Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là mối quan tâm của các nhà quản trị cũng như nhiều đối tượng khác từ khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Tuy nhiên, phân tích vấn đề gì, vận dụng phương pháp phân tích nào để tạo ra một bức tranh tổng thể về hoạt động tài chính của doanh nghiệp là một vấn đề đối với nhà phân tích do những thay đổi về chính sách kinh tế - tài chính, sự khác biệt về quan điểm phân tích, khả năng thu thập và xử lý số liệu tài chính.Mục tiêu của chương này nhằm giúp nhà phân tích hiểu được nội dung các họat động tài chính cơ bản của doanh nghiệp, qua đó định hướng xây dựng các nhóm chỉ tiêu phân tích phù hợp. Những kỹ thuật và phương pháp phân tích cũng được đề cập để có thể vận dụng linh họat theo từng nội dung phân tích cụ thể. Phần lớn còn lại của chương này giúp nhà phân tích đọc và hiểu nội dung các báo cáo tài chính hiện hành ở Việt Nam. Tất nhiên, phần này không đề cập các báo cáo tài chính được lập như thế nào như trong các môn học kế toán, mà quan trọng hơn báo cáo tài chính thể hiện những vấn đề gì về các quan hệ tài chính doanh nghiệp cũng như được sử dụng như thế nào trong quá trình phân tích.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU Phân tích hoạt động kinh doanh là một công cụ quan trọng trong hệ thống quản lý doanh nghiệp. Sau những năm đổi mới, hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường, khoa học phân tích hoạt động kinh doanh cũng có nhiều thay đổi, bổ sung theo hướng phù hợp với nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Rất nhiều tài liệu về phân tích họat động kinh doanh đã được ra đời. Các tài liệu này thường bao hàm nhiều nội dung chưa thật thống nhất với nhau, do các tác giả đứng ở những góc độ khác nhau, có quan điểm khác nhau. Nhu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của Trường Đại học kinh tế - Đại học Đà nẵng đã đặt ra yêu cầu cần thiết về sự thống nhất giáo trình sử dụng trong giảng dạy và học tập của nhà trường. Đáp ứng yêu cầu này, đồng thời cũng để góp phần tham gia vào quá trình hoàn thiện môn học, Khoa Kế toán - Trường Đại học Kinh tế đã tiến hành tổ chức biên soạn giáo trình Phân tích họat động kinh doanh (gồm phần I và phần II). Đây là giáo trình dành cho sinh viên các hệ đào tạo thuộc chuyên ngành Kế toán - Kiểm toán của Đại học Đà Nẵng. Đây còn là tài liệu tham khảo cho sinh viên và bạn đọc thuộc các chuyên ngành kinh tế khác có quan tâm đến lĩnh vực phân tích tài chính. Giáo trình phân tích họat động kinh doanh - Phần II đề cập đến các nội dung của phân tích tài chính doanh nghiệp: từ những vấn đề về cấu trúc nguồn vốn đến hiệu quả hoạt động, rủi ro và giá trị của doanh nghiệp. Những thay đổi về cơ chế quản lý tài chính ở nước ta trong thời gian qua cũng được quan tâm để nội dung và phương pháp phân tích tài chính trở nên phù hợp hơn trong điều hành họat động doanh nghiệp. Trong lần chỉnh sửa này, chúng tôi có bổ sung những thay đổi trong hệ thống Báo cáo tài chính hiện hành để người đọc có thể hình dung cách sử dụng những thông tin từ Báo cáo tài chính cho công tác phân tích tài chính. Tham gia biên soạn gồm: PGS. TS. Trương Bá Thanh - Chủ biên và biên soạn chương 3, 4, 5 TS. Trần Đình Khôi Nguyên - Biên soạn chương 1, 2. Mặc dù rất cố gắng trong biên soạn và tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp của tập thể Khoa, song Giáo trình được tiến hành trong giai đoạn có nhiều thay đổi sâu sắc, nên không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc để Giáo trình được hoàn thiện hơn trong những lần xuất bản sau. Xin trân trọng cảm ơn! TM. Tập thể tác giả PGS. TS. Trương Bá Thanh CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Phân tích tài chính là mối quan tâm của các nhà quản trị cũng như nhiều đối tượng khác từ khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế. Tuy nhiên, phân tích vấn đề gì, vận dụng phương pháp phân tích nào để tạo ra một bức tranh tổng thể về hoạt động tài chính của doanh nghiệp là một vấn đề đối với nhà phân tích do những thay đổi về chính sách kinh tế - tài chính, sự khác biệt về quan điểm phân tích, khả năng thu thập và xử lý số liệu tài chính...Mục tiêu của chương này nhằm giúp nhà phân tích hiểu được nội dung các họat động tài chính cơ bản của doanh nghiệp, qua đó định hướng xây dựng các nhóm chỉ tiêu phân tích phù hợp. Những kỹ thuật và phương pháp phân tích cũng được đề cập để có thể vận dụng linh họat theo từng nội dung phân tích cụ thể. Phần lớn còn lại của chương này giúp nhà phân tích đọc và hiểu nội dung các báo cáo tài chính hiện hành ở Việt Nam. Tất nhiên, phần này không đề cập các báo cáo tài chính được lập như thế nào như trong các môn học kế toán, mà quan trọng hơn báo cáo tài chính thể hiện những vấn đề gì về các quan hệ tài chính doanh nghiệp cũng như được sử dụng như thế nào trong quá trình phân tích. 1. Nội dung của tài chính và tài chính doanh nghiệp Tài chính là một phạm trù kinh tế xã hội, phát sinh và tồn tại cùng với sự tồn tại của nhà nước và nền sản xuất hàng hóa. Khái niệm và quan điểm về tài chính cũng luôn thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, từng chế độ chính trị, do vậy xem xét các quan điểm về tài chính là rất cần thiết đối với các nhà phân tích tài chính. Ơí các nước theo nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây có nhiều quan điểm về tài chính. Từ điển kinh tế chính trị học của nhà xuất bản Tiến bộ (Liên Xô) có định nghĩa: “ Tài chính là một hệ thống các quan hệ sản xuất phát sinh trong quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội bằng con đường hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ để đảm bảo nhu cầu tái sản xuất mở rộng XHCN và thõa mãn những nhu cầu khác của xã hội”. Trong tác phẩm “Một số vấn đề về tài chính, tín dụng, giá cả và về kinh tế công nghiệp” đã tổng hợp nhiều tranh luận về khái niệm này vì theo định nghĩa trên thì các quan hệ kinh tế bằng hiện vật cũng được xem là các quan hệ tài chính. Một quan điểm khác cho rằng, chỉ có các quan hệ tiền tệ mới thuộc các quan hệ tài chính. Cho nên, giáo sư Đia-tren-cô đã đưa ra định nghĩa thể hiện bản chất của tài chính: “Tài chính XHCN là hệ thống các quan hệ tiền tệ, trên cơ sở đó thông qua việc phân phối một cách có kế hoạch tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân và tích lũy bảo đảm hình thành và sử dụng các quỹ tiềìn tệ tập trung và không tập trung, nhằm đáp ứng nhu cầu thực hiện những nhiệm vụ và chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa”. Từ lý luận trên, trong thực tiễn hệ thống tài chính XHCN là một hệ thống gồm tài chính tập trung và tài chính phi tập trung, đồng thời tách biệt giữa tài chính nhà nước và tài chính của các tổ chức kinh tế tập thể. Bản chất của hoạt động tài chính ở các khâu (Ngân sách nhà nước, Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm nhà nước, Tín dụng ngân hàng, tài chính xí nghiệp quốc doanh và tài chính các tổ chức kinh tế tập thể) là các quan hệ tiền tệ, là việc phân phối sản phẩm xã hội thông qua việc huy động và sử dụng các quỹ tiền tệ. Chức năng của tài chính là kiểm tra và phân phối để đạt mục tiêu trong công tác quản lý của nhà nước XHCN. Trong hệ thống trên, tài chính doanh nghiệp bao gồm tài chính XNQD, và tài chính các tổ chức kinh tế tập thể, trong đó tài chính XNQD là bộ phận của tài chính nhà nước. Như vậy, hoạt động tài chính doanh nghiệp không tách biệt rõ ràng với ngân sách nhà nước. Tài chính doanh nghiệp chưa tính đến tài chính của các tổ chức kinh tế tư nhân khi nước ta thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng chưa được xem là bộ phận của tài chính doanh nghiệp, thay vào đó được xem là bộ phận của tài chính tập trung. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp bao gồm: quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước, giữa doanh nghiệp với tổ chức tín dụng, giữa doanh nghiệp với cơ quan chủ quản, giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, giữa doanh nghiệp với CBCNV,và các quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Hệ thống trên dẫn đến việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ mang tính kế hoạch cao, tính chủ động của các doanh nghiệp trong huy động và sử dụng vốn chưa có. Hệ thống chính trị thế giới trong những năm cuối thập niên 80 có nhiều thay đổi đáng kể đã ảnh hưởng đến nền tảng kinh tế của các quốc gia theo nền kinh tế kế hoạch hóa, trong đó có Việt Nam. Với một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự điều tiết của nhà nước, lý luận và thực tiễn tài chính trước đây không còn phù hợp với cơ chế kinh tế mới ở nước ta. Vấn đề này đặt ra phải xem lại khái niệm, bản chất và hệ thống tài chính trong điều kiện kinh tế thị trường để tạo tiền đề trong việc xây dựng các chính sách kinh tế cũng như tạo đà cho việc phát triển kinh tế. Ở các nước theo nền kinh tế thị trường, khi đề cập đến tài chính là bàn đến ba bộ phận có quan hệ với nhau: thị trường tài chính, hoạt động đầu tư và tài chính doanh nghiệp. Thị trường tài chính gắn liền với các định chế tài chính, kể cả ngân hàng, các công ty bảo hiểm, quỹ tiết kiệm và các tổ chức tín dụng. Thị trường tài chính là môi trường tạo điều kiện các qũy tiền tệ hình thành và vận động, qua đó các tài nguyên của xã hội được sử dụng đúng nơi và có hiệu quả nhất. Tài chính doanh nghiệp là toàn bộ các quan hệ tài chính biểu hiện qua quá trình “huy động và sử dụng vốn để tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp”. Hai yếu tố đó gắn liền với nhau qua hoạt động đầu tư vì đầu tư tạo điều kiện cho sự vận động của các quỹ tiền tệ trong toàn xã hội. Tài chính được xem như là một hệ thống trong đó thị trường tài chính là trung tâm của quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Hoạt động của ngân sách nhà nước, tài chính doanh nghiệp, Bảo hiểm và của mọi tổ chức tín dụng đều xoay quanh thị trường tài chính. Tài chính doanh nghiệp có hai chức năng cơ bản là huy động và sử dụng vốn. Nói đến tài chính là nhấn mạnh đến các dòng tiền. Chức năng “huy động” còn gọi là chức năng tài trợ, ám chỉ quá trình tạo ra các quỹ tiền tệ từ các nguồn lực bên trong và bên ngoài để doanh nghiệp hoạt động trong lâu dài với chí phí thấp nhất. Chức năng “sử dụng vốn” hay còn gọi là đầu tư, liên quan đến việc phân bổ vốn ở đâu, lúc nào sao cho vốn được sử dụng có hiệu quả nhất. Những vấn đề trên cho thấy bản chất của tài chính vẫn là các quan hệ kinh tế tiền tệ thông qua hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn. Đó cũng chính là bản chất của tài chính doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế kế hoạch và nền kinh tế thị trường xét theo khía cạnh này thì hoàn toàn giống nhau. Sự khác nhau xuất phát từ hệ thống tài chính và nội dung các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có thể chia thành bốn nhóm sau: + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính. Mối quan hệ này thường thể hiện qua việc doanh nghiệp tìm nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh: từ ngân hàng thông qua vay, từ công chúng qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu, từ các định chế tài chính khác. Trong điều kiện thị trường tài chính vững mạnh và phát triển thì mối quan hệ này cần được vận dụng linh hoạt để doanh nghiệp sử dụng nguồn tài trợ có chi phí thấp nhất. Một thị trường tài chính vững mạnh còn là môi trường thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư vốn nhàn rỗi ra bên