Giáo trình Thị trường kỳ hạn

Hợp đồng giao sau là một cam kết pháp lý của các bên về việc mua hoặc bán một lượng hàng hóa vào một thời điểm trong tương lai thông qua Sở giao dịch và các cơ quan trung gian ở một giá được định trước.

Hợp đồng giao sau là một hợp đồng kỳ hạn đã được tiêu chuẩn hóa, chúng được điều chỉnh theo thị trường hằng ngày trong đó khoản lỗ của một bên được chi trả cho bên còn lại. (Thị trường này chưa có ở Việt Nam)

Ví dụ: Công ty A bán cho công ty B 100.000 thùng dầu giao tháng 5/2007 theo một hợp đồng tương lai với giá $65/thùng. Đến tháng 5/2007, giá dầu lên $85/thùng thì hoặc là A sẽ phải giao cho B 100.000 thùng dầu với giá $65 hoặc A sẽ không phải giao dầu mà thanh toán cho B là 20x100.000 = 2tr USD.

 Phân loại (theo thời điểm thanh lý hợp đồng)

- HĐGS được thanh lý sau khi giao hàng: Đây là loại hợp đồng tồn tại một sự giao hàng thực sự theo như thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp này, về bản chất thì HĐGS tương tự như hợp đồng kỳ hạn (Forward).

- HĐGS được thanh lý trước ngày giao hàng ghi trong hợp đồng: Đây là loại hợp đồng không có sự giao hàng trên thực tế xảy ra, các bên chấm dứt sự ràng buộc của mình đối với phía bên kia bằng nghiệp vụ thanh toán bù trừ, nghĩa là các bên mua hoặc bán lại chính loại hàng hóa đó ngược với vị thế mà mình đã có (vị thế mua hoặc bán trước đây). Đây là dạng phổ biến, nhờ đó mà tồn tại thị trường giao sau.

 

docx 29 trang kimcuc 9440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Thị trường kỳ hạn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Thị trường kỳ hạn

Giáo trình Thị trường kỳ hạn
MỤC LỤC
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
Khái niệm thị trường kỳ hạn và giao sau
Thị trường kỳ hạn
Hợp đồng kỳ hạn là một thỏa thuận giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó yêu cầu giao một hàng hóa tại một thời điểm trong tương lai với giá cả đã đồng ý ngày hôm nay. 
Ví dụ: 
Tiền thuê căn hộ là một chuỗi các hợp đồng kỳ hạn: Việc sử dụng căn hộ tháng này là một giao dịch giao ngay, nhưng thỏa thuận sử dụng căn hộ trong những tháng tiếp theo với mức giá đã xác định hôm nay là một hợp đồng kỳ hạn.
Việc đặt mua báo dài hạn cũng là một ví dụ về hợp đồng kỳ hạn vì trong đó không những đã chốt lại mức giá cho ngày hôm nay (giao dịch giao ngay) mà còn cho những ngày sau đó trong tương lai (giao dịch kỳ hạn). 
Việc đặt giao bánh pizza cũng là một hợp đồng kỳ hạn (mặc dù các thỏa thuận chỉ vừa thực hiện trước đó vài chục phút). 
Giả sử Mr. X muốn mua một ngôi nhà trong vòng 1 năm tới, đồng thời Mr. Y sở hữu một căn nhà và anh ta muốn bán trong cùng thời gian đó. Y thoả thuận bán ngôi nhà của Y cho X sau 1 năm nữa với giá là $104.000, hợp đồng này là một hợp đồng kì hạn. Vì X là người mua nên X mong muốn giá sẽ tăng trong tương lai, ngược lại, Y muốn giá giảm. Cuối năm, giả sử giá thị trường của ngôi nhà lúc đó là $110.000, trong khi Y có nghĩa vụ phải bán nhà cho X với giá $104.000 theo như cam kết trong hợp đồng nên có thể coi như Y đã lỗ $6.000, còn X lãi $6.000 (vì X có thể mua nhà của Y với giá $104.000 và bán ngay trên thị trường với giá $110.000.
Nhìn chung nếu không tính đến các nhân tố khác thì giá kì hạn bao giờ cũng lớn hơn giá giao ngay, vì nó bao gồm cả lãi suất. Tiếp tục ví dụ trên, giả sử giá bán hiện nay của ngôi nhà là $100.000, thì Y có thể bán ngay để đem gửi ngân hàng để hưởng lãi suất 4%/năm. Sau 1 năm Y sẽ có số tiền $104.000 mà không phải chịu chút rủi ro nào. Trong khi đó nếu X muốn mua ngay ngôi nhà anh ta sẽ đến vay ngân hàng số tiền $100.000, và cũng phải trả lãi 4%/năm. Còn ngược lại nếu kí hợp đồng mua kì hạn anh ta sẽ không phải trả lãi nên X cũng sẵn sàng bỏ ra $104.000 để mua ngôi nhà trong vòng 1 năm nữa. Đó là lý do vì sao giá kì hạn được thống nhất ở $104.000 chứ không phải là $100.000.
