Giáo trình Tâm lí học xã hội

Trong đời sống và hoạt động của nhóm xã hội sẽ luôn luôn diễn ra sự kế thừa, lây lan và bắt chước lẫn nhau về những phương thức sống, hành vi, hoạt động của con người. Sự kế thừa những tinh hoa, di sản quý báu của quá khứ hay của các nhóm xã hội khác được diễn ra một cách thường xuyên, tích cực, tự giác, sáng tạo và ngày càng cao hơn. Trong các điều kiện cụ thể của quan hệ qua lại, giao tiếp xã hội, những hiện tượng tâm lý luôn lan truyền từ người này sang người khác, từ nhóm tập thể này sang nhóm tập thể khác làm cho các hiện tượng tâm lí xã hội càng phong phú, phức tạp hơn. Trên cở đó, quá trình bắt chước lẫn nhau, là sự phản ánh nguyên mẫu hành vi phản ứng của người khác, một sự mô phỏng lại đối tượng của các hoạt động xã hội và giao tiếp xã hội đó cũng được nảy sinh. Qui luật bắt chước là hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân. Bởi vì nhóm xã hội là tập hợp nhiều người cùng hoạt động theo những mục đích, nhiệm vụ cụ thể để cùng nhau hoạt động, cần được thống nhất hành động theo một phương thức nào đó mà trong nhiều trường hợp con người chưa kịp nhận thức đầy đủ ý nghĩa của hoạt động mà làm theo người khác. ở mỗi lứa tuổi khác nhau trong quá trình phát triển cá thể mức độ bắt chước cũng khác nhau: từ bắt chước thao tác đến hành vi, hành động; từ bắt chước vô thức đến có ý thức. Bắt chước trong nhóm diễn ra trong suốt quá trình xã hội hoá con người, là một phương thức tâm lí xã hội cần thiết đảm bảo cho con người tiếp thu và lĩnh hội những kinh nghiệm sống và hoạt động của người khác.

doc 156 trang thom 03/01/2024 3440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Tâm lí học xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Tâm lí học xã hội

Giáo trình Tâm lí học xã hội
GIÁO TRÌNH
TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
Chương 1
Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu 
của tâm lí học xã hội- tâm lí học xã hội quân sự 
Xác định đối tượng nghiên cứu là vấn đề đầu tiên đặt ra cho bất cứ một khoa học nào, bởi vì nó trả lời cho câu hỏi: nghiên cứu cái gì? Đối tượng của một khoa học nằm ở bản chất của các hiện tượng mà khoa học ấy coi là khách thể nghiên cứu, do vậy, việc xác định đối tượng của tâm lí học xã hội cần phải đi từ tìm hiểu hiện tượng tâm lí xã hội là gì, bản chất của nó như thế nào.
I. Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học xã hội
1. Hiện tượng tâm lí xã hội
a. Hiện tượng tâm lí xã hội là gì?
Sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân bao giờ cũng thuộc vào các nhóm xã hội. Trong cuộc sống, hoạt động và sinh hoạt, mỗi nhóm xã hội thường nảy sinh những hiện tượng tâm lý chung cho tất cả mọi người và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với cộng đồng. Trên nền tảng tâm lý cá nhân, các hiện tượng tâm lý chung của nhóm, cộng đồng xã hội như dư luận xã hội, tâm trạng xã hội, truyền thống, nhu cầu xã hội được hình thành. Những hiện tượng tâm lí xã hội là hiện tượng được xuất hiện ở số đông người, do kết quả giao tiếp, tác động qua lại giữa người với người thuộc các nhóm xã hội khác nhau trong cuộc sống và hoạt động cùng nhau, cùng phản ánh những điều kiện lịch sử- xã hội như nhau.
b. Phân loại hiện tượng tâm lí xã hội.
Hiện tượng tâm lí xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp, bởi nó là sự phản ánh sinh động thực tế cuộc sống. Người ta phân loại các hiện tượng tâm lí xã hội dựa trên những căn cứ khác nhau. Khi nghiên cứu các hiện tượng tâm lí xã hội có thể căn cứ vào mức độ ảnh hưởng nhiều hay ít của các hiện tượng tâm lí xã hội; tính chất tác động mạnh yếu của chúng; sự bền vững hay tạm thời; phạm vi ảnh hưởng rộng hay hẹp theo đó có:
- Nhóm thứ nhất bao gồm các hiện tượng tâm lí xã hội của nhóm như tâm lý nhóm lớn, tâm lý nhóm nhỏ, tâm lý nhóm vừa.
- Nhóm thứ hai gồm các hiện tượng tâm lí xã hội tạo ra bản sắc dân tộc, cộng đồng, thực hiện chức năng duy trì tồn tại xã hội như truyền thống, phong tục tập quán, thói quen, tín ngưỡng, nghi lễ giao tiếp xã hội...