ngoài. + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với ngân sách nhà nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, quan hệ này thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp trong thanh toán các khoản thuế theo luật định. Trong nhiều trường hợp đặc biệt, nếu nhà nước có chính sách hỗ trợ cho sản xuất trong nước qua hình thức trợ gía, bù lỗ, cấp phát thì đây cũng là một dạng quan hệ tài chính. + Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường khác như: thị trường hàng hoá và dịch vụ. Mối quan hệ này thể hiện qua việc doanh nghiệp tận dụng các khoản tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ... Đó còn là các quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với các khách hàng để kích thích hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp. Sử dụng linh hoạt các mối quan hệ tài chính này để đảm bảo doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn tạm thời có chi phí thấp, tăng cường hiệu qủa hoạt động kinh doanh. Nghiên cứu mối quan hệ này còn đánh giá công tác thanh toán giữa doanh nghiệp với các chủ nợ cũng như công tác quản lý công nợ của doanh nghiệp. + Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: thể hiện qua quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với người lao động về lương, các khoản tạm ứng...; quan hệ về phân phối vốn giữa doanh nghiệp với các đơn vị thành viên, quan hệ phân phối và sử dụng quỹ hình thành từ lợi nhuận để lại.... Như vậy, nội dung các quan hệ tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế kế hoạch hóa và nền kinh tế thị trường hoàn toàn khác nhau. Nếu như trong nền kinh tế kế hoạch hóa, các quan hệ tài chính doanh nghiệp chịu sự chi phối của nhà nước để phân phối của cải xã hội có kế hoạch thì trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ này chịu sự chi phối của thị trường sao cho tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp. Thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính tạo điều kiện khơi thông cho sự vận động các dòng tiền. Hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh tách biệt rõ ràng thông qua hệ thống pháp luật. Tóm lại, nhìn nhận bản chất và nội dung của tài chính nói chung và tài chính doanh nghiệp nói riêng rất quan trọng khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự điều tiết của nhà nước. Đối với các nhà phân tích, nhận thức vấn đề này là cơ sở để xây dựng hướng phân tích đúng đắn trên cơ sở cơ chế tài chính hiện hành. 2. Mục tiêu và nội dung của phân tích tài chính 2.1 Mục tiêu phân tích tài chính Phân tích tài chính là quá trình sử dụng các kỹ thuật phân tích thích hợp để xử lý tài liệu từ báo cáo tài chính và các tài liệu khác, hình thành hệ thống các chỉ tiêu tài chính nhằm đánh giá thực trạng tài chính và dự đoán tiềm lực tài chính trong tương lai. Như vậy, phân tích tài chính trước hết là việc chuyển các dữ liệu tài chính trên báo cáo tài chính thành những thông tin hữu ích. Quá trình này có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu của nhà phân tích. Phân tích tài chính được sử dụng như là công cụ khảo sát cơ bản trong lựa chọn quyết định đầu tư. Nó còn được sử dụng như là công cụ dự đoán các điều kiện và kết qủa tài chính trong tương lai, là công cụ đánh giá của các nhà quản trị doanh nghiệp. Phân tích tài chính sẽ tạo ra các chứng cứ có tính hệ thống và khoa học đối với các nhà quản trị. Hoạt động tài chính doanh nghiệp liên quan đến nhiều đối tượng, từ các nhà quản trị ở doanh nghiệp đến các nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp, cơ quan quản lý nhà nước... nên mục tiêu phân tích của mỗi đối tượng khác nhau. Chẳng hạn: Đối với các nhà cung cấp tín dụng: người cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp thường tài trợ qua hai dạng là tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn. Đối