Thị trường giao sau
Hợp đồng giao sau là một cam kết pháp lý của các bên về việc mua hoặc bán một lượng hàng hóa vào một thời điểm trong tương lai thông qua Sở giao dịch và các cơ quan trung gian ở một giá được định trước.
Hợp đồng giao sau là một hợp đồng kỳ hạn đã được tiêu chuẩn hóa, chúng được điều chỉnh theo thị trường hằng ngày trong đó khoản lỗ của một bên được chi trả cho bên còn lại. (Thị trường này chưa có ở Việt Nam)
Ví dụ: Công ty A bán cho công ty B 100.000 thùng dầu giao tháng 5/2007 theo một hợp đồng tương lai với giá $65/thùng. Đến tháng 5/2007, giá dầu lên $85/thùng thì hoặc là A sẽ phải giao cho B 100.000 thùng dầu với giá $65 hoặc A sẽ không phải giao dầu mà thanh toán cho B là 20x100.000 = 2tr USD.
Phân loại (theo thời điểm thanh lý hợp đồng)
HĐGS được thanh lý sau khi giao hàng: Đây là loại hợp đồng tồn tại một sự giao hàng thực sự theo như thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp này, về bản chất thì HĐGS tương tự như hợp đồng kỳ hạn (Forward).
HĐGS được thanh lý trước ngày giao hàng ghi trong hợp đồng: Đây là loại hợp đồng không có sự giao hàng trên thực tế xảy ra, các bên chấm dứt sự ràng buộc của mình đối với phía bên kia bằng nghiệp vụ thanh toán bù trừ, nghĩa là các bên mua hoặc bán lại chính loại hàng hóa đó ngược với vị thế mà mình đã có (vị thế mua hoặc bán trước đây). Đây là dạng phổ biến, nhờ đó mà tồn tại thị trường giao sau.
Sự hình thành và phát triển thị trường kỳ hạn và giao sau
Vào những thời kỳ đầu của giao thương, như trong các phiên chợ thời Trung cổ - các nhà buôn thường thỏa thuận giao nhận hàng hóa với một mức giá ấn định trước.
Vài thế kỷ sau đó, các thị trường giao ngay hàng hóa có tổ chức bắt đầu phát triển ở các thành phố, chủ yếu của Châu Âu và Nhật.
Mặc dù vậy, đánh dấu sự ra đời của một thị trường giao sau hiện đại là sự kiện thành lập Hội đồng thương mại Chicago (CBOT) vào năm 1848. 
Thị trường kỳ hạn
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường kỳ hạn nằm trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường tài chính phái sinh.
Bắt nguồn từ các thị trường ngoại hối (thị trường liên ngân hàng – Interbank market).
Phát triển nhanh chóng nhờ vào sự thả nổi của các đồng tiền mạnh vào đầu thập niên 1970.
Thập niên 1980, đã chứng kiến bước nhảy ngoạn mục của các công cụ tài chính phái sinh – động lực chính của những tăng trưởng trên thị trường này là các giao dịch hoán đổi Swap.
Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên theo Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa ngân hàng thương mại với doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của Ngân hàng Nhà nước.
Tuy nhiên trên thực tế hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị trường liên ngân hàng (Interbank) ở VN chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá.
Thị trường giao sau
Thị trường giao sau hàng hóa (Chicago)
Vào thập niên 1980, Chicago nhanh chóng trở thành trung tâm phân phối nông sản của vùng Trung Tây nước Mỹ.
Nông dân Mỹ phải đối mặt với nhiều vấn đề trong sản xuất, dự trữ hay bán hàng bởi các yếu tố như thời tiết, vận chuyển, ảnh hưởng đến cung và cầu.
Trong trường hợp giá cả tăng lên, nông dân luôn sẵn sàng đẩy mạnh sản xuất, nhưng trong trường hợp giá cả giảm sút sẽ xảy ra hiện tượng bán tống bán tháo hàng loạt. Dần dần, hoạt động này trở nên sôi nổi đến mức hầu như không đủ nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Ngoài ra, sự tồn tại những phương pháp nghèo nàn trong việc cân và phân loại hàng hóa đã đẩy người nông dân vào tình thế phải chịu sự định đoạt của các thương nhân. Cũng tương tự, những thương nhân luôn đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn do biến động trong giá cả gây nên.
Một cơ chế để có thể giảm thiểu hay hạn chế bởi những rủi ro trên là nhu cầu bức thiết. Bằng những thoả thuận trước về giá cả, người mua cũng như người bán có thể phòng ngừa được những rủi ro do biến động giá cả trong tương lai gây nên. Nhờ đó, nông dân xác định được một mức giá chắc chắn cho lượng hàng họ sẽ sản xuất ra mà không phải lo ngại về tình trạng nguồn cung quá lớn sẽ dẫn đến giảm giá, gây thiệt hại cho đời sống của họ. Những thương nhân đóng vai trò trung gian giữa nông dân và người tiêu dùng cuối cùng sẽ không còn phải lo ngại về những biến động bất lợi của giá cả khi họ có thể phải thu mua với giá cao và bán ra với mức giá thấp không được dự tính trước.
