Giáo trình Tâm lí y học (Phần 1)
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tâm lý là biểu hiện của vật chất, là sản phẩm dưới dạng đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người. Sự phát triển của tâm lý luôn gắn với sự phát triển của hệ thống thần kinh. Thế giới vật chất vận động và biến đổi không ngừng từ vô cơ thành thể hữu cơ, từ hữu cơ thành sự sống .
Sự phát triển đó liên tục, ngày càng phức tạp, hoàn chỉnh dần và cuối cùng thành sự phản ảnh thế giới khách quan của những sinh vật có hệ thống thần kinh , có não bộ. Mặt khác, sự phản ánh của sinh vật với thế giới xung quanh cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Những sinh vật đầu tiên có bản tính kích thích, biến đổi để thích nghi với mọi hoàn cảnh, nhờ đó cảm giác phát triển, đó chính là sự bắt đầu của phản ảnh tâm lý. Những phản ảnh ban đầu mang tính chung chung, đơn giản, sau đó phát triển dần thành những cảm giác chuyên biệt ( thị giác, thính giác , xúc giác ). Những sinh vật càng tiến hóa, hoạt động càng phức tạp thì phản ánh tâm lý của chúng càng phong phú và hoàn thiện, với những hình thức như: tưởng tượng, tư duy, xúc cảm, tình cảm Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Tâm lí y học (Phần 1)
KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC Mục tiêu học tập 1. Trình bày được khái niệm cơ bản của tâm lý. 2. Trình bày được bản chất của các hiện tượng tâm lý . 3. Trình bày được các phương pháp nghiên cứu cơ bản trong tâm lý học I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ 1 Bản chất của hiện tượng tâm lý Trong đời sống hàng ngày chữ “tâm lý” dùng ở đây mới có thể mới được hiểu theo nghĩa hẹp, để chỉ thái độ, cách cư sử của con nguời. Để hiểu chính xác và khoa học tâm lý là gì, từng hiện tượng tâm lý nẩy sinh và phát triển ra sao, vận hành theo quy luật nào, loài người đã phải trải qua một thời gian dài nghiên cứu, thử nghiệm; đã phải chứng kiến biét bao cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các khuynh hương khác nhau. Tóm lại tâm lý con người là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan, có cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, được nẩy sinh bằng hoạt động sống của từng người và gắn bó với các quan hệ xã hội lịch sử. 1.1 Tâm lý là bản chất của vật chất cao cấp Chủ nghĩa duy tâm cổ đại cho rằng, hiện tượng tâm lý là bản chất siêu hình đặc biệt của sinh vật và được gọi là linh hồn. Theo nhà triết học duy tâm cổ đại Hy lạp là Platon (427-347 trước công nguyên ), linh hồn là siêu hình và độc lập với thể xác; con người sống được là nhờ linh hồn liên hệ với thể xác. Khi con người sống, linh hồn là nguyên nhân sinh ra quá trình sống của cơ thể và nó truyền đạt tất cả các hiện tượng tâm lý vốn có của con người. Các nhà duy tâm khách quan, như G. Berkeley ( 1685 – 1753) cho rằng, thế giới ý niệm ra vạn vật, sinh ra thế giới vật chất. Còn các nhà duy tâm chủ quan cho rằng, vốn dĩ có thế giới vật chất, những vật chất cụ thể là do cảm giác của con người mà có. Thuyết linh hồn của Platon ở phương tây, thuyết tâm của đạo khổng phương đông đều tuyệt đối hóa thuộc tính tinh thần của tâm lý, hoàn toàn tách biệt tâm lý khỏi vật chất. Những người theo trường phái “nhị nguyên luận” như Decarte ( 1596 - 1650), đã dùng khái niệm phản xạ để giải thích các hoạt độngcủa cơ bắp đơn giản của động vật, của con người và cho rằng những hoạt động chủ định, có ý thức của con người và là do linh hồn điều khiển. Theo J.Lock tâm lý con người là những kinh nghiệm. Kinh nghiệm bên ngoài do tác động bên ngoài vào giác quan mà có; kinh nghiệm bên trong được sinh ra từ “ ý thức bên trong”, tự nó hoạt động, chỉ tự nó mới biết được nó. Quan niệm nhi nguyên là sự biến dạng của chủ nghiã duy tâm. Đối lập với quan điểm của chủ nghiã duy tâm là chủ nghĩa duy vật. Theo họ, trong vũ trụ bao la chỉ có vật chất là tồn tại mãi mãi và luôn luôn biến đổi, với những tính chất muôn hình muôn vẻ. Tâm lý không tồn tại ngoài vật chất. Quan điểm