngao” một mình sau khi bú no 
sữa mẹ, ngay khi chưa biết nói, thì nó đã có nhu cầu biểu đạt – cái nhu cầu nằm 
trong chức năng giao tiếp. Khi em nhỏ vài tháng tuổi đang nghêu ngao, nếu 
được người lớn “hỏi chuyện” (với những “à âu”, với những “con chó của bà”, 
những “cười à... xấu xí thế mà cũng cười à?”, với những lời hát ru hết sức “vô 
lý” kiểu như Ru hời ru hỡi là ru, con cá lù đù có sạn đằng đuôi...), là khi em tiếp tục 
nghêu ngao, dường như em đã biết “trả lời”.
Lớn lên nữa, sau khi đã đi học, con người sẽ còn dùng công cụ ngôn ngữ 
của mình để biểu đạt những điều đã có và cả những điều chưa có (các bạn sẽ 
học ngay ở phần tiếp theo). 
c. Chức năng gọi tên. Ngay từ khi còn rất nhỏ tuổi, các em nhỏ không phải 
chỉ “học lỏm” cóp nhặt từ người xung quanh để làm giàu vốn ngôn ngữ của 
mình – em nhỏ còn cố gắng gọi tên nhiều đồ vật, nhiều sự vật, do đó mà có 
những cách nói sai đem lại những trận cười cho cả nhà. Chính chức năng gọi 
tên này đã giúp cho kho từ vựng của con người càng ngày càng thêm nhiều, 
vừa phong phú và ngày càng tinh tế. 
Sách Tiếng Việt và sách Văn Cánh Buồm đã sử dụng chức năng này để tổ 
chức cho học sinh làm nhiều bài luyện tập khác nhau: đặt lại tên bức tranh, bài 
thơ hoặc bài văn theo ý riêng của em, đặt lại tên một nhân vật theo tính cách 
của nhân vật đó... Chức năng này gắn bó chặt chẽ với chức năng tiếp theo đây: 
mỹ cảm. 
d. Chức năng mỹ cảm. Công cụ ngôn ngữ không chỉ giúp con người tồn tại 
bằng sự thỏa mãn những nhu cầu vật chất tối thiểu. Ngôn ngữ còn có chức 
năng mỹ cảm, chức năng làm đẹp và làm đẹp thêm cuộc sống của con người. 
Khi đó công cụ ngôn ngữ đi vào địa hạt tinh thần của con người, thỏa mãn nhu 
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
10
cầu tinh thần là thứ chỉ riêng con người mới có. Khi chúng ta yêu một bài thơ 
hoặc tự chúng ta làm thơ, khi chúng ta thưởng thức những câu đùa ý nhị, khi 
đó chúng ta đã phát huy chức năng mỹ cảm của ngôn ngữ.
e. Chức năng siêu ngôn ngữ. Chức năng này cho phép ta dùng ngữ pháp của ngôn 
ngữ tự nhiên để mô tả, để hệ thống hóa, để tìm ra quy tắc “ngữ pháp” của nhiều 
dạng hoạt động của con người. Chúng ta sẽ bắt gặp chức năng này trong những nội 
dung như “Ngữ pháp của điệu múa”, “Ngữ pháp nghệ thuật”, “Ngữ pháp của toán 
học”, “Ngữ pháp của logic học”,... thậm chí có thể có cả “Ngữ pháp của thơ”, “Ngữ 
pháp của tiểu thuyết”, v.v... Bạn có nghĩ là chúng ta còn có thể có “Ngữ pháp của 
hành vi người” để giúp con người sống hạnh phúc trong đồng thuận? 
Ngay việc tự đặt tên công cụ ngôn ngữ, khi đó con người đang thực hiện 
chức năng siêu ngôn ngữ mà ta vừa nhắc đến. Cuối cùng, và không thể thiếu, 
đó là chức năng tư duy của công cụ ngôn ngữ. 
f. Chức năng tư duy. Con người tư duy bằng ngôn ngữ, và công cụ ngôn ngữ 
của con người lại giúp vào việc làm hình thành và củng cố tư duy của con người. 