Tuy nhiên, cơ chế người mua và người bán gặp nhau để thoả thuận trước những giao dịch trong tương lai, xác định trước về giá cả và ngày thời gian giao hàng tỏ ra không hiệu quả. Thực tế đó làm phát sinh yêu cầu cần có một có chế thị trường trung gian tham gia vào, đây là khởi điểm cho sự phát triển của Thị trường tương lai về sau.
Năm 1848, 82 thương gia đã đến Chicago và đã cùng thành lập nên Trung tâm giao dịch The Chicago Board of Trade (CBOT). Ở đó, người nông dân và các thương nhân có thể mua bán trao ngay tiền mặt và lúa mì theo tiêu chuẩn về số lượng và chất lượng do CBOT qui định. Nhưng các giao dịch ở CBOT bấy giờ chỉ dừng lại ở hình thức của một chợ nông sản vì hình thức mua bán chỉ là nhận hàng – trao tiền đủ, sau đó thì quan hệ các bên chấm dứt.
Lịch sử phát triển của thị trường giao sau không dừng lại ở đó. Đến năm 1874, The Chicago Produce Exchange được thành lập và đổi tên thành Chicago Butter and Egg Board.
Năm 1898, tổ chức này lại đổi tên thành Chicago Mercantile Exchange (CME), giao dịch thêm một số loại nông sản khác và trở thành thị trường giao sau lớn nhất Hoa Kỳ. (Hiện nay là sàn giao dịch hợp đồng giao sau lớn thứ 2 thế giới).
Năm 1979, thành lập sàn giao dịch giao sau New York – Chi nhánh của sàn giao dịch chứng khoán New York.
Thị trường giao sau sau đó tiếp tục phát triển qua các quốc gia như Anh, Nhật, Ý Pháp, Úc, Phần Lan, Newzeland, Tây Ban Nha, và các quốc gia mới nổi như Hungary, Romania, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Malaysia, Singapore, Nam Phi, Mặc dù có nhiều thăng trầm trong quá trình phát triển thị trường giao sau ở mỗi nước nhưng các sàn giao dịch giao sau vẫn tồn tại và hoạt động cho đến nay.
Thị trường giao sau tài chính
Năm 1971 Hiệp ước Bretton Wood sụp đổi, tỷ giá các nước biến động mạnh.
Năm 1972 Hợp đồng giao sau tiền tệ ra đời là hợp đồng giao sau tài chính đầu tiên trên thế giới.
Năm 1975 Hợp đồng giao sau lãi suất ra đời.
Năm 1977 Hợp đồng giao sau chứng khoán ra đời.
Năm 1980 Hợp đồng giao sau chỉ số chứng khoán bắt đầu thành công vang dội.
Thị trường quyền chọn giao sau (quyền chọn hàng hóa)
Năm 1982 Hợp đồng quyền chọn mà tài sản cơ sở là một hợp đồng giao sau đã được tạo ra tại Mỹ.
Năm 1987 các quyền chọn trên hợp đồng giao sau được phép thực hiện chính thức tại Mỹ và ở nhiều thị trường trên thế giới.
Một quyền chọn giao sau cho phép người nắm giữ quyền được mua, nếu là quyền chọn mua, và bán, nếu là quyền chọn bán, một hợp đồng giao sau tài sản cụ thể tại một mức giá cố định vào một ngày đáo hạn trong tương lai. 
Sản phẩm phái sinh này thực hiện trên một sản phẩm phái sinh khác à tài sản cơ sở chính là một sản phẩm phái sinh. 
Có hai ngày đáo hạn, ngày đáo hạn của quyền chọn và ngày đáo hạn của hợp đồng giao sau. 
Thông thường, hợp đồng quyền chọn có thời gian đáo hạn trước nhưng tương đối gần với ngày đáo hạn của hợp đồng giao sau. Hình thành một thị trường hiệu quả cao độ ở các nước phát triển.
Một số sàn giao sau trên thế giới
Sàn Giao Dịch Chicago (CME). 
Sàn Giao Dịch Tiền Tệ Quốc Tế Singapore (SIMEX).
Sàn giao dịch giao sau bận rộn nhất trên thế giới là EUREX, là sàn giao dịch liên kết giữa Đức và Thụy Sĩ.
Một số sàn giao sau trên thế giới
Ngày nay, TTGS đã vượt xa khỏi giới hạn của hợp đồng nông sản ban đầu, nó trở thành công cụ tài chính để bảo vệ các loại hàng hóa truyền thống và cũng là một trong những công cụ đầu tư hữu hiệu nhất trong ngành tài chính. TTTL hiện nay hoạt động liên tục thông qua hệ thống Globex nối liền 12 trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Sự thay đổi giá cả của các loại hàng hóa chuyển biến từng giây một và gây ảnh hưởng không chỉ đến nền kinh tế của một quốc gia mà cả khu vực và toàn thế giới.