với các khoản tín dụng ngắn hạn (vay ngắn hạn, tín dụng thương mại, ...); người tài trợ thường quan tâm đến điều kiện tài chính hiện hành, khả năng hoán chuyển thành tiền của tài sản lưu động và tốc độ quay vòng của các tài sản đó. Ngược lại, đối với các khoản tín dụng dài hạn, nhà phân tích thường hướng đến tiềm lực trong dài hạn, như dự đoán các dòng tiền, đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong dài hạn cũng như các nguồn lực đảm bảo khả năng đáp ứng các khoản thanh tóan cố định (tiền lãi, trả nợ gốc..). trong tương lai. Do khả năng sinh lời là yếu tố an toàn cơ bản đối với người cho vay nên phân tích khả năng sinh lời cũng là một nội dung quan trong đối với các nhà cung cấp tín dụng. Ngoài ra, người cung cấp tín dụng dù là ngắn hạn hay dài hạn đều quan tâm đến cấu trúc nguồn vốn vì cấu trúc nguồn vốn mang tiềm ẩn rủi ro và an toàn đối với người cho vay. Mối quan tâm của các nhà quản trị ở doanh nghiệp khi tiến hành phân tích bao quát tất cả các nội dung của phân tích tài chính, từ cấu trúc tài chính đến các vấn đề hiệu quả và rủi ro của doanh nghiệp. Giải quyết các vấn đề trên không chỉ đưa ra những phương thức nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, chính sách tài trợ phù hợp mà còn tiên liệu họat động của doanh nghiệp như từ cách nhìn của các đối tương phân tích khác. Đối với người chủ sở hữu doanh nghiệp, tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp mà có sự tách rời giữa vai trò sở hữu với vai trò qủan lý. Chính sự tách rời này dẫn đến người chủ sơ hữu thường không quan tâm các vấn đề như cách nhìn của nhà quản lý doanh nghiệp. Thông thường, người chủ sở hữu quan tâm đến khả năng sinh lời vốn đầu tư của họ, phần vốn chủ sở hữu có không ngừng được nâng cao không, khả năng nhận tiền lời từ vốn đầu tư ra sao. Do vậy, phân tích tài chính từ góc độ người chủ sở hữu mang tính tổng hợp. Nói chung, có nhiều đối tượng quan tâm đến phân tích tài chính doanh nghiệp. Mục tiêu phân tích s ... gân hàng v.v... để xem xét và giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến doanh nghiệp. Việc định giá có thể bằng nhiều tài liệu như bảng cân đối kế toán, kết quả kinh doanh, bảng báo cáo thuyết minh tài chính. Ngoài ra, các tài liệu dự đoán cũng được xem như nguồn tài liệu quan trọng để định giá doanh nghiệp. Trong giáo trình này chúng ta xem xét vấn đề định giá qua xem xét và dự đoán số liệu từ các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. 2. Định giá trên cơ sở bảng cân đối kế toán Theo cách nhìn đơn giản, giá trị của doanh nghiệp chính là tài sản của doanh nghiệp. Phương pháp định giá trên cơ sở bảng cân đối kế toán được thực hiện trên ý tưởng: giá trị tổng hợp của doanh nghiệp là tổng giá trị của các thành phần tạo thành tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, các số liệu để định giá doanh nghiệp là giá trị của các thành phần trong sổ sách kế toán cũng như trên bảng cân đối kế toán. Trong trường hợp sổ sách kế toán phản ánh không chính xác hoặc giá phí lịch sử của tài sản quá khác xa với giá trị hiện tại của nó thì nên kiểm kê mọi tài sản và công nợ của doanh nghiệp rồi tiến hành định giá và điều chỉnh các giá trị tương ứng. Theo phương pháp này ta có 2 cách sau: 2.1. Đánh giá giá trị theo sổ sách kế toán Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm đánh giá sau khi trừ các khoản nợ phải trả. Giá trị này còn được gọi là giá trị tài sản thuần của doanh nghiệp. Hiển nhiên tài sản này phải ngang bằng với toàn bộ tài sản mà doanh nghiệp đã tạo được suốt trong quá trình kinh doanh trong quá khứ mà hiện còn tồn tại sau khi đã trừ đi các khoản nợ tồn đọng vào thời điểm định giá. Như vậy, theo phương pháp này, giá trị của doanh nghiệp là chênh lệch giữa giá trị tài sản trên sổ sách với tất cả