duy vật thô sơ cho rằng tâm lý là một thứ vật hoặc do các vật chất khác sinh ra như lửa, nước, không khí... Démocrit: Não là chỗ trú ngụ của linh hồn, là trung tâm hoạt động của tâm thần. Aristot (384-322 trước CN): Cảm giác do tác động của vật vào giác quan gây ra, tinh thần là chức năng của thân thể, thị giác là chức năng của mắt. Các nhà duy vật Trung Quốc đã từng dùng thuyết ngũ hành để giải thích nguồn gốc của vật chất (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ). Tuân Tử ( 315-230 trước CN) cho rằng: Thân thế con người sinh ra tinh thần và cái tốt, cái xấu ... đều nằm trong thân thế con người. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tâm lý là biểu hiện của vật chất, là sản phẩm dưới dạng đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là bộ não của con người. Sự phát triển của tâm lý luôn gắn với sự phát triển của hệ thống thần kinh. Thế giới vật chất vận động và biến đổi không ngừng từ vô cơ thành thể hữu cơ, từ hữu cơ thành sự sống . Sự phát triển đó liên tục, ngày càng phức tạp, hoàn chỉnh dần và cuối cùng thành sự phản ảnh thế giới khách quan của những sinh vật có hệ thống thần kinh , có não bộ. Mặt khác, sự phản ánh của sinh vật với thế giới xung quanh cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Những sinh vật đầu tiên có bản tính kích thích, biến đổi để thích nghi với mọi hoàn cảnh, nhờ đó cảm giác phát triển, đó chính là sự bắt đầu của phản ảnh tâm lý. Những phản ảnh ban đầu mang tính chung chung, đơn giản, sau đó phát triển dần thành những cảm giác chuyên biệt ( thị giác, thính giác , xúc giác). Những sinh vật càng tiến hóa, hoạt động càng phức tạp thì phản ánh tâm lý của chúng càng phong phú và hoàn thiện, với những hình thức như: tưởng tượng, tư duy, xúc cảm, tình cảmÝ thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người. 1.2 Tâm lý có bản chất là phản xạ Hệ thần kinh động vật hoạt động theo cơ chế phản xạ. Những phản xạ này bao gồm các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.Phản xạ có điều kiện là cơ chế hoạt động của hệ thần kinh cao cấp, của vỏ não. Hoạt động của hệ thần kinh gắn liền với hoạt động nội tiết của cơ thể và vỏ não là bản chất thực tế bản chất tâm lý.Vì vậy, tất cả các hiện tượng tâm lý đều mang tính chất phản xạ. Các phản xạ được hình thành nhằm đáp ứng mọi kích thích của thế giới bên trong hoặc bên ngoài cơ thể. 1.3 Tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan Tâm lý có nội dung là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan. Sự phản ánh này là muôn màu muôn vẻ và phức tạp. Phản ảnh là một quá trình đi từ nhận thức cảm tính tới nhận thức lý tính rất phức tạp để nhận biết bản thân sự vật hiện tượng từ thuộc tính bên ngoài đến bản chất. Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động trong không gian và thời gian và thường để lại những dấu vết của nó.Phản ánh tâm lý là những phản ánh đặc biệt tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới khách quan vào bộ óc con người (là vật chất được biến vào con người, là bản sao sinh động, sáng tạo, mang tính chủ thể, các chủ thể khác nhau phản ảnh khác nhau) Trong mối quan hệ qua lại với thế giới xung quanh, con người không chỉ nhận cảm, suy nghĩ, nhớ lại hoặc tưởng tượng ra mà còn thực hiện những hành động khác nhau gây nên những biến đổi thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên của mình. 1.3 Tâm lý con người có bản chất xã hội lịch sử Đây là điểm khác nhau giữa tâm lý người và tâm lý động vật. Con người khi sống trong xã hội lời người đã giao tiếp với nhau, cùng nhau lao động và phát triển xã hội.Tâm lý con người có bản chất xã hội lịch sử, phản ảnh sự hình thành và phát triển của lịch sử xã hội.Trong hoạt động, nhất là trong hoạt động sống, con người đã chuyển các hiện tượng tâm lý của mình vào những sản phẩm vật chất hoặc tinh thần. Ngược lại, khi con người sử dụng các sản phẩm, các công cụ lao động ... con người lại bóc tách những tinh túy tâm lý mà loài người, xã hội