Một số hợp đồng giao sau phổ biến
 Ngũ cốc và hạt có dầu 
 Gia súc sống và thịt 
 Thực phẩm và sợi 
 Kim loại và xăng dầu
 Ngoại tệ 
 Trái phiếu và lãi suất 
 Chỉ số kinh tế
 Chỉ số chứng khoán 
Ví dụ về một số sản phẩm nông sản trong hợp đồng giao sau
Cấu trúc thị trường kỳ hạn và giao sau
Cấu trúc thị trường kỳ hạn
Thị trường kỳ hạn là một thị trường lớn rộng khắp trên toàn thế giới. Do trong thị trường kỳ hạn, các bên tham gia phải chịu rủi ro tiềm ẩn không thực hiện nghĩa vụ từ bên kia nên những thành viên của thị trường là các tổ chức lớn có uy tín như ngân hàng, công ty và chính phủ. Hai bên ký kết hợp đồng kỳ hạn phải đồng ý thực hiện nghĩa vụ với nhau, tức là mỗi bên phải chấp nhận rủi ro tín dụng của bên kia. Dạng hợp đồng này không giống như hợp đồng trên thị trường quyền chọn, nơi mà người bán không chịu bất cứ rủi ro tín dụng nào từ người mua. Hợp đồng kỳ hạn cũng mang lại những thuận lợi đáng kể.
Thuận lợi chính là các điều khoản và điều kiện được thiết kế theo nhu cầu cụ thể của hai bên. Giả định một công ty mong muốn chốt lại giá mua trong tương lai của 500.000 tạ cà phê. Do công ty không tìm thấy trên thị trường giao sau loại hợp đồng phù hợp với nhu cầu của mình về chủng loại, khối lượng và thời gian giao hàng nên đã tìm đến hợp đồng kỳ hạn để có thể yêu cầu thiết kế cụ thể các điều khoản.
Thuận lợi thứ hai là do hợp đồng kỳ hạn là thiết kế riêng giữa người mua và người bán. Tính riêng biệt này đã mang đến sự linh hoạt cho các thành viên tham gia, tiết kiệm tiền của họ và cho phép thị trường thích ứng một cách nhanh chóng với các thay đổi trong nhu cầu và hoàn cảnh của thị trường do việc này sinh thêm các vấn đề mới từ các hợp đồng cũ.
Thị trường kỳ hạn là thị trường OTC vì thế công chúng không biết chính xác các giao dịch đã được thực hiện như thế nào. Do đó khó có thể thống kê đầy đủ quy mô của các giao dịch kỳ hạn do những bất cân xứng thông tin trên thị trường này.
Tất cả những thuận lợi trên nhằm để bù trừ cho chi phí của rủi ro tín dụng , chính vì vậy các giao dịch kỳ hạn thường phải đủ lớn với quy mô lên đến vài triệc đôla hoặc hơn nữa. Cho đến giờ vẫn khó có thể đưa ra một kết luận chính xác rằng liệu sử dụng thị trường nào (kỳ hạn hoặc giao sau) thì ít tốn kém chi phí hơn, nhưng có điều do các thị trường này cùng tồn tại song hành với nhau nên chúng phải hoạt động hiệu quả để thu hút khách hàng. 
 Cấu trúc thị trường giao sau
Thiết kế và phát triển các hợp đồng
Một trong những hoạt động quan trọng của sàn giao dịch là thiết kế, giới thiệu và phát triển các hợp đồng giao sau mới. Hầu hết các sàn giao dịch đều có bộ phận nghiên cứu liên tục theo dõi và kiểm tra tính khả thi của các hợp đồng mới. Tại Mỹ, sau khi xác định một hợp đồng có khả năng thành công thì sàn giao dịch sẽ thảo các điều khoản, điều kiện và đề trình cho CFTC để xin phép được giao dịch hợp đồng này. Ở các nước khác quá trình này cũng được thực hiện tương tự.
Khi mới hình thành thị trường giao sau, thường các tài sản có khả năng dự trữ mới được làm tài sản cơ sở cho các hợp đồng giao sau, chẳng hạn như ngũ cốc, dầu, kim loạiSau đó phát triển các tài sản chính như lãi suất, tỷ giá, các chỉ số chứng khoán, lạm phátvà ngay cả thời tiết cũng được sử dụng làm tài sản cơ sở. Vấn đề quan trọng là khi thiết kế một hợp đồng giao sau dựa trên bất cứ tài sản cơ sở nào cũng xem thử có thoả mãn được nhu cầu của những thành viên tham gia thị trường hay không. Một hợp đồng được thiết kế phù hợp sẽ được giao dịch sôi động, còn không đời sống của hợp đồng đó rất ngắn ngủi. Sàn giao dịch khi thiết kế hợp đồng còn phải lưu ý là liệu rằng các nhà đầu cơ có đủ hứng thú để nhận lấy rủi ro của hợp đồng đó hay không.
Cấu trúc của một hợp đồng giao sau
Khác với thị trường kỳ hạn, thị trường giao sau là thị trường được tổ chức và được chuẩn hóa cao. Tất cả giao dịch được thực hiện trên sàn giao dịch.