các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp. Đây là quan điểm tĩnh, được thể hiện bằng công thức sau. Giaï trë doanh nghiãûp = Täøng taìi saín - Nåü Phaíi traí Trong đó Tài sản của doanh nghiệp được xem như giá trị thô, còn hiệu số này có thể được xem như giá trị thuần của doanh nghiệp. Tuy nhiên để xác định một cách chính xác giá trị của doanh nghiệp phải căn cứ trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp. Số liệu dưới đây minh họa cách xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên BCĐKT của công ty ABC. Bảng 5.1. Giá trị công ty ABC dựa trên BCĐKT Năm N Năm N+1 Năm N+2 1. Giá trị kế toán của tài sản 57.410 92.605 112.880 2. Nợ phải trả 49.090 81.435 99.840 3. Giá trị doanh nghiệp 8.320 11.170 13.040 4. Tốc độ tăng trưởng liên hoàn 134,2% 116,74% Bảng phân tích trên cho thấy giá trị thuần của công ty ABC trong ba năm qua liên tục gia tăng. Kết quả phân tích này cũng phù hợp với những đánh gía về sự gia tăng hiệu quả hiệu quả kinh doanh và hiệu quả tài chính của công ty này. Đây là dấu hiệu tích cực đối với người chủ sở hữu của công ty. Tuy nhiên, công ty ABC hiện tại có cấu trúc nguồn vốn mang tính rủi ro cao, có dấu hiệu về mất cân bằng tài chính cũng như rủi ro mất khả năng thanh toán. Nhà phân tích cần hết sức quan tâm những hiện tượng không thuận lợi này khi thương lượng và định giá trị thật của công ty ABC. Phương pháp định giá dựa trên BCĐKT thường được sử dụng bởi nhiều nhà phân tích nhờ tính đơn giản của nó và dễ đạt tính chính xác cao, nhưng khi sử dụng có khá nhiều vấn đề cần xem xét. Đầu tiên, tài sản thường được xác định dựa trên những nguyên tắc định trước nên giá trị thực của nó có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị của tài sản. Trong những trường hợp này, để định giá một cách chính xác phải xác định rõ giá trị của từng loại tài sản theo từng phương pháp đánh giá để từ đó có phương pháp điều chỉnh thích hợp. Thứ hai phải kể đến phương pháp hạch toán của từng doanh nghiệp để xác định chính xác hơn giá trị của tài sản doanh nghiệp sau khi đã được kết chuyển, phân phối. Tiếp theo, phải chú ý đến sự thay đổi của giá trị lịch sử của từng loại tài sản, cũng như giá trị sử dụng. 2.2. Đánh giá theo giá trị điều chỉnh. Phương pháp này khắc phục nhược điểm cơ bản của phương pháp trước trên cơ sở xem xét giá trị các tài sản theo giá hiện hành. Theo phương pháp định giá này, ta phải sử dụng các chỉ số khác nhau để quy đổi nhằm đánh giá chính xác hơn giá trị của doanh nghiệp như: - Chỉ số giá để đánh giá lại giá trị của tài sản phi tiền tệ như TSCĐ, hàng tồn kho. - Chi phí mua sắm mới, thay thế những tài sản cùng chức năng sử dụng hiện tại. Với phương pháp điều chỉnh này, giá trị của doanh nghiệp được xác định như sau: Giaï trë doanh nghiãûp = Täøng taìi saín âiãöu chènh - Nåü Phaíi traí âiãöu chènh Các phương pháp này có thể bị phê bình ở khía cạnh là nó không chú ý các điều kiện để hình thành tài sản, chỉ xem xét các tài sản của doanh nghiệp trong trạng thái tĩnh và riêng biệt chứ không xem doanh nghiệp như một tổ chức. Ngoài ra nó cũng chưa nghiên cứu một cách tổng hợp các phương tiện khác nhau ảnh hưởng đến giá trị tương lai của doanh nghiệp cũng như không tính đến khả năng sinh lời hoặc rủi ro thua lỗ có thể xảy ra. Trong khi đó, giá trị của một doanh nghiệp còn tùy thuộc rất nhiều yếu tố, không chỉ tính đến những tài nguyên vật chất, mà còn phải kể đến tài nguyên về lao động, khả năng quản trị của doanh nghiệp, các chính sách chiến lược của doanh nghiệp. 