Sách Tiếng Việt Lớp 9 Cánh Buồm sẽ cùng các bạn học kỹ vào chức năng 
ngôn ngữ đối với tư duy người, đi sâu vào các địa hạt của tư duy người. Khi đó, 
học sâu vào ngôn ngữ và tư duy người sẽ “gói gọn” ở đỉnh cao quá trình học 
ngôn ngữ tiếng Việt của các bạn, với mục đích giúp các bạn vào đời với một 
hành trang ngôn ngữ không còn mang tính chất “kinh nghiệm chủ nghĩa” như 
cách học ngôn ngữ những năm đầu đời nữa. 
Trong phạm vi bài này, chúng ta giới hạn tư duy như là “cách nhận ra vấn 
đề phải giải quyết và cách giải quyết vấn đề được đặt ra”. 
Chức năng tư duy đó quy tụ các chức năng khác của ngôn ngữ và thể 
hiện thành những biểu đạt bằng công cụ ngôn ngữ đối với các vấn đề đặt ra 
cho con người.
2. Những cách biểu đạt ngôn ngữ
Trong cuộc sống, con người bắt gặp vô số vấn đề phải giải quyết. Đối với 
từng vấn đề, các bạn đều phải huy động công cụ ngôn ngữ để xử lý. Mỗi vấn đề 
đó có đặc điểm riêng trong cách biểu đạt. Về đại thể, chúng ta sẽ bắt gặp những 
cách biểu đạt đời thường, cách biểu đạt ngôn ngữ khoa học, cách biểu đạt ngôn 
ngữ nghệ thuật, cách biểu đạt ngôn ngữ chính trị – xã hội, pháp lý.
Mời các bạn xem xét từng cách biểu đạt đó.
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
11
2.1. Cách biểu đạt ngôn ngữ đời thường 
Ngôn ngữ đời thường mang tính cá nhân. Mọi người dù cùng nói chung 
một tiếng nói (tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Thái, tiếng Hoa... ) nhưng lời nói lại là 
sản phẩm của mỗi cá nhân – sản phẩm của những chủ thể nói năng. Khó có luật 
chung cho từng người. Nếu có luật chung nhất, có lẽ chỉ có thể là lời khuyên 
như sau: hãy biểu đạt ngôn ngữ đời thường sao cho rõ lời rõ ý. 
Tùy theo từng thói quen ứng xử văn hóa tại những nơi chốn khác nhau 
trong những hoàn cảnh khác nhau (gia đình, nhóm bạn bè, nhóm công việc, 
vùng miền...) mà cách biểu đạt lời nói có thể khác nhau. Chuẩn mực chung của 
người Việt là: đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục. Nói sao cho hợp với khung 
cảnh thì chắc là đúng với lời khuyên này.
Lời nói đời thường của ai cũng có thể tùy lúc tùy nơi bị coi là quê mùa, 
hoặc nhận được thái độ thiếu thông cảm. Khi đó ta cũng chớ nên mếch lòng, 
cáu giận – một sự nhịn là chín sự lành. 
Cần đặc biệt tránh nhạo báng tiếng nói của người khác, và tránh nói năng 
thô lỗ với người khác (văng tục không thể đồng nghĩa với giản dị, dân dã). 
Chuẩn mực chung nữa cần ghi nhớ trong cách biểu đạt ngôn ng ... nhiều. Câu nói thường thôi, đúng thôi nhưng 
phát xuất từ tác giả Con người trần trụi (L’Homme nu, 1971), thì lời hóm hỉnh 
mang một thoáng u hoài cảm động.
Tiểu sử và sự nghiệp ông, nhiều người đã biết, tài liệu nơi nơi đã ghi. 