Sàn giao dịch giao sau là một công ty gồm nhiều thành viên. Thường các thành viên là các cá nhân nhưng cũng có khi thành viên là công ty. Các thành viên chọn ra một ban giám đốc và ban giám đốc này lại chọn ra các cá nhân để quản lý công ty. Sàn giao dịch có một hệ thống cấp bậc gồm các giám đốc, nhân viên và uỷ ban. Sàn giao dịch xây dựng điều lệ cho các thành viên và có thể sử dụng những hình thức kỷ luật đối với những người phạm luật. Mặc dù các sàn giao dịch giao sau thường là các công ty phi lợi nhuận với cổ phiếu được giao dịch ra công chúng.
Thông thường Uỷ ban giao sau của các nước quy định cho các sản giao dịch xây dựng chi tiết các điều khoản của hợp đồng.
Chi tiết cho mỗi hợp đồng bao gồm quy mô hợp đồng, đơn vị tính, dao động giá tối thiểu, cấp độ, và giờ giao dịch. Ngoài ra, hợp đồng còn phải nêu rõ các điều kiện giao hàng và giới hạn giá hàng ngày cũng như tiến trình giao nhận hàng.
Quy mô hợp đồng là số lượng cụ thể các đơn vị hàng hóa, có thể là số giá ngũ cốc, cà phê hoặc mệnh giá tính bằng đôla cho các công cụ tài chính. Quy mô hợp đồng là một ... ều chỉnh giảm với cùng một lượng tương ứng. Nghĩa là, những gì người mua lời thì người bán lỗ và ngược lại.
Trong trường hợp thị trường biến động mạnh theo hướng không có lợi cho nhà đầu tư và số dư trên tài khoản bị thâm hụt đáng kể, các nhà môi giới yêu cầu nhà đầu tư phải đặt cọc thêm. Nếu nhà đầu tư không đủ tiền để bơm thêm vào tài khoản, người môi giới sẽ đóng vị thế của bạn lại. 
Ví dụ, nhà đầu tư A đang ở vị thế giao sau và thị trường biến động rất nhanh, nhanh đến mức trước khi hợp đồng đóng lại. Cuối cùng cũng có thể là A bán (giao sau) được hợp đồng nhưng lúc đó đã quá muộn và A phải chịu thêm nhiều thiệt hại. Trong một chừng mực nào đó, rối cuộc thì vị thế mua có thể bị thiệt hại bằng toàn bộ giá trị hợp đồng. Điều đó xảy ra nếu như giá giao sau tiến tới zero. Trong khi vị thế bán do không có một giới hạn trên nào của mức giá nên những tổn thất về lý thuyết là vô tận.
Một giải pháp mà các sàn giao dịch giao sau áp dụng để hạn chế những tổn thất xảy ra vào bất cứ ngày nào là giới hạn giá hàng ngày. Tương tự, công ty thanh toán bù trừ có thể yêu cầu bạn tăng thêm số tiền cọc ngay trong phiên giao dịch thay vì chờ cho đến cuối ngày như thông lệ.
Các thị trường kỳ hạn vốn không tồn tại các công ty thanh toán bù trừ, các giới hạn giá hoặc là thanh toán hàng ngày, cũng có thể có hoặc không yêu cầu ký quỹ, tùy thuộc vào khả năng chi trả của các bên. Trong nhiều trường hợp các yêu cầu tín dụng có thể do ngân hàng bảo lãnh bằng thư tín dụng. Ngân hàng này sẵn sàng cho vay để bạn chi trả cho các khoản lỗ. Tổng số hợp đồng giao sau vào một thời điểm nào đó gọi là hợp đồng đang lưu hành.
Hầu hết các nhà giao dịch giao sau không nắm giữ vị thế của họ cho đến khi đáo hạn, họ sẽ tham gia lại vào thị trường bằng cách thực hiện một giao dịch bù trừ. Nếu một người nắm giữ vị thế mua trong hợp đồng, họ có thể bán hợp đồng đó trên thị trường. Công ty thanh toán bù trừ sẽ thông báo một cách chính thức là vị thế của nhà giao dịch đã được bù trừ. Nếu vị thế đó chưa được bù trừ trước tháng đến hạn, nghĩa là việc giao nhận sẽ được thực hiện.
Đóng vị thế giao sau
Khi hợp đồng giao sau đến hạn, quá trình thanh toán và giao nhận sẽ diễn ra. Mỗi hợp đồng có một tháng giao nhận nhưng quá trình giao nhận của các hợp đồng không giống nhau. Một vài hợp đồng có thể giao nhận vào bất cứ ngày kinh doanh nào trong tháng giao nhận. Các hợp đồng khác chỉ cho phép giao nhận sau khi hợp đồng được giao dịch đến ngày cuối cùng – là ngày cũng sẽ khác nhau giữa các hợp đồng. Nhưng cũng có thể có các hợp đồng được thanh toán bằng tiển mặt và như vậy không có giao nhận nào xảy ra.