- Nhóm thứ ba là các hiện tượng tâm lí xã hội hình thành do tác động tổng hợp chung, có ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội, tạo ra sắc thái cảm xúc cho xã hội như dư luận xã hội, tâm trạng xã hội, bầu không khí tâm lý chung, uy tín trong xã hội, tâm thế, định hướng giá trị xã hội...
- Nhóm thứ tư gồm các quá trình tâm lí xã hội có ảnh hưởng mạnh về cường độ nhưng thiếu tính ổn định và bền vững trong đời sống của nhóm và cộng đồng như bắt trước, lây lan tâm lý, thi đua, tranh đua, đồng cảm ác cảm, ám thị...
2. Bản chất, quy luật hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lí xã hội 
 a.Bản chất hiện tượng tâm lí xã hội.
Mỗi một cá nhân bao giờ cũng tồn tại trong một nhóm, một xã hội nhất định và hoạt động giao tiếp của họ luôn diễn ra trong các điều kiện xã hội lịch sử nhất định. Do đó, tâm lý cá nhân là cơ sở để hình thành tâm lí xã hội. Nhưng hiện tượng tâm lí xã hội không phải là sự cộng lại của tâm lý cá nhân mà nó mang bản chất xã hội sâu sắc, là sản phẩm của hoạt động chung, những điều kiện xã hội lịch sử chung.
Hiện tượng tâm lí xã hội bao giờ cũng là tâm lý chung của nhiều người, chủ thể của tâm lí xã hội là nhóm xã hội: có nhóm lớn, nhóm nhỏ; nhóm chính thức - nhóm không chính thức; nhóm đặc biệt là đám đông. ở trong nhóm xã hội, hoạt động xã hội, quan hệ qua lại và giao tiếp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng quyết định sự biểu hiện về nội dung cũng như hình thức của tâm lí xã hội. Hiện tượng tâm lí xã hội tồn tại và biểu hiện sinh động trong nhóm xã hội. ở trong nhóm xã hội diễn ra quá trình xã hội hoá, mỗi cá nhân chịu sự tác động ảnh hưởng của nhóm, của cái chung. Đồng thời cá nhân cũng tác động ảnh hưởng tới cá nhân khác và toàn nhóm, cộng đồng. Sự tác động qua lại diễn ra trong nhóm xã hội, chi phối điều chỉnh thái độ hành vi tâm lý nói chung của cá nhân, thành viên của nhóm, dẫn đến kết quả là hình thành nên tâm lý chung, tâm lí xã hội. Do đó có thể kết luận rằng, tâm lí xã hội là tâm lý của một nhóm xã hội nhất định phản ánh những điều kiện xã hội lịch sử chung nhất định nảy sinh từ sự tác động qua lại trong hoạt động và giao tiếp giữa các cá nhân trong nhóm. Chừng nào còn tồn tại xã hội, các nhóm xã hội với các mối quan hệ qua lại giao tiếp của những cá nhân thì chừng đó còn sự tồn tại và phát triển của hiện tượng tâm lí xã hội - hiện tượng tâm lý đặc trưng của các nhóm xã hội.
b.Quy luật hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lí xã hội
Sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lí xã hội có tính quy luật, đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt, làm rõ cơ sở cho nghiên cứu và vận dụng để định hướng, điều khiển nó phục vụ cho thực tiễn cuộc sống.
- Các hiện tượng tâm lí xã hội được hình thành và phát triển từ nguồn gốc tồn tại xã hội, từ thực tiễn cuộc sống.
Đây là quan điểm duy vật lịch sử về sự nảy sinh và phát triển của tâm lí xã hội. Tồn tại xã hội là cái có trước, tâm lí xã hội là cái có sau. Tâm lý xã hội là biểu hiện cụ thể của sự phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh những điều kiện xã hội lịch sử cụ thể vào các nhóm và cộng đồng xã hội. Nội dung của tồn tại xã hội của thực tiễn cuộc sống là nguồn gốc khách quan quyết định đến nội dung và các hình thức biểu hiện của các hiện tượng tâm lí xã hội. Tồn tại xã hội đựơc hiểu là toàn bộ các mối quan hệ người - người trong xã hội như quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, tôn giáo, dân tộc... Các quan hệ xã hội đảm bảo cho một xã hội tồn tại và phát triển. Tồn tại xã hội nào thì có tâm lí xã hội tương ứng, phản ánh thực tại xã hội sinh động, trung thực, phức tạp như thực tiễn cuộc sống vậy.
- Cái chung, cái riêng và cái đơn nhất thống nhất trong các hiện tượng tâm lí xã hội.
Cái chung được hiểu là những hiện tượng tâm lí xã hội có tính nhân loại, chi phối đến tất cả loài người trên hành tinh và chúng mang tính phổ biến, tính thời đại, tính nhân bản trong tâm lí xã hội, là nét chung của các dân tộc. Cái chung của xã hội như nhu cầu, lợi ích, tình cảm, định hướng giá trị... là những hiện tượng tâm lí xã hội phổ biến của các hình thái xã hội, của các mức độ phát triển xã hội.