Mùa xuân năm nay 2008, nhà xuất bản Gallimard, Paris, ấn hành tuyển tập 
Claude Levi–Strauss, trong tủ sách quý La Pléiade, được giới học thuật chào 
mừng như một sự cố, vì nhà xuất bản này chỉ in sách văn chương, mà Levi–
Strauss lại chuyên biên khảo về dân tộc học – ngoại trừ hồi ký Nhiệt đới buồn 
thiu, Tristes Tropiques, 1955, lúc xuất bản được đề bạt lĩnh giải văn chương 
Goncourt, nhưng không được, vì không phải là tác phẩm giả tưởng... Nhà 
xuất bản Gallimard, rất kinh viện, khi chọn in tác phẩm Levi–Strauss trong 
bộ La Pléiade văn học, thì đã mặc nhiên thừa nhận sách ông là tác phẩm văn 
chương, và ông là nhà văn, bên cạnh nhà nghiên cứu. Cũng như ông nhiều lần 
thừa nhận thầy mình, trong ngành dân tộc học, là những nhà văn Montaigne, 
Balzac và Rousseau, nhất là Rousseau. Và đồng nghiệp tương tác và tương 
đắc của mình, không thuộc đồng khoa dân tộc học, mà là nhà ngôn ngữ học 
Roman Jakobson.
Giá trị văn học trong tác phẩm Levi–Strauss trước đây đã nhiều người thừa 
nhận. Nhưng quyết định của nhà Gallimard vẫn là một khai mở dứt khoát. Nhờ 
đó tôi, với tư cách nhà văn, hôm nay có thể an tâm viết về Levi–Strauss, một 
bậc thầy về mặt trí thức. Mà cũng là bậc thầy về văn học.
Sách Levi–Strauss chuyên môn, uyên bác nhưng không phải bài nào cũng 
khó đọc. Người đọc trung bình, lướt qua vài ba trang, vẫn có thể biết thêm, học 
thêm được cái gì đó. Nhà văn Nguyễn Tuân nổi tiếng về những bình luận việc ăn 
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
69
uống, trên giá sách tại Hà nội, có cuốn Sống và chín (Le Cru et le Cuit, 1964) của 
Levi–Strauss, dày cộm, tôi nhìn vào chăm chú. Ông giải thích sách đẹp, bày cho 
đẹp, thỉnh thoảng chỉ đọc dăm trang (1979). Theo gương ông, tôi cũng lật lật cuốn 
nọ cuốn kia, và học được nhiều chuyện: hiểu thêm về từ “cậu” trong tiếng Việt 
khi đọc Nhân chủng học cấu trúc (Anthropologie structurale, 1958), về từ “anh, 
em” khi đọc Cấu trúc sơ đẳng trong quan hệ họ hàng (Les Structures élémentaires 
de la parenté, 1949, 1967). Đọc Hình thái học truyện cổ, (Morphologie du conte, 
1958) của Propp, nhiều điểm không hiểu, tôi đọc lời giới thiệu trong Nhân chủng 
học cấu trúc 2, (1973) của Levi–Strauss, thì hiểu ngay.
Học mót, lắm khi vỡ lẽ, chợt sáng mắt sáng lòng.
Là người hàm ân Claude Levi–Strauss, để chúc mừng ngày sinh nhật 
ông, tôi mạn phép công bố một bài viết đã lâu, nhằm giới thiệu tác phẩm 
Nhìn nghe đọc (Regarder Ecouter Lire1, 1993) được ông xem như là tác phẩm 
út oi – chữ của Nguyễn Tuân. Từ ấy đến nay, quả là ông không có sách khác, 
và tiểu luận này được chọn vào cuối tuyển tập La Pleiade của Gallimard 
tháng 5–2008.
Claude Levi–Strauss là một trong vài người khai sáng trào lưu cấu trúc 
luận đã gây ảnh hưởng sâu và rộng trong những khoa học nhân văn, xã hội thế 
giới năm mươi năm gần đây. Tại Việt Nam, đã có nhiều người giới thiệu như 
Nguyễn Văn Trung ở miền Nam2, Hoàng Trinh ở miền Bắc3 thời kỳ đất nước 
còn bị phân chia. Hoàn cảnh đất nước thời điểm ấy (trước sau 1970, thời hòa 
hội Paris) chưa cho phép giới nghiên cứu Việt Nam tiếp thu đầy đủ, công bình 
những thành tựu của khoa học nhân văn phương Tây. Ngày nay, trào lưu cấu 
trúc đã đi qua, có lẽ chúng ta cũng nên kiểm điểm lại một cách khách quan 
những thành tựu xem còn gì có thể tiếp thu hay thừa kế nhân đọc lại tác phẩm 
mới của Levi–Strauss.