gửi gắm vào đó thành hiện tượng tâm lý của riêng mình. Vì vậy, trong mỗi hiện tượng tâm lý của con người đều mang dấu ấn của xã hội mà con người đang ssống và thay đổi theo lịch sử phát triển xã hội mà con người đã trải qua.Con người trên thực tế nếu thoát khỏi các mối quan hệ xã hội thì con người sẽ bị mất bản tính người. Tham gia vào sự hình thành và phát triển tâm lý con người có những yếu tố cơ bản sau: bẩm sinh, di truyền về mặt sinh học hoặc truyền lại cho nhau qua công cụ, đồ vật, hoạt động giao tiếp, giáo dục và tự giáo dục, điều kiện và hoàn cảnh sống 2 Đặc điểm chung của hiện tượng tâm lý Hiện tượng tâm lý là hình ảnh của thế giới khách quan trong óc người. Là hiện tượng chủ quan nhưng là hình ảnh của hiện tại diễn ra ở thế giới bên trong của con người. Hiện tượng tâm lý có các đặc điểm: 2.1. Tính chủ thể Sự phản ánh tâm lý khác với sự phản ánh cơ giới vào sinh vật, bao giờ nó cũng mang dấu vết riêng của chủ thể phản ảnh. Mỗi chủ thể phản ảnh hiện tượng tâm lý đều thông qua kinh nghiệm, thái độ, xúc cảm riêng của chủ thể, phản ảnh trình độ nghề nghiệp, trí thức và tâm lý riêng của chủ thể. Tính chủ thể khiến cho hiện tượng tâm lý ngoài cái chung ra, còn luôn luôn mang màu sắc riêng của mỗi cá nhân. 2.2. Tính tổng thể của đời sống tâm lý Mọi hiện tượng tâm lý không đứng riêng lẻ mà luôn liên quan tới mọi hiện tượng tâm lý khác. Đời sống tâm lý của cá nhân là trọn vẹn và mỗi hiện tượng tâm lý cũng mang tính toàn vẹn, chủ thể.Mọi hiện tượng tâm lý đều có mối liên quan chặt chẽ đến nhau và chịu sự chỉ đạo tập trung của não bộ. 2.3 Sự thống nhất giữa hoạt động tâm lý bên trong và bên ngoài Tâm lý là hiện tượng thuộc về thế giới bên trong song có liên quan chặt chẽ với thế giới bên ngoài qua những sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài mà nó phản ảnh. Thông qua bản thể vật chất của nó là não bộ và những biểu hiện bên ngoài như hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ vẻ mặt dáng điệu... chúng ta có thể xét đoán được tâm lý bên trong. “Cùng trong một tiếng tơ đồng Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm” (Nguyễn Du) 3 Chức năng của hiện tượng tâm lý Tâm lý phản ảnh thế giới khách quan nhưng khi đã hình thành thì tác động trở lại thế giới hiện thực khách quan.Hiện tượng tâm lý liên quan chặt chẽ với các hiện tượng khác trong đời sống như chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội... Cùng với các hiện tượng khác, hiện tượng tâm lý giúp con người định hướng, điều khiển, điều chỉnh mọi hoạt động của mình làm cho các hoạt động đó thích nghi với thế giới, tiến tới cải tạo thế giới, hoàn thiện thế giới và hoàn thiện cá nhân mình. Hiện tượng tâm lý còn có vai trò lịch sử, vai trò giáo dục nhằm phát triển nhân cách. Trong y học có vai trò chẩn đoán và chữa bệnh. 4 Phân loại các hiện tượng tâm lý Hiện tượng tâm lý có thể được phân thành nhiều loại khác nhau tùy theo dấu hiệu của hiện tượng tâm lý: 4.1 Chia theo thời gian tồn tại của các hiện tượng tâm lý + Các quá trình tâm lý: Bao gồm những hiện tượng tâm lý có mở đầu, có kết thúc và tồn tại trong thời gian ngắn (vài giây, vài phút) như quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ, cảm xúc, ý chí. + Các trạng thái tâm lý: Bao gồm những hiện tượng tâm lý diễn ra không có mở đầu, kết thúc và tồn tại trong thời gian tương đối dài (vài chục phút, có khi hàng tháng trời) làm nền cho các hiện tượng tâm lý khác diễn ra: như trạng thái: lo âu, băn khoăn, lơ đãng, buồn phiền... + Các thuộc tính tâm lý: Bao gồm những hiện tượng tâm lý hình thành trong một thời gian tương đối dài, tạo nên những nét riêng, đặc trưng cho mỗi cá nhân và chi phối các hiện tượng tâm lý khác: như các thuộc tính tâm lý tạo nên xu hướng, khí chất, tính cách, năng lực... 4.2 Chia theo dấu hiệu của từng người hay nhóm người + Những hiện tượng tâm lý cá nhân + Những hiện tượng tâm lý xã hội như dư luận xã hội, tập quán, phong tục mốt... 4.3 Chia theo chức năng hiện tượng tâm lý + Các hiện tượng tâm lý vận động - cảm giác như thị giác, thính giác, xúc giác sự co duỗi của tay chân... + Trí tuệ: bao gồm các quá trình tiếp nhận và sử dụng tri thức như cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ... + Nhân cách: bao gồm các thuộc tính tâm lý qui định hành vi, giá trị xã hội của con người. 