Hầu hết các hợp đồng giao sau tài chính không sử dụng tiền mặt cho phép giao nhận vào bất kỳ ngày nào trong tháng giao nhận. Quá trình giao nhận thường là lộ trình 3 ngày, bắt đầu vào 2 ngày kinh doanh trước ngày giao nhận có thể xảy ra đầu tiên. Các công ty thành viên báo cáo với công ty thanh toán bù trừ ngày giao nhận của các khách hàng đang nắm vị thế mua. Hai ngày kinh doanh trước ngày giao nhận dự kiến, người nắm giữ vị thế bán nào có ý định thực hiện giao nhận sẽ thông báo cho công ty thanh toán bù trừ biết ý muốn của mình (ngày này gọi là ngày vị thế). Vào ngày kinh doanh tiếp theo, gọi là ngày thông báo, sàn giao dịch sẽ chọn người nào hiện đang nắm giữ vị thế mua lâu nhất cho đến giờ để nhận hàng. Vào ngày thứ ba là ngày giao nhận, việc giao nhận sẽ xảy ra và người mua sẽ thanh toán cho người bán. Đối với hầu hết các hợp đồng giao sau tài chính, việc giao nhận được thực hiện thông qua chuyển giao bằng điện tín.
Hầu hết các hợp đồng giao sau có thể có nhiều cách thức giao dịch rất linh hoạt. Các hợp đồng thường ghi rõ giá người mua phải thanh toán cho người bán nhưng giá này là giá có hiệu chỉnh lại để phản ánh những chênh lệch chất lượng hàng hóa.
Đối với các hợp đồng thanh toán bằng tiền mặt như hợp đồng giao sau chỉ số cổ phiếu chẳng hạn, giá thanh toán trong ngày kinh doanh cuối cùng được chốt lại ở mức giá giao ngay lúc đóng cửa của hàng hóa cơ sở. Tất cả các hợp đồng được hiệu chỉnh theo thị trường vào ngày đó, và các vị thế được đóng lại. Một ngoại lệ cho tiến trình này là hợp đồng giao chỉ số S&P 500, hợp đồng này đóng giao dịch vào ngày thứ Năm trước ngày thứ Sáu tuần thứ ba của tháng đáo hạn nhưng giá thanh toán sau cùng căn cứ trên giá mở cửa của cổ phiếu mở cửa vào sáng thứ Sáu. Là do các sàn giao dịch muốn tránh để không vướng phải những rắc rối phát sinh khi một hợp đồng thanh toán ở mức giá đóng cửa.
Các hợp đồng giao sau có thể được giao nhận hoặc là thanh toán bằng tiền mặt nhưng hầu hết các giao nhận đều không có giao nhận cuối cùng mà thường là thanh toán bằng tiền mặt (khoảng 99%). Như vậy, giao nhận, mặc dù là yếu tố quan trọng trong hợp đồng giao sau nhưng lại ít khi nào xảy ra. Hầu hết các nhà giao dịch đều đóng vị thế của họ lại trước khi hợp đồng đáo hạn bằng một giao dịch bù trừ. Chính vì thế, thị trường giao sau không phải là một nguồn cung ứng tốt nhất để bạn mua hàng hóa, bởi những người nắm giữ hợp đồng ở vị thế mua phó mặc cho người ở vị thế bán tự định đoạt. Người bán có thể giao nhận vào bất kỳ một ngày giao nhận nào đó và có thể chọn giao nhận bất kỳ một loại hàng hóa có liên quan hoặc khác chút ít. Người mua phải chấp nhận bất cứ những gì người bán đưa ra. Vì lẽ đó nên người mua thường đóng vị thế hợp đồng sớm hơn ngày đáo hạn. Nếu bạn có nhu cầu mua hàng hóa thực sự, tốt hơn nên mua chúng trên thị trường giao ngay.
Cho dù người bán có những linh hoạt của mình trong khi giao dịch với người mua, thì trong một vài trường hợp họ vẫn giao hàng thông qua một quá trình gọi là trao đổi thỏa thuận (EFP) hay còn gọi là thỏa thuận ngoài sàn hoặc là thỏa thuận phi tài chính. Trong thực tế, đây là một loại giao dịch giao sau có thỏa thuận và không xảy ra trên sàn giao dịch. Trong một giao dịch EFP, người nắm giữ vị thế mua và người nắm giữ vị thế bán cùng nhau thỏa thuận về một hợp đồng giao ngay và đóng lại các vị thế giao sau của họ.
Ví dụ, bác nông dân A nắm giữ vị thế bán trong hợp đồng giao sau lúa mì và công ty B ở vị thế mua trong cùng một hợp đồng. Công ty B muốn mua lúa mì của bác nông dân A, nhưng hoặc là lúa mì không thỏa mãn các điều kiện ghi trên hợp đồng, hoặc là bác nông dân thấy tốn kém ghê gớm khi giao hàng tại Chicago theo hợp đồng yêu cầu. Trong mỗi trường hợp, bác nông dân A và công ty B có thể dàn xếp để giao nhận lúa mì tại một địa điểm khác và B trả cho A với giá thỏa thuận. Sau đó, A và B sẽ báo cáo giao dịch này cho CBOT mặc dù mỗi bên đã bù trừ hợp đồng giao sau của mình bằng một giao dịch với một bên khác. Như vậy, EFP sẽ tạo thêm tính linh hoạt trong việc thực hiện giao nhận, chọn kỳ hạn và quản lý hoạt động khi sàn giao dịch đóng cửa. EFP cũng được sử dụng trong các hợp đồng thanh toán giao ngay và chiếm hầu như 100% giao nhận trên thị trường giao sau dầu hỏa.