* * *
1 Claude Levi–Strauss, Nhà xuất bản Plon, Paris, 1993.
2 Nguyễn Văn Trung: “Tìm hiểu cơ cấu luận như một phương pháp, một triết thuyết và đặt vấn đề 
tiếp thu”. Tạp chí Bách Khoa thời đại, Sài Gòn, số 293 ngày 15–3–1969 (và nhiều bài khác).
3 Hoàng Trinh: “Bước đầu phê phán chủ nghĩa cấu trúc trong phê bình văn học”, Tạp chí Văn học, 
Hà Nội, số 3 (135) tháng 5 và 6–1972. Lê Sơn: “Văn học Liên Xô phê phán chủ nghĩa cấu trúc 
trong phê bình văn học”, Hà Nội, số 5 (137) tháng 9–10 năm 1972 và một số bài khác.
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
70
 Nhìn nghe đọc dưới hai trăm trang thân chữ lớn là tác ph ẩm ngắn, dễ đọc 
nhất của tác giả, một tiểu phẩm so với sự nghiệp của ông. Một loại mạn đàm 
nghệ thuật hoặc tùy bút hiểu theo nghĩa Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, 
vì tác giả viết tùy hứng nhưng vẫn theo dụng ý truyền đạt phương pháp luận, 
kinh nghiệm tri thức. Tựa đề gồm ba động từ Nhìn nghe đọc báo hiệu nội dung 
tác phẩm, những suy tư của tác giả khi nhìn hội họa, nghe âm nhạc và đọc sách 
cổ kim, song song với thao tác nghiên cứu, lập thuyết trong địa hạt dân tộc học 
chuyên môn của mình. Tác phẩm phản ánh một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm và 
uyên bác đằng sau bộ óc bác học bao la và nghiêm túc.
Sách gồm hai mươi bốn chương bề ngoài rời rạc. Levi–Strauss cho rằng 
mình ráp nối “cắt dán” theo kiểu họa sĩ Max Ernst. Nhưng người đọc sành 
điệu cảm thấy ngay “cấu trúc” ngầm của một bản hòa tấu đa dạng, phong phú, 
hài hòa và nhất quán, qua sợi chỉ mành kết hợp là lập trường Levi–Strauss mà 
người đọc đã làm quen, đã học tập từ hơn nửa thế kỷ nay. Những chuyên khảo 
của tác giả trước đây, dù khó đọc và nghiêm nghị vẫn phảng phất màu sắc và 
âm hưởng của nghệ thuật, từ Poussin đến Ravel, Wagner. Trong Sống và chín 
(Le Cru et le Cuit, 1964) ông đã xem nhạc sĩ Wagner như “cha đẻ của lối phân 
tích cấu trúc huyền thoại”. Ba mươi năm sau, lần lên thêm một thế kỷ nữa, ông 
xem nhạc sĩ Rameau (1683–1764) với “lý thuyết hợp âm (accords) đã đi trước 
phương pháp giải thích cơ cấu”(tr.43).
Tác phẩm mở ra bằng một nhạc khúc trong Tìm thời gian đã mất của Marcel 
Proust để đi tới họa phẩm Poussin (1594–1655) với hai bức tranh Những người 
chăn cừu ở Arcadia vẽ lần đầu khoảng 1630, lần thứ nhì tám năm sau, dựa trên 
một tác phẩm cùng đề tài của họa sĩ Guerchin vẽ khoảng 1622. Từ hai tác phẩm 
của một tác giả, vẽ theo một chủ đề có sẵn, Levi–Strauss muốn đưa ra những 
khác biệt về cấu trúc để đi đến phương pháp sáng tác, “cách suy tưởng” (tr.15) 
của nghệ sĩ qua nhiều khâu khớp khác nhau, nhiều thời đại và chân trời khác 
nhau, từ Đông Á sang Tây Âu (tr.39–40).