Cái riêng được hiểu là những hiện tượng tâm lí xã hội của một dân tộc, nhóm, tập thể mang đặc trưng riêng của dân tộc, nhóm, tập thể nhất định.
Cái đơn nhất: mỗi hiện tượng tâm lí xã hội vận động và phát triển khác nhau ở các nhóm xã hội, không lặp lại. Sở dĩ có như vậy là vì mỗi nhóm xã hội có qui mô, tính chất khác nhau, mỗi hiện tượng tâm lí xã hội mỗi nhóm được hình thành chịu sự chi phối của điều kiện xã hội lịch sử cụ thể. Ví dụ: cùng phản ánh một sự kiện xã hội, nhưng dư luận xã hội trong đơn vị quân đội có đặc trưng riêng khác với các tập thể của xã hội.
- Qui luật về mối quan hệ qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau giữa người với người trong quá trình giao tiếp - là nhân tố hình thành các hiện tượng tâm lí xã hội.
Nội dung của quy luật này thể hiện ở chỗ: nguồn gốc của mọi hiện tượng tâm lý thuộc về mỗi cá nhân, không thể có hiện tượng tâm lý nằm ngoài cá nhân, tập thể và nhóm người nhất định. Không thể có hiện tượng tâm lí xã hội nếu chỉ xét ở bình diện cá nhân riêng lẻ hoặc cộng từng cá nhân mà thành. Hiện tượng tâm lí xã hội chỉ nảy sinh, hình thành, phát triển trong mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân trong lao động, giao tiếp xã hội vì một mục đích hoạt động chung nào đó.
Trên nền tảng của mối liên hệ liên nhân cách, thông qua giao tiếp, quan hệ mà tâm lý cá nhân này ảnh hưởng đến cá nhân khác... cứ tiếp diễn liên tục trong quan hệ nhiều người, các hiện tượng tâm lí xã hội được hình thành và phát triển nhằm duy trì sự ổn định của nhóm xã hội. Tạo cho nhóm xã hội phát triển với những nội dung và hình thức mới phù hợp với quan hệ xã hội có thực trong nhóm xã hội. Khi đã xuất hiện các hiện tượng tâm lí xã hội thì chúng lại tác động vào nhóm xã hội, các quan hệ xã hội, đến mỗi cá nhân trong nhóm bằng con đường giao tiếp để định hướng, điều chỉnh hành vi của mọi người phù hợp với chuẩn hành vi của toàn nhóm xã hội. Đó là mối quan hệ biện chứng của sự hình thành và phát triển, vận động của các hiện tượng tâm lí xã hội.
Những ảnh hưởng giữa các cá nhân trong giao tiếp có thể bằng nhiều phương pháp, cách thức như thông báo, truyền tin, trao đổi cá nhân, thuyết phục, ám thị, hướng dẫn, nêu gương...; ảnh hưởng của cá nhân đến người khác có thể bằng tự khẳng định, uy tín, đạo đức, tài năng... và sự đánh giá, thừa nhận của xã hội về họ.
- Qui luật kế thừa, lây lan và bắt chước trong nhóm xã hội.
Trong đời sống và hoạt động của nhóm xã hội sẽ luôn luôn diễn ra sự kế thừa, lây lan và bắt chước lẫn nhau về những phương thức sống, hành vi, hoạt động của con người. Sự kế thừa những tinh hoa, di sản quý báu của quá khứ hay của các nhóm xã hội khác được diễn ra một cách thường xuyên, tích cực, tự giác, sáng tạo và ngày càng cao hơn. Trong các điều kiện cụ thể của quan hệ qua lại, giao tiếp xã hội, những hiện tượng tâm lý luôn lan truyền từ người này sang người khác, từ nhóm tập thể này sang nhóm tập thể khác làm cho các hiện tượng tâm lí xã hội càng phong phú, phức tạp hơn. Trên cở đó, quá trình bắt chước lẫn nhau, là sự phản ánh nguyên mẫu hành vi phản ứng của người khác, một sự mô phỏng lại đối tượng của các hoạt động xã hội và giao tiếp xã hội đó cũng được nảy sinh. Qui luật bắt chước là hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn cá nhân. Bởi vì nhóm xã hội là tập hợp nhiều người cùng hoạt động theo những mục đích, nhiệm vụ cụ thể để cùng nhau hoạt động, cần được thống nhất hành động theo một phương thức nào đó mà trong nhiều trường hợp con người chưa kịp nhận thức đầy đủ ý nghĩa của hoạt động mà làm theo người khác. ở mỗi lứa tuổi khác nhau trong quá trình phát triển cá thể mức độ bắt chước cũng khác nhau: từ bắt chước thao tác đến hành vi, hành động; từ bắt chước vô thức đến có ý thức. Bắt chước trong nhóm diễn ra trong suốt quá trình xã hội hoá con người, là một phương thức tâm lí xã hội cần thiết đảm bảo cho con người tiếp thu và lĩnh hội những kinh nghiệm sống và hoạt động của người khác.
3. Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học xã hội-tâm lý học xã hội quân sự 
Với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với thành tựu của tâm lí học và xã hội học ảnh hưởng, chi phối đến mọi lĩnh vực của cuộc sống làm cho tâm lí học xã hội hình thành và phát triển. Việc xem xét đối tượng của tâm lí học xã hội đòi hỏi chúng ta phải tính đến bối cảnh của sự phát triển kinhh tế - xã hội và sự tác động ảnh hưởng của khoa học nói chung cũng như tâm lí học nói riêng. Do ở trong những điều kiện xã hội lịch sử khác nhau, lập trường giai cấp và phương pháp luận khác nhau cho nên trong lịch sử tâm lí học xã hội có những quan điểm khác nhau xoay quanh vấn đề đối tượng của tâm lí học xã hội.
Người đưa ra thuật ngữ tâm lí học xã hội đầu tiên là Tarde (1903). Theo ông, đối tượng nghiên cứu của tâm lí học xã hội là những ứng xử cá nhân do những quy định xã hội chi phối. Ông là người đặt nền móng cho những nghiên cứu về dư luận xã hội, thái độ và bắt chước trong xã hội. Tiếp theo Lebon cho rằng đám đông, tâm lý của đám đông là đối tượng quan trọng của tâm lí học xã hội.
Durkheim (1897), một nhà xã hội học Pháp với cách tiếp cận “xã hội phát sinh” cho rằng hành vi của cá nhân là kết quả của ảnh hưởng môi trường xã hội, các quy tắc xã hội. Ông cũng cho rằng xã hội không thể qui thành các cá nhân hợp thành nó, cũng hệt như những biểu tượng tập thể khác với những biểu tượng và những xúc cảm cá nhân.
Trong tâm lí học đã từng có cách tiếp cận tâm lí xã hội của cá nhân, với cách xem xét này đối tượng của tâm lí học xã hội là tâm lý xã hội của cá nhân, là con người trong mối liên hệ với toàn bộ các quan hệ xã hội. Theo đó, bản chất liên hệ của con người không có gì khác là giao tiếp ứng xử. Từ giao tiếp ứng xử tạo ra những hiện tượng tâm lí xã hội. 
Nhiều nhà tâm lí học Mĩ như E.Miler, J.Dollar nghiên cứu quá trình xã hội hoá của con người. Allport( 1924 ) xác định đối tượng của tâm lí học xã hội là những liên hệ của con người với môi trường - đó là những liên hệ hiện thực hoặc được tưởng tượng ra hoặc truyền từ người này sang người khác trong bối cảnh xã hội nhất định, khi những liên hệ đó tác động vào những người trong hoàn cảnh đó. Theo họ, liên hệ được hiểu chủ yếu là liên hệ giữa các cá nhân (liên nhân cách).
Gergen (1981) cho rằng đối tượng của tâm lí học xã hội chính là “nghiên cứu có hệ thống những tác động qua lại của con người và những cơ sở tâm lý của chúng”. Sự nghiên cứu có hệ thống theo ông có ba yếu tố: Sự phát triển của một lý luận, chỗ dựa kinh nghiệm cho lý luận và khuyến khích hành động.
Worcher và Cooper (1976) coi đối tượng của tâm lí học xã hội là nghiên cứu về những điều kiện, trong đó có cá nhân chịu tác động bởi hoàn cảnh nhất định. Theo tác giả, hoàn cảnh thể hiện ở hai khía cạnh: một là, trong đó một hành vi ứng xử được thể hiện ra; hai là, gắn liền với bối cảnh, là sự lý giải vì sao lại có hành vi ứng xử như vậy... Từ đó, họ đi đến khẳng định rằng bằng cách thay đổi hoàn cảnh thì người ta có thể làm thay đổi cá nhân.
Một hướng tiếp cận của tâm lí học xã hội Mác xít là của H.Hipsơ và M.Phorvee với quan điểm cho rằng: “Sự hợp tác giữa con người với con người- là điểm xuất phát cơ bản của sự nghiên cứu tâm lí học xã hội, còn đối tượng nghiên cứu của khoa học này là sự tác động có tính xã hội”
Tóm lại, trong quá trình phát triển của khoa học đối tượng của tâm lí học xã hội dù trình bày theo quan điểm nào thì nhân tố con người xã hội, bản chất xã hội của con người, con người và tâm lý con người sống và hoạt động trong các nhóm xã hội là vấn đề được coi trọng và xem xét một cách cơ bản nhất. Kế thừa những cách tiếp cận nói trên có thể khẳng định rằng: Đối tượng nghiên cứu của tâm lí học xã hội chính là các hiện tượng tâm lí xã hội, các quy luật tâm lí xã hội được hình thành và phát triển trong các nhóm xã hội. Tuy nhiên các hiện tượng tâm lí xã hội có nhiều loại và phong phú, đa dạng; tâm lí học xã hội tập trung vào những hiện tượng tâm lí xã hội chung nhất, điển hình có tác dụng điều chỉnh hành vi của toàn bộ cá nhân và cộng đồng xã hội tham gia trong quá trình hoạt động của nhóm, của xã hội.