Thanh toán trên hợp đồng kỳ hạn
Bởi vì hợp đồng kỳ hạn không có các điều khoản và điều kiện chuẩn như hợp đồng giao sau nên chúng không có các cơ chế giao dịch bù trừ như trong cách mà chúng ta đã tiến hành trên hợp đồng giao sau. Nếu một định chế tài chính muốn mua một hợp đồng kỳ hạn, họ bị buộc phải mua hàng hóa vào một ngày trong tương lai. Mặc dù vậy, đinh chế tài chính này cũng có thể bán một hợp đồng kỳ hạn mới vào đúng ngày hôm đó. Dĩ nhiên là giá cả có thể thay đổi và làm cho định chế lời hoặc lỗ. Về cơ bản, đây là một dạng thanh toán bù trừ, nhưng tính thanh khoản của thị trường kỳ hạn kém hơn thị trường giao sau vì không dễ gì tìm được một đối tác thích hợp với những gì mà người bù trừ vị thế mong muốn. Ngoài ra, giao dịch mới cũng tạo nên một dạng rủi ro tín dụng. Trong hầu hết các hợp đồng kỳ hạn có tính thanh khoản cao như ngũ cốc, trái phiếu Kho bạc, Eurodollar, và S&P 500, việc bù trừ hoàn toàn đơn giản và không chịu rủi ro đáng kể. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, một hợp đồng kỳ hạn có thể được bù trừ bằng cách tham gia vào một giao dịch ở vị thế ngược lại, với đối tác lúc đầu. Bằng thỏa thuận tương hỗ như thế, bạn có thể kết thúc cả hai hợp đồng và loại trừ được rủi ro tín dụng. Khi một hợp đồng kỳ hạn được ký kết, người ta thường mong muốn nắm giữ chúng cho đến ngày đáo hạn và thực hiện giao hàng. Tuy nhiên, một vài hợp đồng buộc phải thanh toán bằng tiền mặt. Như vậy, một hợp đồng kỳ hạn đến hạn giống như một hợp đồng giao sau đến hạn.
Các loại chi phí giao dịch
Thị trường giao sau có chi phí giao dịch thấp hơn nhiều so với thị trường quyền chọn, và đây là lợi thế chính của hợp đồng giao sau. Ngoài ra, chi phí giao dịch hợp đồng giao sau ít tốn kém hơn về mặt giấy tờ hơn so với các giao dịch quyền chọn và giao dịch chứng khoán. Vì thị trường kì hạn thường là những dàn xếp mang tính cá nhân nên các bên giao dịch sẽ tốn kém hơn nhiều so với thị trường giao sau. Chi phí giao dịch trên thị trường giao sau bao gồm:
Phí hoa hồng
Hoa hồng trả cho người môi giới được tính trên giá trị hợp đồng. Hoa hồng được trả vào lúc đặt lệnh có nghĩa là tiền hoa hồng xoay vòng sẽ phải trả bất chấp nhà giao dịch cuối cùng có đóng vị thế hợp đồng hoặc thực hiện giao nhận hay thanh toán tiền mặt hay không. Thường ở các sàn giao dịch trên thế giới không quy định một mức phí cố định cho tất cả các khách hàng. Các nhà đầu tư có thể thương lượng với người môi giới về bất cứ những gì mà mình muốn. Nhiều công ty môi giới có những ưu đãi đặc biệt đối với những khách hàng tiểm năng. Thậm chí một vài công ty còn môi giới miễn phí cho các khách hàng mới.
Chênh lệch giá mua bán
Loại thứ hai của chi phí giao dịch là chênh lệch giá mua bán. Có điều, không giống như trên thị trường quyền chọn và chứng khoán, trên thị trường giao sau không có người tạo lập thị trường đúng nghĩa. Nhiều nhà kinh doanh trên sàn, đặc biệt là các nhà kinh doanh chênh lệch giá mua bán và những tay đầu cơ nhỏ lẻ tiến hành niêm yết giá ở mức họ sẵn lòng đồng thời mua ở giá hỏi mua và bán ở giá chào bán. Chênh lệch giá mua bán là chi phí thanh khoản – đó chính là khả năng mua và bán nhanh mà không có sự giảm giá lớn nào. Bởi vì các chênh lệch không được điện tử hóa trên các báo cáo nên có ít bằng chứng thống kê về quy mô của các giao dịch này. Chênh lệch thường là giá trị tối thiểu của biến động giá, gọi là một tick nhưng chúng có giá trị tương đương với một vài tick đối với những thị trường ít thanh khoản hơn.
Trong thị trường kỳ hạn, chênh lệch giá mua bán được các nhà kinh doanh xác định theo nhiều cách thức tương tự như là họ đang ở trên sàn giao dịch. Các chênh lệch này có thể khá lớn, tùy thuộc vào lòng ham muốn của những nhà kinh doanh và các đối thủ cạnh tranh như thế nào.