Với hội họa, Levi–Strauss lắm duyên nhiều nợ: bố là họa sĩ, dượng là họa sĩ 
lừng danh, ông trưởng thành tại số 22 đường Poussin tại Paris Với âm nhạc, 
tương quan còn sâu sắc hơn: ông suốt đời viết lách trong âm nhạc, suy nghĩ 
bằng âm nhạc, cho nên những trang ông viết về âm nhạc chủ yếu về Rameau 
rất uyên bác, thậm chí rất kỹ thuật. Trong một bài báo, có lần ông tuyên bố: 
“Âm nhạc và huyền thoại là hai chị em, cùng do ngôn ngữ sinh ra, rồi mỗi 
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
71
người đi một hướng – như trong huyền thoại kẻ Nam người Bắc, không bao giờ 
tái hợp”1.
Ca ngợi Rameau, Levi–Strauss dựa trên kịch hát Castor và Pollux, chính 
xác hơn là dựa trên một giai điệu aria chuyển điệu với ba nốt nhạc fa–la–mi để 
chứng tỏ rằng Rameau đã cách tân âm nhạc thời đó, và sở dĩ làm được là nhờ 
thính giả thế kỷ XVIII sành điệu hơn thính giả về sau, và gần gũi người sáng 
tác hơn. Nhưng để tìm ra sự chuyển giọng (modulation) từ fa thứ sang la bémol 
và mi bémol trưởng trong nhạc bản 1754 (tr.51), Claude Levi–Strauss đã phải 
tìm tòi so sánh với nhiều nhạc thoại của kịch bản và phải nghe nhiều lần nhiều 
nhạc thoại, mới thấy sự xê xích so với thoại 1737. Nói vậy để thấy công sức lao 
động của một nhà bác học lừng danh về dân tộc học khi nói chuyện chơi về 
âm nhạc, trong một trang phiếm luận, một tiểu phẩm được tác giả gọi là “trái 
chứng” hay là “hí hoáy chắp vá” 2.
Liên hệ với nhạc Rameau, Claude Levi–Strauss đã giới thiệu và đề ca o 
Chabanon (1730–1792) một nhà âm nhạc học ít người còn nhớ, không có tên 
trong các từ điển thông dụng. Theo ông, Chabanon, trong âm nhạc, đã tìm 
ra những nguyên lý mà sau này De Saussure sẽ sử dụng trong ngôn ngữ học 
cấu trúc. “Những tư tưởng về ngôn ngữ học hiện đại đã thành hình từ những 
suy tư về âm nhạc chứ không phải về ngôn ngữ” (tr.95). Levi–Strauss tỏ ra 
rất tâm đắc với Chabanon, người từ hai thế kỷ trước, đã viết: “Trong âm nhạc, 
mỗi âm không mang ý nghĩa nào cả. Mỗi âm hầu như trống rỗng, vừa vô 
nghĩa vừa vô tính” (tr.95) nhưng kết hợp thành chuỗi thì tạo ra được nhạc 
ngữ gây được lạc thú. Đây là một quan điểm Levi–Strauss đã tích lũy từ lâu, 
và trong một bài phỏng vấn năm 1977, ông đã từng so sánh: “Ngôn ngữ có ba 
giai đoạn âm kết hợp thành từ, từ kết hợp thành câu. Ở âm nhạc, âm phát 
triển thành câu, không qua từ, không có từ vựng. Ở huyền thoại, không có 
âm, chỉ có từ phát triển thành câu. So với ngôn ngữ thì âm nhạc là huyền 
thoại thiếu một khâu”3. Levi–Strauss có nghệ thuật trình bày, đúc kết ngắn 
gọn ít người sánh kịp.
1 Claude Levi–Strauss, tạp chí Magazine Littéraire, Paris, số 311 tháng 6–1993, (Số đặc biệt về Levi–
Strauss và Nhìn nghe đọc, nhiều bài hay).
2 Claude Levi–Strauss, tạp chí Magazine Littéraire, sđđ.
3 Claude Levi–Strauss, tạp chí Magazine Littéraire, sđđ.
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
72
Giới văn học, dĩ nhiên đặc biệt lưu tâm đến lời Levi–Strauss giải thích bài 
thơ Nguyên âm (Voyelles) của Rimbaud (1871).