Tâm lí học xã hội là một khoa học đang phát triển mạnh mẽ và xâm nhập vào nhiều lĩnh vực của cuộc sống hình thành nên các chuyên ngành của tâm lí học xã hội như tâm lí học xã hội trong sản xuất kinh doanh, tâm lý học xã hội trong lãnh đạo quản lý xã hội, tâm lý học xã hội quân sự... Tâm lý học xã hội quân sự là một chuyên ngành của tâm lí học xã hội, một lĩnh vực của tâm lý học quân sự nghiên cứu sự hình thành phát triển của các hiện tượng tâm lí xã hội, các quy luật tâm lí xã hội trong các nhóm, tập thể quân nhân trong điều kiện hoạt động quân sự.
II. Nhiệm vụ nghiên cứu của tâm lí học xã hội, tâm lý học xã hội quân sự.
1. Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
Đây là những nhiệm vụ cơ bản, xác định sự tồn tại và phát triển của khoa học tâm lí học xã hội nói chung và tâm lý học xã hội quân sự nói riêng.
- Xây dựng hệ thống các phạm trù, khái niệm khoa học cơ bản của tâm lí học xã hội, tâm lý học xã hội quân sự, đồng thời hoàn thiện và phát triển chúng. Tâm lí học xã hội là khoa học còn non trẻ, do vậy những phạm trù, khái niệm cơ bản cũng phải nghiên cứu và xác định rõ ràng. Việc xây dựng một hệ thống phạm trù, khái niệm khoa học của tâm lí học xã hội nằm trong một cấu t ... án bộ đúng người, đúng việc đúng chuyên môn sở trường sẽ tạo điều kiện để mỗi người phát huy năng lực của mình trong quá trình lãnh đạo, quản lý. Sắp xếp, bố trí cán bộ còn phải tính đến sự tương hợp tâm lý giữa họ. Sự tương hợp tâm lý là cơ sở để xây dựng mối quan hệ tình cảm khăng khít giữa những người lãnh đạo, sự phối hợp hoạt động giữa họ sẽ tốt hơn và đó là điều kiện để ngăn chặn bất đồng, mâu thuẫn trong quá trình hoạt động.
2. Giáo dục cho các thành viên trong tập thể có định hướng giá trị đúng đắn.
Để tạo nên sự thống nhất định hướng giá trị trong các tập thể quân nhân cần tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
a) Nâng cao giác ngộ chính trị-tư tưởng cho các thành viên trong tập thể.
Là một khía cạnh của đời sống tinh thần, do vậy, bầu không khí tâm lý tập thể chịu sự chi phối rất lớn bởi hệ tư tưởng đang thống trị trong xã hội và đời sống chính trị của đất nước. Nâng cao giác ngộ chính trị cho các thành viên trong tập thể không những góp phần xây dựng ở họ niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật của nhà nước mà còn góp phần điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên trong tập thể theo hướng ngày càng tốt đẹp.
Để nâng cao giác ngộ chính trị tư tưởng cho các thành viên trong tập thể, công tác giáo dục cần làm rõ tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong các giai đoạn lịch sử của đất nước. Giáo dục chính trị tư tưởng ở các tập thể quân nhân cũng cần làm rõ những thành tựu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước đồng thời đấu tranh kiên quyết với những quan điểm sai trái, phê phán những biểu hiện lệch lạc trong cuộc sống, trái với đạo đức xã hội chủ nghĩa.
b) Xây dựng cho các thành viên trong tập thể có định hướng giá trị nghề nghiệp đúng đắn.
Định hướng giá trị nghề nghiệp đúng đắn có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân. Khi mọi thành viên trong tập thể ý thức được trách nhiệm của mình trước sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, coi binh nghiệp là hướng lựa chọn của cuộc đời, đây chính là cơ sở để tạo nên sự cố kết gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng chung lý tưởng.
Để xây dựng cho mọi thành viên trong tập thể có định hướng giá trị nghề nghiệp đúng đắn cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Giáo dục để các thành viên trong tập thể thấy rõ ý nghĩa xã hội cao cả của hoạt động quân sự. Mọi quân nhân phải ý thức đúng đắn rằng: quân đội ta với tư cách là một lực lượng chính trị, một công cụ đặc biệt của Đảng, của giai cấp công nhân Việt Nam, lực lượng nòng cốt để xây dựng nền quốc phòng toàn dân và tiến hành chiến tranh nhân dân, do vậy phải không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược ở mọi cường độ và quy mô khác nhau.
- Làm cho mọi thành viên nhận thức sâu sắc mục đích hoạt động chung của tập thể, từ đó giúp cho mỗi người nắm được nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, đặc biệt là nhiệm vụ của đơn vị, chức trách của mỗi cá nhân. Bằng nhiều hình thức giáo dục làm chuyển hoá mục đích hoạt động chung của tập thể thành nhu cầu, mục đích hoạt động riêng của mỗi người. Trên cơ sở đó mà phát huy tính tích cực, tự giác của mỗi người trong học tập, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu.
c) Giáo dục cho các thành viên trong tập thể có định hướng giá trị đúng đắn về đạo đức, lối sống.