4.4 Chia theo mức độ nhận biết của chủ thể Căn cứ những hiện tượng tâm lý được chủ thể nhận biết được + Ý thức: Bao gồm những hiện tượng tâm lý có ý thức nhận biết, ví dụ: đang suy nghĩ, đang tri giác, đang liên tưởng... + Vô thức: Gồm những hiện tượng tâm lý của bản thân mà không được cá nhân mình nhận biết như: giấc mơ, bản năng tự vệ... + Tiền ý thức: Gồm những hiện tượng tâm lý nằm ở giữa vùng ý thức và vô thức, còn gọi là hoạt động tiền ý thức. Ví dụ: Giấc mơ báo hiệu bệnh tật,... II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHOA HỌC TÂM LÝ 1.Sơ lược lịch sử tâm lý học Từ xa xưa,chỉ bằng quan sát và tự thử nghiệm, con người đã có những nhận xét tinh vi, sâu sắc về hiện tượng tâm lý. Tất nhiên những cách lý giải, mô tả lúc bấy giờ mới chỉ là những hiểu biết kinh nghiệm. Thế kỷ XVII, các khoa học tự nhiên phát triển mạnh. Những quan sát của khoa học này đã chỉ ra mối quan hệ giữa hiện tượng tâm lý và môi trường bên ngoài. Một loạt khái niệm khoa học và phi khoa học đã nẩy sinh ra trong thời kỳ này, như khái niệm về phản xạ, về “ lý tính tối cao” về tâm lý học kinh nghiệm, về sự nảy sinh hiện tượng tâm lý một cách tự nhiên từ vật chất Đến thế kỷ XIX, thuyết tiến hóa sinh vật của Darwin ra đời, góp phần giải thích nguyên nhân nẩy sinh, phát triển hiện tượng tâm lý từ thấp đến cao, kể cả hành vi bản năng. Sự phát triển của sinh lý học giác quan và sinh lý học bộ não đã chứng minh mối quan hệ giữa hiện tượng tâm lý với hoạt dộng của não và của toàn cơ thể. Khoa học tự nhiên phát triển đã góp phần tích cực vào sự hình thành và phát triển các khoa học về tinh thần. Dựa vào khoa học đó, ngừoi ta đã đi sâu nghiên cứu tâm lý động vật, tâm lý trẻ em, tâm lý người chậm phát triển trí tuệ Cuối thế kỷ XIX, tâm lý học tách khỏi triết học thành khoa học riêng với tính cách là một khoa học thực nghiệm, mô tả của vật lý học và sinh lý học để nghiên cứu các hiện tương tâm lý Cuộc khủng hoảng về phương pháp luận của tâm lý học truyền thồng đầu thế kỷ XX đã làm nẩy sinh nhiều trường phái tâm lý học. Có trường phái dùng quan điểm sinh vật học để nghiên cứu tâm lý người, như tâm lý học hành vi của Watson ( 1878- 1958) và một số người khác. Trường phái phân tâm học của Freud ( 1858- 1939) dựa trên quan điểm duy tâm, đã quy tâm lý vào bản năng vô thức và cia tâm lý làm ba phần: cái nó ( là cái vô thức, gồm những bản năng) là phần quan trọng nhất, thực chất nhất của tâm lý; cái tôi, là cái hoạt động nhằm thỏa mãn các bản năng vô thức; cái siêu tôi hay là cái tôi lý tưởng, là sự rang buộc của xã hội, của đạo đức Triết học Mác – lênin đã tác động mạnh mẽ đến tâm lý học. Lý luận phản ánh của các ông đã vạch ra nguồn gốc, bản chất của tâm lý , ý thức của con người, đồng thời chỉ ra đối tượng, nhiệm vụ và phưong pháp của tâm lý học khoa học. Luận điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định tâm lý là chức năng của não và phải nghiên cứu tâm lý con người trên quan điểm xã hội- lịch sử . Cùng với sự phát triển của khoa học khác, tâm lý ngày nay đã lớn mạnh cả về lý thuyết lẫn thức hành. Nhiều ngành tâm lý học mới ra đời( như tâm lý học lao động, tâm lý học thể thao, tâm lý học y học), một mặt nhằm phục vụ từng lĩnh vực hoạt động cụ thể của con người, mặt khác giúp con người tiếp cận bản chất đích thực của hiện tượng tâm lý nói chung và của bản chất tâm lý con ngừơi nói riêng tốt hơn. 2. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của tâm lý 2.1. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là hiện tượng tâm lý Tâm lý học nghiên cứu xem con người nhận thức thế giới bằng con đường nào (cảm giác? tri giác? tư duy? tưởng tượng?) thái độ xác cảm, tình cảm... của con người đối với những cái mình thấy, những điều mình nghĩ...? Nghiên cứu xem trạng thái tâm lý, kỹ năng, kỹ xảo, ý chí hoạt động của con người.Nghiên cứu tâm lý người, tâm lý động vật, tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội... Tâm lý học giới thiệu nội tâm bằng một hệ thống các khái niệm, sự kiện, qui luật, cung cấp những tri thức cần thiết để con người nhận thức, cải tạo thế giới tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người. 2.2. Nhiệm vụ của tâm lý học 2.2.1. Nhiệm vụ chung: Nghiên cứu những qui luật khách quan của các hiện tượng tâm lý, bản chất tâm lý cá nhân và những đặc điểm tâm lý các hoạt động của con người. 2.2.2. Nhiệm vụ chủ yếu của các ngành ... hận xét, không áp đặt ý kiến của mình. Thông thường nên hỏi trước về tiền sử, như vậy dễ hiểu hơn những gì mới xuất hiện. Khai thác tiền sử bệnh rất quan trọng trong tâm lý học chẩn đoán và điều trị, khai thác tiền sử giúp chúng ta biết bệnh bắt đầu lúc nào, diễn biến ra sao, bệnh nhân suy nghĩ, tưởng tượng về bệnh mình ra sao, đánh giá nguyên nhân và tiên lượng bệnh. 3.Khai thác tiền sử 3.1.Tiền sử cá nhân Có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu nhân cách người bệnh, người thầy thuốc lâm sàng phải đánh giá lịch sử đời sống người bệnh thật tỉ mỉ và ghi vào hồ sơ bệnh án không bỏ sót, nghiên cứu lịch sử đời sống cho phép đi sâu và lòng người, thâm nhập vào thế giới nội tâm con người, nhờ quá trình đàm thoại người thầy thuốc xây dựng quan hệ tâm lý khá tốt, khắng khít với bệnh nhân, mối quan hệ này hổ trợ tốt trong quá trình điều trị. Quá trình đàm thoại phải xảy ra nhiều lần mới có thể nắm chắc được cá tính, giúp ta khái niệm đầy đủ về một con người cho ta bức tranh hoàn chỉnh về bệnh nhân đó. Trong đàm thoại cần tạo điều kiện cho bệnh nhân kể về tiền sử của mình, thầy thuốc cần chú ý tính tình, ham muốn , tình cảm, nguyện vọng...Cần chú ý khai thác trạng thái sức khỏe chung, rối loạn giấc ngủ, tính tình, biến đổi khí sắc, tính nết. Những điều này đặc biệt quan trọng đối với các bệnh nội khoa, thường những biến đổi này xuất hiện rất sớm trước khi có các biểu hiện, các triệu chứng thực thể bệnh lý Những người mắc tâm bệnh thường thích kể chuyện về bản thân và ôn lại cuộc đời, qua câu chuyện có thể quan sát cách nói, cách suy nghĩ và phán đoán...Nên ghi chép lại lời nói của bệnh nhân và từ đó để có hướng theo dõi tiếp. 3.2.Tiền sử gia đình Cần đi sâu vào tiền sử gia đình, ngoài các biểu hiện tâm lý rõ nét, nên hiểu qua cá tính các thành viên trong gia đình, đây là vấn đề tế nhị vì người ta thường hay che đậy những chuyện nội bộ của gia đình, hay dùng những ngôn từ ngụy trang và cũng để tự dối bản thân. Nhớ để ý các trường hợp sinh đôi, sự quan tâm đặc biệt quá trình mấy năm đầu, mặt khác quan sát cách bệnh nhân kể lại tuổi thơ của miình, thời kỳ học sinh , đặc biệt là những rối nhiễu thời kỳ tuổi dậy thì.Một triệu chứng có thể chỉ nhất thời hay kéo dài, có khi ở người này là một phản ứng bình thường, ở người khác là báo hiệu một bệnh nặng. Ở tuổi thanh niên cần hỏi rõ nghề nghiệp chọn theo sở thích hoặc bị động, chức vụ, tính ổn định hay không trong công việc, năng lực, tính tình, quan hệ vợ chồng giữa bố mẹ và con cái, những sự cố xảy ra trong thời kỳ có thai và nuôi con đều có tác động sâu sắc. 3.3.Về tiền sử bệnh tật Không chỉ chú ý đến bệnh nặng, mà nhiều khi những triệu chứng được xem là nhẹ kiểu đau đầu, đau xương , uể oải, ăn khó tiêu thường lại là triệu chứng ngụy trang của những rối nhiễu tâm lý. Một điểm rất khó xác định là những triệu chứng hiện hữu có phải trước kia đã biểu hiện dưới một hình thức nào đó chăng. Nhiều khi đối tượng không tự xem mình là có bệnh mà lại than phiền với người thầy thuốc là vợ hay chồng mình bị rối nhiễu, có khi trong một cặp vợ chồng người khám bệnh lại bị bệnh nhẹ hơn, mà người không tự nhận là mình có rối nhiễu lại bị nặng. III.ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TRONG KHÁM BỆNH 1.Thầy thuốc và bệnh nhân 1.1.Thầy thuốc:Trong xã hội, cùng với bố mẹ, cán bộ nhà nước ( ngày xưa gọi là ông quan) còn có những ông thầy: Thầy giáo, thầy thuốc, thầy tu( thầy cúng, thầy mo..) Đặc điểm của người thầy là: -Không có quan hệ huyết thống với đối tượng. -Không sử dụng quyền lực nhà nước như ông quan -Không tác động lên vật chất như người thợ mà tác động lên con người Để tác động lên con người, người thầy phải: - Nắm được một học thuật nhất định. "Thuật" tức là cách làm, "học" là vốn kiến thức có hệ thống, có bằng cấp hay chức vị - Không có quyền lực nhưng được 2 bên thỏa thuận cho nên có thể tìm hiểu những tình tiết thầm kín của con người như có thể cởi áo quần để khám, hỏi về tâm tư riêng, quan hệ nội bộ, vì vậy người thầy phải giữ bí mật nghề nghiệp, không được phổ biến những gì thầm kín đã phát hiện. - Cần có tinh thần trách nhiệm, làm hết khả năng đối với người bệnh. - Phải đối xử bình đẳng với mọi người, không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo. - Tránh đặt người bệnh vào thế thụ động, chỉ biết nhờ vào sự giúp đỡ của người khác. Cần lưu ý về khía cạnh tâm lý tính chủ động của đương sự là rất quan trọng. Tác động cả về mặc ý thức và vô thức. Tác động thông qua ngôn ngữ và cả những tín hiệu phi ngôn ngữ. Vì vậy một đức tính cần thiết là người thầy cần cảm nhận được những phản ứng phi ngôn ngữ và vô thức của bản thân khi đứng trước người này, người khác, đứng trước những thái độ hay hành vi này khác. Không có đức tính này, không thể làm thầy được. 1.2.Về phía bệnh nhân - Có quyền đòi hỏi sự giúp đỡ của người thầy và đặt tín nhiệm vào sự tận tình và hiểu biết của người thầy. - Có nhiệm vụ làm đúng theo những chỉ định của người thầy như cần nghỉ ngơi, cách ly. - Cần tích cực hợp tác với người thầy và có những cố gắng bản thân. Như vậy mối quan hệ giữa người thầy, là bác sĩ hay là nhà tâm lý với bệnh nhân là một mối quan hệ đặc biệt, dựa trên nhiều yếu tố tâm lý xã hội, và phần nào pháp lý. Chưa nói đến thuốc men, hay bất kỳ biện pháp trị liệu nào được đề xuất, chỉ riêng việc tiếp xúc với người thầy, mối quan hệ qua lại giữa hai bên trong quá trình khám và chữa đã có tác dụng trị liệu. Trong y học thường nói bản thân người thầy thuốc đã là một vị thuốc, nhiều khi còn quan trọng hơn một hóa chất nào đó. Có thể diễn ra những tình huống: - Bệnh nhân hôn mê, lên cơn cuồng động, trong tình trạng cấp cứu hoàn toàn bị động, người thầy hoàn toàn chủ động. - Người thầy chủ động chẩn đoán và chỉ định cách chữa, bệnh nhân hợp tác. - Bệnh kéo dài qua nhiều giai đoạn hay bước ngoặt đòi hỏi nhiều sự thay đổi trong tâm tư hay cuộc sống của người bệnh. Đây là trường hợp phức tạp, nhiều khi chính người thầy cũng đâm ra lo hãi rồi viện lẽ này lẽ khác để thoái thác như thiếu thì giờ, như đôí trách nhiệm sang cho một chuyên khoa khác và chuyển đến thầy này hay thầy khác. 2.Những đặc điểm tâm lý trong khám bệnh Phòng khám yên tỉnh không có ai ra vào trong lúc khám, trong những trường hợp phức tạp không để sinh viên tham dự, người thầy không ngồi gần quá cũng không xa quá, thường không nên trực diện, mặt đối mặt mà ngồi né một bên. Có khi cần khám với sự có mặt của người thân, có khi chỉ cần có một mình bệnh nhân, không nên khám hỏi quá vội vàng cũng không kéo dài quá. Khi khám người thầy vận dụng một số thao tác : Quan sát, hỏi han, khám và thử nghiệm, ba thao tác này quyện vào nhau, không nhất thiết cái trước, cái sau theo một trình tự nhất định. Khi hỏi bệnh nên để người bệnh tự nói ra nhưng không để bệnh nhân nói thao thao bất tuyệt, và cuối cùng hỏi một số câu vào những điểm chưa được nói đến hoặc chưa rõ ràng. Hỏi bệnh là một "kỹ thuật" cần được tiến hành chặt chẽ, vừa là một "nghệ thuật" cần được tiến hành một cách linh động. Trong lúc khám thông qua những câu hỏi, đối đáp làm cho người bệnh yên tâm và cũng có dịp để tâm sự những điều thầm kín của mình để giải tỏa bớt. Người bệnh thường bắt đầu nói triệu chứng hiện đang làm rối nhiễu cuộc sống: Một triệu