A đen, E trắng, I đỏ, U lục, O xanh
A thường thường gợi lên màu đỏ, sao nhà thơ lại hình dung màu đen? Đi 
từ những khám phá của linh mục Castel (1688–1757) muốn tạo ra “cây đàn thị 
giác”, tạo tương quan giữa âm thanh và màu sắc, qua những khoa học vật lý, 
thần kinh, ngôn ngữ, Levi–Strauss đã giải thích màu đen ở đây là “màu đỏ dưới 
trạng thái tiềm tàng” (tr.131) và ông đã viện dẫn nhiều văn liệu để minh chứng. 
Cũng cần nhắc lại rằng lý luận của ông tiếp nối công trình, giải thích bài thơ 
Mèo (Les Chats) của Baudelaire ông viết chung với Roman Jacobson (1962) có 
Benveniste góp ý, được xem như khuôn mẫu của phương pháp cấu trúc áp 
dụng vào việc phân tích văn chương, vô hình trung tạo ra “trường phái” phê 
bình cấu trúc, mà ông có đôi lần phủ nhận.
Tác phẩm khép lại với ba chương Nhìn vào đồ vật, như cái ngoái nhìn u 
hoài của nhà khảo cổ vào buổi xế chiều. Đặc sắc là mấy trang viết về những vật 
dụng đan lát như giỏ, thúng, rổ, rá, gùi “trạng thái thăng bằng mong manh 
giữa thiên nhiên và văn hóa”, một chủ thể trung tâm trong tư tưởng Levi–
Strauss xưa nay. Khảo sát những vật dụng đan lát ở các bộ lạc châu Mỹ chưa 
có chữ viết, ông nhìn thấy khía cạnh thực dụng, trang trí và tín ngưỡng. Theo 
huyền thoại địa phương, đồ đan lát, một mặt phải không thấm nước (như gàu 
bên ta), mặt khác sợi đan phải tạo ra được mô–típ trang trí theo quy luật. Từ 
đó, các dân tộc đã phân biệt Giỏ cứng và Giỏ mềm: có bộ lạc da đỏ tưởng tượng 
Giỏ mềm như những quỷ cái bắt trộm và ăn thịt trẻ con (tr.163), có khi “quyến 
rũ đàn ông rồi cắt dương vật bằng âm hộ có răng” (tr.164). Levi–Strauss đã tỉa 
ra một nhận định đơn giản mà sâu sắc:
“Đó đây khắp Tân Thế Giới, con người xem gùi – giỏ như những đồ vật đa cảm. 
Chúng đến từ thiên nhiên, tiếp thu được quy chế văn hóa qua công trình tiểu 
công nghệ đơn giản rồi sẽ trở về với thiên nhiên” (tr.166). Đã mong manh, chúng 
lại phù du: chỉ dùng được một lần, “nhưng dù hỏng nát, chúng vẫn gìn giữ phẩm 
chất văn hóa, mơ hồ tạo lòng kính trọng. Chúng ta là vật bất ly thân của người 
phụ nữ” (tr.166–167).
Những nhận định như thế vừa uyên bác vừa thi vị, nhân ái: ấy là phong 
cách riêng của Levi–Strauss. Độc giả bàng quan, đọc lướt qua những dòng như 
thế, cũng thấy phẩm chất của mình được nâng cao.
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
73
Levi–Strauss là một kẻ hoài nghi. Năm 1993, trả lời phỏng vấn, ông có 
tâm sự: “Tôi thấm thía một luận lý tối hậu: không có gì tồn tại. Dĩ nhiên, muốn 
sống, phải làm như là sự vật có ý nghĩa; đó là triết lý tạm bợ cho cuộc đời, 
nhưng là triết lý cấp hai”1.
Ông tin ở giá trị con người, bẩm sinh và vĩnh cửu, dù có nổi trôi theo lịch 
sử – và tác phẩm nghệ thuật là một chứng tích. Kết luận Nhìn nghe đọc, vừa 
buồn bã, vừa phấn khởi:
“Nhìn dưới tỷ lệ hằng nghìn năm, những dục vọng con người đồng hóa vào 
nhau. Thời gian không thêm được gì, không bớt được gì cho yêu thương và thù 
hận, cho những dấn thân đấu tranh và khát vọng: xưa và nay, cũng chỉ vậy mà 
thôi. Tình cờ, xóa đi mười, hai mươi thế kỷ lịch sử, kiến thức chúng ta về bản 
chất con người cũng không thay đổi bao nhiêu. Mất mát không bù đắp lại được 
là những tác phẩm nghệ thuật mà những thế kỷ kia đã tạo nên. Vì con người 
chỉ khác nhau, thậm chí chỉ tồn tại, qua tác phẩm của mình. Như tượng gỗ sinh 
ra từ thân cây, chỉ có tác phẩm nghệ thuật mới chứng tỏ được hiển nhiên, rằng 
qua thời gian giữa người với người, có cái gì đó đã thực sự xảy ra” (trang cuối).