Giáo dục định hướng giá trị về đạo đức, lối sống trước hết hướng vào xây dựng ý thức thái độ, hành vi, pháp luật. Thông qua các hình thức giáo dục giúp cho mọi quân nhân hiểu ý nghĩa của pháp luật, những quy định của điều lệnh, điều lệ đồng thời kết hợp với tổ chức chặt chẽ mọi hoạt động của đơn vị, để nâng cao hiểu biết, hình thành thái độ tôn trọng pháp luật, tự giác điều chỉnh hành vi theo những chuẩn mực mà pháp luật và điều lệnh quân đội quy định.
Giáo dục đạo đức, lối sống còn đòi hỏi phải xây dựng được lối sống dựa trên tinh thần của chủ nghĩa tập thể và sự quan tâm sâu sắc lẫn nhau giữa các thành viên trong tập thể. Để đạt được điều đó cần làm cho tinh thần sẵn sàng hành động vì mục đích chung, vì đồng đội thấm sâu vào suy nghĩ của mọi người, đồng thời xử lý nghiêm những hành vi tiêu cực, động viên, khen thưởng kịp thời những hành vi tích cực.
3. Mở rộng dân chủ tập thể đi đôi với duy trì nghiêm kỉ luật quân đội.
a) Mở rộng dân chủ trong tập thể.
Dân chủ trong hoạt động của tập thể là tiền đề tạo ra bầu không khí tâm lý xã hội lành mạnh trong tập thể. Để mở rộng dân chủ trong tập thể quân nhân, cần thực hiện những nội dung sau đây:
- Thông qua các hình thức giáo dục mà nâng cao nhận thức của mỗi thành viên trong tập thể, làm cho mọi người nhận thức đúng đắn quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với tập thể và xã hội.
- Duy trì thường xuyên có nền nếp hình thức toạ đàm, trao đổi giữa cán bộ với chiến sĩ, tạo điều kiện để mọi quân nhân được bày tỏ tâm tư nguyện vọng quan điểm, chính kiến của mình về các vấn đề thực tiễn cụôc sống và tập thể, phát huy trí tuệ mọi người tham gia đóng góp ý kiến vào công tác lãnh đạo quản lý đơn vị.
- Bình đẳng trong nhận xét, đánh giá, đối xử. Bầu không khí tâm lý tập thể phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của người lãnh đạo trong đối xử, đánh giá, nhận xét mỗi người. Do vậy, đánh giá phải bảo đảm tính công bằng khách quan, thấy hết được những mặt ưu điểm, nhược điểm, kịp thời biểu dương mặt tốt, phê phán mặt xấu, đồng thời phải có niềm tin vào những người dưới quyền, tin vào khả năng vươn lên của mỗi người, từ đó chân tình, dìu dắt họ phấn đấu.
- Thực hiện nghiêm túc, bảo đảm chất lượng hoạt động phê bình và tự phê bình trong các tập thể quân nhân. Phê bình, tự phê bình phải tiến hành từ trên xuống dưới, đội ngũ cán bộ phải là những người gương mẫu trong lời nói và việc làm, họ phải là những người mạnh dạn trong đấu tranh, không bao che, né tránh khuyết điểm, đồng thời phải có thái độ cầu thị, tiếp thu ý kiến đóng góp một cách thoải mái, không né tránh trù úm, hoặc phê bình, tự phê bình mang tính hình thức.
b) Duy trì nghiêm kỉ luật trong tập thể.
Duy trì nghiêm kỉ luật là một biện pháp quan trọng để nâng cao bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể. Sức mạnh to lớn của kỉ luật ở chỗ nó định hướng điều chỉnh thái độ, hành vi của mọi thành viên, hướng thái độ hành vi của mọi người theo những chuẩn mực nhất định. Để duy trì nghiêm kỉ luật cần thực hiện các nội dung sau:
- Thông qua giáo dục và tổ chức hoạt động để củng cố tính kỉ luật cho mọi thành viên trong tập thể.
Củng cố tính kỉ luật cho mọi thành viên trong tập thể trước hết phải làm cho mọi người nắm vững chức trách, nhiệm vụ, yêu cầu pháp luật nhà nước, điều lệnh, điều lệ quân đội, đây chính là cơ sở để mỗi thành viên điều chỉnh đúng đắn hành vi của mình, tránh được những sai sót do thiếu hiểu biết về pháp luật, điều lệnh gây ra.
Quản lý chặt chẽ tình hình kỉ luật của tập thể. Đồng thời với nâng cao, củng cố tính kỉ luật cho mọi người thì việc quản lý chặt chẽ tình hình kỉ luật của tập thể là một nội dung quan trọng để duy trì nghiêm kỉ luật quân đội. Quản lý tốt tình hình kỉ luật của tập thể sẽ giúp cho người lãnh đạo, quản lý có các biện pháp kịp thời trong tổ chức xây dựng tập thể, đồng thời đây là yếu tố để ngăn ngừa những sai phạm có thể xảy ra trong tập thể. 
- Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm kỉ luật.
Có thể thấy rằng không gì phá hoại bầu không khí tâm lý tập thể bằng sự vi phạm kỉ luật quân đội, pháp luật nhà nước. Những vi phạm kỉ luật nếu để kéo dài sẽ dẫn đến tình trạng kỉ cương bị coi thường, những giá trị tốt đẹp trong quan hệ người, người không được coi trọng, niềm tin của các thành viên trong tập thể bị giảm sút. Do vậy, xử lý nghiêm kỉ luật là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng tập thể. Yêu cầu của xử lý kỉ luật là phải mang tính giáo dục, qua các hình thức xử lý kỉ luật mà giúp cho những người sai phạm nhận thức được sai lầm, khuyết điểm.
4. Tổ chức khoa học các hoạt động của tập thể, kết hợp với mở rộng giao lưu, xây dựng mối quan hệ qua lại tích cực giữa các thành viên trong tập thể.
a) Tổ chức một cách khoa học mọi hoạt động của tập thể.
Tổ chức một cách khoa học các hoạt động của tập thể luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở các tập thể quân nhân, vì khâu tổ chức hoạt động ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động của tập thể cũng như mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong tập thể.
Để đảm bảo tính khoa học trong tổ chức các hoạt động của tập thể cần thực hiện các nội dung sau:
- Mọi hoạt động của tập thể cần phải có kế hoạch cụ thể, tỉ mỉ và được triển khai tới mọi thành viên trong tập thể.
Xây dựng kế hoạch hoạt động đòi hỏi người lãnh đạo chỉ huy phải căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của đơn vị, vào chỉ lệnh huấn luyện của cấp trên, cũng như chương trình hoạt động từng quý, từng tháng để xây dựng kế hoạch cụ thể cho đơn vị mình. Tuy nhiên kế hoạch hoạt động dù cụ thể, tỉ mỉ đến đâu cũng không mang lại kết quả tốt nếu như các thành viên trong tập thể chưa được quán triệt đầy đủ. Do vậy, kế hoạch hoạt động cụ thể phải được triển khai đến từng người, làm cho mọi người đều nắm được chức trách, nhiệm vụ của mình, những yêu cầu cần đạt tới trong quá trình hoạt động.
- Tổ chức lao động và nghỉ ngơi một cách hợp lý.
Thực tế cho thấy, sự căng thẳng mệt mỏi trong quá trình hoạt động quân sự ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động, cũng như trạng thái tâm lý chung của quân nhân trong tập thể. Đây chính là một nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hào hứng trong hoạt động và là nguyên nhân của những xung đột tâm lý. Giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lao động và nghỉ ngơi không những có ý nghĩa tích cực trong việc phục hồi sức khoẻ của mọi người mà còn có tác dụng hạn chế những xung đột do mệt mỏi gây ra.
- Đảm bảo sự tương hợp tâm lý trong các loại hình hoạt động của tập thể.
Tổ chức các loại hình hoạt động của tập thể cần chú ý đến sự tương hợp tâm lý sẽ nhân sức mạnh của những người trong tập thể lên gấp nhiều lần, nhờ có sự tương hợp tâm lý mà tạo ra sự ăn ý giữa quân nhân trong hoạt động quân sự.
b) Mở rộng giao lưu trong tập thể với đơn vị bạn và nhân dân địa phương bằng nhiều nội dung, hình thức sinh động.
Giao lưu có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau hình thành nên mối quan hệ keo sơn gắn bó giữa các thành viên trong tập thể. Do đó, mở rộng giao lưu chính là mở rộng quan hệ tiếp xúc giữa các thành viên trong tập thể, qua đó củng cố vững chắc mối quan hệ đoàn kết trong nội bộ và với nhân dân làm cho bầu không khí tích cực trong tập thể quân nhân ngày càng phát triển. Tuy nhiên cũng cần nhận thức một cách đúng đắn rằng, hiệu quả của giao lưu phụ thụôc phần lớn vào vai trò tổ chức định hướng của người lãnh đạo, quản lý. Nếu tổ chức tốt sẽ lôi cuốn được mọi người tham gia với thái độ tích cực tự giác. Ngược lại nếu thiếu định hướng đúng đắn sẽ dẫn đến những hiểu biết lệch lạc, làm tổn hại đến mối quan hệ nội bộ và quan hệ quân dân.
e) Xây dựng các mối quan hệ qua lại tích cực giữa các thành viên trong tập thể.
Bầu không khí tâm lý tập thể quân nhân phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa con người với con người trong tập thể. Do vậy, xây dựng mối quan hệ qua lại tích cực, lành mạnh là điều kiện quan trọng để bầu không khí tâm lý tích cực hình thành và phát triển. 