chứng hoặc mang tính thể chất, như đau nhức hay rối loạn một chức năng sinh lý nào đó, hoặc mang tính chất tâm lý như quên, thay đổi tính tình hoặc xung đột trong cuộc sống xã hội. Điều đầu tiên là phân tích kỹ triệu chứng trên cơ sở hiểu biết nhất định về các loại bệnh chứng và rối nhiễu tâm lý, mặc dù sự phân tích triệu chứng đầu tiên chưa nhất thiết dẫn đến chẩn đoán. Cần tìm hiểu tính chất của triệu chứng như thời điểm xảy ra và những tình huống, tình tiết có liên quan ví dụ: uể oải xãy ra vào buổi sáng sau khi ngũ dậy hay buổi chiều sau khi lao động về. Khám nghiệm tâm lý có thể tiến hành sau , trước hay cùng một lúc với khám y khoa. Bác sĩ Y khoa vừa đồng thời biết tâm lý là rất thuận lợi. Không phải lúc nào khám y khoa cũng cho những kết quả rõ ràng, trong nhiều trường hợp, thầy thuốc không tìm ra một tổn thương thực thể nào, rồi đó gọi là triệu chứng chức năng, đối với thầy thuốc chưa học tâm lý điều này nói lên sự bất lực của y học, rồi hoặc bỏ qua, hoặc đưa đâíy bệnh nhân đến chuyên khoa tâm thần. Những rối nhiễu tâm lý có thể gặp ở tất cả các chuyên khoa, những triệu chứng thực thể dẫn đến thầy thuốc như: nhức đầu, nhức xương, rối loạn tim mạch, nhiều khi chỉ là một cách vô thức kêu cứu để mong có sự giúp đỡ về tâm lý, đằng sau những triệu chứng là những nỗi khổ, nan giải trong cuộc sống.. Tóm lại: Ngay từ lúc đầu trong quá trình khám quan sát theo dõi dáng mạo, tư thế , cách đứng ngồi, cử động, nét mặt, nếp nhăn ở trán, đôi mắt quầng đen, nét mặt bi?n động, nhìn thẳng hay tránh né, nhìn xuống đất hay ngẫng đầu. Về ngôn ngữ có thể mất luôn hay ngập ngừng, tự nói hay chỉ trả lời câu hỏi, rụt rè, giọng nói cao thấp, ngôn ngữ thô lỗ, tế nhị... Quan sát tư thế, vận động , ngôn ngữ có thể thực hiện trong lúc tiếp xúc giữa hai bên. Người thầy có kinh nghiệm sau buổi tiếp xúc đã thu thập những thông tin có giá trị (con mắt tinh đời) hoặc vận dụng một số trắc nghiệm vận động, ngôn ngữ. 3.Chẩn đoán tâm lý Sau khi tập hợp được các thông tin thu được trong khám nghiệm cần vẽ ra được toàn bộ nhân cách của người bệnh với những mặt như thể trạng, trí năng, văn hóa, cá tính. -Trong phần chẩn đoán bệnh cần chú ý chẩn đoán phần nhân cách và trạng thái tâm lý người bệnh trên những nét tâm lý đại cương. Có loại người nghi bệnh, trầm cảm , bi quan, ngược lại có loại người lạc quan vô tư quá mức hoặc mặc kệ coi thường bệnh tật vì vậy việc xác định nhân cách và trạng thái tâm lý của người bệnh trong mối liên quan với bệnh tật và hoàn cảnh gây bệnh, hình ảnh bên trong của bệnh và đặc điểm nhân cách bên ngoài của ngưòi bệnh là điều rất cần thiết. Dựa vào sự đánh giá nhân cách và trạng thái tâm lý người bệnh để đề ra nghệ thuật tiếp xúc, chẩn đoán tâm lý , điều trị tâm lý. Tóm lại thấy rõ "con người " chứ không phải như trong y học chỉ thấy "ca bệnh”, tệ hơn nữa chỉ thấy một triệu chứng, một đặc điểm nào đó (Huyết áp, điện não, điên tâm đồ...) Câu hỏi đầu tiên là: Con người này khỏe hay yếu. Khỏe cần hiểu theo nghĩa là có khả năng thích nghi với mọi biến động trong môi trường, đáp ứng với những đòi hỏi và thách thức trong lao động và cuộc sống. Thách thức không những về thể lực mà cả về tâm trí. Câu hỏi thứ 2 là: Con người này dại hay khôn, có thể đặt các câu hỏi, gợi ý kể chuyện và đánh giá qua những yếu tố cơ bản: -Trí nhớ -Khả năng chú ý vào một điểm nào đó -Khả năng định hướng trong không gian -Khả năng định hướng thời gian -Đánh giá khả năng suy tư -Đánh giá khả năng suy luận phán đoán IV. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁC ĐỘNG TÂM LÝ 1.Mục đích - Vận dụng kiến thức và phẩm chất tâm lý y học vào công tác điều trị - Vận dụng tâm lý y học để tác động lên bệnh nhân các quá trình tâm lý, trạng thái tâm lý, đặc điểm tâm lý cá nhân. - Áp dụng tâm lý y học tham gia tích cực vào công tác điều trị toàn diện, điều trị bằng tâm lý để rút ngắn ngày điều trị. 2.Yêu cầu - Người thầy thuốc là một nhà tâm lý học, có kiến thức y học và tâm lý học, có phẩm chất đạo đức y học của người thầy thuốc Xã Hội Chủ Nghĩa - Luôn rèn luyện phẩm chất tâm lý, áp dụng tâm lý học hai chiều ( tác động cho bệnh nhân và cho chính mình) 3.