* * *
Trào lưu cấu trúc đã đi qua. Cùng với trận gió đã thổi qua đường phố Paris 
mùa xuân 1968. Từ ấy đến nay, thời gian đã mang đi bao nhiêu khuôn mặt 
lớn lao của nền văn học Pháp: Sartre và Aron, Barthes và Foucault, Lacan và 
Althusser
Claude Levi–Strauss là người còn lại của thế hệ trí thức ấy, được dư luận 
văn chương và báo chí ngưỡng mộ, một cách đằm thắm và dường như nhất trí. 
Không nhất thiết vì những đóng góp chuyên môn của ông: người đọc Levi–
Strauss không nhiều; tận tụy một đời, Levi–Strauss không những mang lại cho 
đời một cách nhìn đời, ưu ái, tin cậy với một thoáng hoài nghi. Ông còn được 
cảm tình nhờ phong cách hàng ngày: dung dị, từ tốn, uyển chuyển, khúc chiết, 
nhân ái và thân ái.
Với ai được dịp gần ông, về mặt học thuật hay trong thực tế, Levi–Strauss 
là tấm gương sáng, về lao động trí thức và về cách ứng phó với cuộc đời, trong 
1 Claude Levi–Strauss, tạp chí Magazine Littéraire, sđđ.
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 
74
một giai đoạn lịch sử nhiễu nhương, một trần gian đa đoan, và một nhân gian 
nhiễu sự.
Ngoài đề:
Nhìn người, không cần gì phải nghĩ đến ta, vì nghĩ đến ta, có khi lại buồn 
vơ vẩn.
Có lúc buồn vơ vẩn như thế, tôi lại nhớ đến một người bạn vong niên, nhà 
ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, cũng tuổi cao, cùng phương trời xaVì vậy, bài này, 
tôi đề tặng anh Cẩn.
Cái gì thân, thì nó cũng xa, có khi xót xa
(Đặng Tiến)
Luyện tập 
1. Thảo luận: Theo ý bạn, lòng yêu (tình yêu) của tác giả đối với nhà 
nhân học Claude Levi–Strauss được kết lại từ đâu? Từ tuổi già? Sự 
uyên bác? Sự tài hoa? Sự mở đường? 
2. Thảo luận: Bạn chưa được đọc tác phẩm Nhìn nghe đọc của Claude 
Levi–Strauss, nhưng qua bài học này, bạn cảm nhận được một ý 
tưởng gì của công trình đó?
3. Thảo luận ý này: “Đó đây khắp Tân Thế Giới, con người xem gùi – 
giỏ như những đồ vật đa cảm.” Cái gì đã khiến cho những đồ vật 
sinh ra từ thiên nhiên thành “đa cảm”?
4. Viết tiểu luận: Bạn nghĩ gì về hai khái niệm Văn hóa và Thiên 
nhiên? Bạn có đồng ý với định nghĩa này không: Văn hóa là mọi 
thứ gì con người làm ra để con người và thiên nhiên bớt hoang dã? 
 Viết tiểu luận: Bạn nghĩ gì về điều này “Lao động của một đời người chỉ là 
lòng tin ở giá trị con người, bẩm sinh và vĩnh cửu, dù có nổi trôi theo lịch sử – 
và tác phẩm nghệ thuật là một chứng tích.”. Bạn có thể viết tiểu luận và cho 
dẫn chứng từ người lao động bình thường đời này qua đời khác sống cheo 
leo ở sườn núi, cũng có thể viết về lao động ở địa hạt khác.
Sách mở Cánh Buồm được cung cấp miễn phí tại 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_tieng_viet_8_cach_bieu_dat_ngon_ngu_phan_1.pdf