Chi phí giao nhận
Một nhà giao dịch giao sau nắm giữ vị thế giao nhận hàng hóa thường gặp phải khó khăn do có khả năng gánh chịu những chi phí giao nhận hàng phát sinh khá lớn. Trong hầu hết các công cụ tài chính, chi phí này khá nhỏ. Tuy nhiên, đối với hàng hóa, do cần thiết phải tổ chức quá trình dự trữ , giao nhận và vận chuyển hàng hóa nên chi phí khá cao. Trên các thị trường kì hạn, các chi phí giao dịch được thiết kế theo yêu cầu của các bên, do đó kỳ hạn thường được xác định ở mức sao cho có chi phí giao nhận ở mức tối thiểu.
Phụ lục 1: Một số mẫu hợp đồng kỳ hạn trên thế giới
Phụ lục 2: Quy định pháp luật Việt Nam về kinh doanh ngoại tệ
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Số: 65/1999/QĐ-NHNN7
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----- o0o -----
Ngày 25 Tháng 02 năm 1999
QUYẾT ĐỊNH CỦA THỐNG ĐỐC NHÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Về việc quy định nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ
của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ
THỐNG ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Căn cứ Luật Ngân hàng Nhà nước số 01/1997/QH10 ngày 12 tháng 12 năm 1997 và Luật Các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/ 12/1997;
Căn cứ Nghị định số 15/CP ngày 02/3/1993 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Cho phép Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua, tỷ giá bán giao ngay (SPOT) của Đồng Việt Nam với các ngoại tệ theo nguyên tắc sau:
1. Đối với Đô la Mỹ: Tối đa không được vợt quá 01% (không phẩy một phần trăm) so với giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó do Ngân hàng Nhà nước công bố.
2. Đối với các ngoại tệ khác: Do Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định.
3. Chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán do Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng, được phép kinh doanh ngoại tệ xác định.
Điều 2. Tỷ giá các giao dịch hối đoái kỳ hạn (FORWARD), hoán đổi (SWAP) thực hiện theo nguyên tắc sau:
1. Đối với giao dịch giữa Việt Nam đồng va đô la Mỹ: Tối đa không được vượt quá mức trần tỷ giá giao ngay (tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố cộng 0,l%) cộng với mức giá tăng cho phép (tỷ lệ phần trăm của mức trần tỷ giá giao ngay) quy định đối với từng kỳ hạn cụ thể như sau.
Kỳ hạn 30 ngày 0,58%
Kỳ hạn từ ngày thứ 31 đến dưôi 45 ngày 0,87%
Kỳ hạn từ ngày thứ 45 đến dưới 60 ngày l,16%
Kỳ hạn từ ngày thứ 60 đến dưới 75 ngày l,45%
Kỳ hạn từ ngày thứ 75 đến dưới 90 ngày l,75%
Kỳ hạn từ ngày thứ 90 đến dưới l05 ngày 2,04%
Kỳ hạn từ ngày thứ 105 đến dưới 120 ngày 2,33%
Kỳ hạn từ ngày thứ 120 đến dưới 135 ngày 2,62%
Kỳ hạn từ ngày thứ 135 đến dưới 150 ngày 2,92%
Kỳ hạn từngàythứ 150 đến dưới 165 ngày 3,21%
Kỳ hạn từngày thứ 165 đến dưới 180ngày 3,50%.
2. Đối với giao dịch liên quan đến các ngoại tệ khác do Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ xác định.
Điều 3. Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng chỉ được phép giao dịch kỳ hạn, hoán đổi theo các kỳ hạn sau.
1. Kỳ hạn tối thiểu: là 1 (một) tháng kể từ ngày ký hợp đồng giao dịch.
2. Kỳ hạn tối đa: là 6 (sáu) tháng kể từ ngày ký hợp đồng giao dịch.
Điều 4. Các tổ chức tín dụng được phép thu phí giao dich (các loại hình giao dịch giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi), mức phí giao dịch toi đa cho mỗi giao dịch là 0,05 % doanh số giao dịch nhưng không được vượt quá mức 1.000.000 đồng Việt Nam (một triệu đồngViệt Nam) và được tính bằng ĐồngViệt Nam.
Điều 5. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 26 tháng 2 năm 1999 và thay thế Quyết định số 267/1998/QĐ-NHNN7 ngày 06/8/1998 và số 289/1998/QĐ-NHNN7 ngày 26/8/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Các hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi đã ký trước ngày 26 tháng 2 năm 1999 không thuộc phạm vi điều chỉnh của Quyết định này.
Điều 5. Chánh Văn phòng Ngân hàng Nhà nước, Vụ trưởng Vụ Quản lý ngoại hối: Thủ trưởng các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước Trung ương, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc (Giám đốc) Tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
PHÓ THỐNG ĐỐC
Lê Đức Thuý
(Đã ký)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Quản trị rủi ro tài chính – Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, PGS. TS Nguyễn Thị Ngọc Trang
Giáo trình Tài chính quốc tế - Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, GS. TS Trần Ngọc Thơ
Getting Started In Foreign Exchange Futures
Mini Arabica Coffee Futures Contract
Mini Live Cattle Futures Contract
Mini U.S. Dollar Futures Contract (WDL)
Weather contract

File đính kèm:

  • docxgiao_trinh_thi_truong_ky_han.docx