Ý nghĩa -Điều chỉnh các rối loạn hiện tượng tâm lý ( cảm giác , tâm trạng, nhân cách, ...) -Bình thường hóa nhận thức về bệnh tật không hoang mang lo sợ. -Thích nghi với môi trường bệnh viện cũng như ở nhà -Nâng cao nhận thức phòng bệnh, tự phấn đấu loại trừ các bệnh chức năng do nguyên nhân tâm lý. -Cũng cố tâm lý bệnh nhân qua các giai đoạn bệnh lý -Chuẩn bị cho bệnh nhân về sống hài hòa với gia đình và xã hội 4.Các phương pháp tác động tâm lý bệnh nhân 4.1.Phương pháp gián tiếp - Tâm lý môi trường tự nhiên: Quang cảnh , cây xanh, vườn hoa, bóng mát, phòng bệnh, trang thiết bị, khí hậu , nhiệt độ, màu sắc ( tùy theo bệnh lý để có màu sắc thích hợp có tác động tâm lý bệnh nhân (đen xám ức chế gây buồn, bệnh nhân tim mạch lo sợ màu đỏ, 60% bệnh nhân cường giáp thích màu tím ....) - Tâm lý môi trường xã hội:Sự tác động của gia đình , cơ quan, xóm làng, tinh thần thái độ Bác sỹ , y tá , hộ lý.. 4.2.Phương pháp tác động trực tiếp - Lời nói: Nhỏ nhẹ , dịu dàng, khuyến khích an ủi bệnh nhân - Ám thị bằng lời nói : Thầy thuốc ám thị bệnh nhân để bệnh nhân tin tưởng, an tâm điều trị, - Thôi miên ( ám thị trong giấc ngủ): Bác sỹ cho bệnh nhân đi vào giấc ngủ bằng lời nói, ám thị , hoặc những kích thích đơn điệu đều đều. Bệnh nhân được ngũ không hoàn toàn có khoảng tỉnh dành cho bác sỹ thôi miên điều khiển, bệnh nhân chỉ nghe theo hướng dẫn của thầy thuốc về chữa bệnh và làm theo lời bác sỹ. Trong thôi miên người bệnh chịu ảnh hưởng rất lớn của thầy thuốc . Chữa bệnh thôi miên có kết quả đối với những bệnh rối loạn chức năng. - Điều trị nhóm: Thầy thuốc điều khiển một nhóm bệnh nhân trao đổi lẫn nhau để chữa bệnh - Dùng chế phẩm thuốc Placebos. - Các phương pháp không dùng thuốc: Dưỡng sinh thái cực quyền, yoga, giải trí, thể thao, du lịch.. - Tâm lý học điều trị trong điều trị toàn diện - Giữ bí mật cho bệnh nhân: Bệnh nhân nào cũng có nỗi niềm riêng không muốn cho người khác biết thầy thuốc phải giữ bí mật cho bệnh nhân nếu điều đó không ảnh hưởng đến an ninh xã hội. Đối với bí mật có hại thầy thuốc phải biết phân tích vận động để bệnh nhân xử thế đúng đắn. Những bí mật có hại cho xã hội thầy thuốc phải ngăn chặn và đồng thời báo các ngành hữu quan. - Phải có lập trường giai cấp trong phục vụ bệnh nhân: Trong khám chữa bệnh không phân biệt đối xử giàu nghèo, già trẻ, xấu đẹp.. Đối với người lao động , người có công, cần được quan tâm,thể hiện tình cảm giai cấp , gần gũi họ - Chú ý công tác truyền thông GDSK trong thời gian điều trị - Chống đau đớn cho bệnh nhân: Chống đau là vấn đề hết sức quan trọng trong tâm lý y học, thầy thuốc phải chú ý điều trị bằng tâm lý kết hợp với các loại thuốc an thần , chống đau.., không nên điều trị chống đau kéo dài mà chủ yếu điều trị bằng tâm lý hoặc dùng thuốc thế phẩm (placebo) làm cho bệnh nhân yên tâm tin tưởng - Điều trị bằng tâm lý : Các nhà khoa học đều thấy trên 80% bệnh có thể tự khỏi mà không cần điều trị, vì vậy trong điều trị phải áp dụng điều trị bằng tâm lý. Trong thực tiễn có nhiều bệnh do nguyên nhân tâm lý nếu không chữa khỏi bằng tâm lý bệnh có thể chuyển từ cơ năng thành thực thể, tồn tại suốt đời. Điều trị tâm lý có thể kết hợp thuốc, xoa bóp... - Giải quyết tốt các khâu đối với bệnh nhân ra vào viện: Từ phòng bảo vệ đến phòng tiếp đón đến phòng khám đến bệnh phòng các khâu phải hoàn chỉnh, chăm sóc chu đáo. Khi chuyển khoa phải đả thông và có cán bộ đưa đi. Khi ra viện phải có hướng dẫn cụ thể nếu được thỉnh thoảng có thể đến thăm lại bệnh nhân. Khi bệnh nhân hấp hối phải tích cực hết lòng cứu chữa, nếu bệnh nhân chết phải làm tốt quy chế đối với người bệnh tử vong: ít nhất có hai Bác sỹ chứng kiến, vuốt mắt, thay áo.. và đưa đến nhà vĩnh biệt thì chú ý phong tục tập quán tôn giáo, theo yêu cầu của gia đình.
File đính kèm:
- giao_trinh_tam_li_y_hoc_phan_1.pdf