Mối quan hệ qua lại trong tập thể quân nhân một mặt chịu sự quy định của các mối quan hệ xã hội chủ nghĩa, mặt khác phát triển theo các nguyên tắc của quan hệ quân nhân . Thực hiện tốt các nguyên tắc của quan hệ qua lại trong quân đội là cơ sở để nảy sinh tinh thần tương trợ, hợp tác, tình đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, đặc biệt là tình đồng chí, tình bạn, sự tôn trọng và đòi hỏi cao lẫn nhau.
5. Định hướng, điều khiển các hiện tượng tâm lý tập thể theo hướng tích cực.
Sự hình thành và phát triển bầu không khí tâm lý tập thể quân nhân luôn chịu sự chi phối, ảnh hưởng bởi các hiện tượng tâm lý tập thể khác. Điều khiển các hiện tượng tâm lý tập thể theo hướng tích cực là một biện pháp quan trọng nhằm xây dựng bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể quân nhân.
Để thực hiện biện pháp này cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau:
a) Hướng dư luận tập thể vào việc xây dựng mối quan hệ qua lại tích cực giữa các thành viên trong tập thể.
Dư luận trong tập thể quân nhân là một hiện tượng tâm lý phức tạp, một biểu hiện của trạng thái ý thức xã hội, là sự phán xét đánh giá, biểu thị thái độ của đa số thành viên đối với những sự kiện hiện tượng xảy ra liên quan đến nhu cầu, lợi ích của họ trong tập thể. Vai trò của dư luận tập thể được biểu hiện ở chức năng điều hoà các mối quan hệ xã hội, chức năng giáo dục và chức năng kiểm soát. Với dư luận tích cực nó thực sự trở thành một thứ vũ khí quan trọng để xây dựng bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể. 
Hướng dư luận vào việc xây dựng mối quan hệ tích cực giữa các thành viên trong tập thể trước hết cần nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt cho các quân nhân, đặc biệt là những hiểu biết về các chuẩn mực trong quan hệ của quân nhân cách mạng, những giá trị đạo đức xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó định hướng, dẫn dắt thái độ của họ, hướng thái độ của họ vào việc động viên, khích lệ những biểu hiện tích cực trong quan hệ, trong lối sống, giúp mọi người phân biệt rõ đúng sai, nhận dạng chính xác các loại quan hệ.
b) Chủ động tạo ra tâm trạng tích cực trong tập thể.
Tâm trạng tập thể là trạng thái tâm lí của tập thể tồn tại trong một thời gian xác định nhưng nó có vai trò rất lớn đối với bầu không khí tâm lý tập thể. Tâm trạng tập thể tích cực sẽ góp phần làm cho mối quan hệ giữa các thành viên trong tập thể trở lên thân thiện, cởi mở quan tâm đến nhau và sẽ gần gũi nhau hơn. Tâm trạng tiêu cực là một nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng của bầu không khí tâm lý tập thể.
Điều chỉnh tâm trạng tập thể theo hướng tích cực trước hết phải chú trọng tới việc xây dựng mối quan hệ qua lại giữa các quân nhân. Bởi vì tâm trạng của mỗi quân nhân phụ thuộc rất nhiều vào cách cư xử của những người mà họ giao tiếp. Chính vì vậy mà người lãnh đạo cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các tổ chức trong tập thể bằng nhiều hình thức để củng cố, phát triển tinh thần đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, tổ chức khoa học các hoạt động của tập thể, sử dụng hợp lý các biện pháp kích thích tinh thần đảm bảo công bằng trong nhận xét, đánh giá. 
c) Hình thành các truyền thống tốt đẹp, ngăn ngừa sự ra đời của các truyền thống xấu, không phù hợp trong tập thể.
Cùng với các hiện tượng tâm lí xã hội khác, truyền thống trong tập thể quân nhân ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng và phát triển bầu không khí tâm lý tích cực. 
Truyền thống tốt có vai trò gắn bó mọi thành viên trong tập thể, tăng thêm lòng tự hào của quân nhân với tập thể, điều chỉnh hành vi của mỗi thành viên theo hướng tích cực.
Thông qua giáo dục làm cho mọi quân nhân nhận thức đúng đắn về truyền thống của dân tộc, của quân đội, của đơn vị trên cơ sở nâng cao nhận thức mà hình thành thái độ, tình cảm đúng đắn, chân trọng đối với truyền thống, có trách nhiệm gìn giữ, kế thừa, phát huy, xây dựng những giá trị, truyền thống mới. 
Đồng thời với việc xây dựng những truyền thống tốt đẹp trong tập thể, người cán bộ cần có những biện pháp ngăn chặn kịp thời sự xuất hiện của các truyền thống, thói quen xấu. Thông qua sức mạnh của dư luận , phê phán những biểu hiện lệch lạc, đi ngược lại lợi ích chung của tập thể, của xã hội, nghiêm khắc xử lý các trường hợp vi phạm làm ảnh hưởng đến truyền thống tốt đẹp của tập thể.

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_tam_li_hoc_xa_hoi.doc