3. Định giá dựa trên cơ sở báo cáo kết quả kinh doanh Theo phương pháp này, định giá doanh nghiệp phải chú ý đến lợi thế kinh doanh thông qua lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận của các năm trước khi định giá và việc dự kiến lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp. Do vậy, có thể xem xét tài sản theo hướng tài sản tài chính, có nghĩa là giá trị mà người đầu tư có thể và chuẩn bị trả khi mua tài sản để đạt được một kết quả, hiệu quả nào đó mà họ dự kiến đạt được. Cách tiếp cận này “động” hơn phương pháp trước. Phương pháp định giá trên cơ sở báo cáo kết quả kinh doanh dựa trên quan điểm giá trị của doanh nghiệp tùy thuộc vào dòng tiền tệ do doanh nghiệp tạo ra trong tương lai và “Giá trị kế toán của tài sản là giá trị hiện tại của lợi nhuận tương lai”. Và giá trị của doanh nghiệp sẽ thu được qua việc vốn hoá lợi nhuận hoặc cổ tức giá trị theo nghĩa này còn được gọi là giá trị hiệu quả. Các tài liệu để tính toán trong việc định giá doanh nghiệp là kết qủa đạt được trong quá khứ mà chúng ta có thể vốn hóa với một tỷ lệ nào đó. Như ta đã biết giá trị tương lai này là biến thiên ngẫu nhiên. Nó sẽ là hàm số của 3 thành phần: hiệu quả, rủi ro và tăng trưởng. Các phương pháp khác nhau được phân biệt thông qua cách tính toán của một trong ba thành phần này. Đó là: V = f (kqủa, r, n) Hiệu quả của doanh nghiệp trong trường hợp này can thiệp khi sử dụng lợi nhuận, quá trình tăng trưởng thể hiện ở mức độ phát triển của lợi nhuận. Rủi ro được xem xét theo 2 cách do việc lựa chọn r và độ dài của n được giữ. Theo từng trường hợp người ta giữ lại lợi nhuận như là lợi nhuận hiện tại (đó là lợi nhuận sau thuế và cổ tức, dòng tiền). Định giá theo cách thức này thường phải chú ý hai nhân tố quan trọng: Một là lợi nhuận ròng, lợi nhuận trung bình của các năm trước thời điểm định giá. Phương pháp định giá thường xuyên được sử dụng là trung bình toán học của 5 đến 8 năm trước kỳ định giá. Nhiều tác giả cho rằng, nếu lợi nhuận của doanh nghiệp đang tăng lên thì trọng số được sử dụng cho những năm cũ sẽ nhỏ hơn trọng số sử dụng cho những năm gần kề. Như vậy, theo phương pháp này việc định giá cũng còn nhiều vấn đề cần bàn cãi như là ảnh hưởng của những kết quả quá khứ xa, sự phân kỳ của chuỗi dữ liệu phân tán. Do vậy, phương pháp này chỉ được áp dụng đối với những chuỗi dữ liệu có độ dao động nhỏ. Phương pháp này cùng có hạn chế do việc xác định độ chính xác của lợi nhuận ròng là công việc không đơn gỉan vì ảnh hưởng của các phương pháp kế toán, như: phương pháp đánh giá tài sản, phương pháp khấu hao TSCĐ, ... Hai là, hệ số vốn hóa áp dụng cho lợi nhuận ròng trong việc tính toán giá trị tài sản. Việc hiện tại hóa dòng thu nhập, kết quả, dòng tiền bằng các tỷ suất được gọi là vốn hóa các thu nhập. Vấn đề chọn lựa một tỷ lệ vốn hóa hợp lý cũng là việc phải quan tâm. Hệ số này phụ thuộc khá nhiều nhân tố ảnh hưởng. Nhiều tác giả cho rằng, chỉ cần sử dụng một hệ số nhất định, số khác lại cho rằng phải tính đến hiệu quả của thị trường, cũng như rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính và rủi ro phá sản gắn liền với doanh nghiệp. Dĩ nhiên các rủi ro này phải được ước lượng một cách chủ quan tùy theo quan điểm của nhà phân tích. Như vậy, việc chọn lựa hệ số vốn hóa tùy thuộc kinh nghiệm của người định giá. Có rất nhiều công thức để xác định giá trị của doanh nghiệp dựa vào giá trị cần vốn hóa như sau: 3.1. Định giá dựa trên cơ sở lợi nhuận quá khứ, và lợi nhuận tương lai Định giá theo lợi nhuận quá khứ và tương lai, thực chất là việc hiện tại hóa lợi nhuận dự đoán trong tương lai trên cơ sở lợi nhuận quá khứ. Như vậy, kết quả nếu ta khảo sát lợi nhuận trong việc dự đoán này là lợi nhuận sau thuế thì giá trị của doanh nghiệp (V) sẽ là: Trong đó LN1 : là lợi nhuận dự đoán sau năm thứ nhất LNi : là lợi nhuận dự đoán sau năm thứ i LNn : là lợi nhuận dự đoán sau năm thứ n n là tuổi thọ dự tính của doanh nghiệp. Trong trường hợp tốc độ tăng trưởng lợi nhuận của các kỳ bằng 0 và gọi LN là lợi nhuận của kỳ thứ nhất, nếu n tiến đến vô hạn thì giá trị của doanh nghiệp sẽ là:Ġ Trong thực tiễn, ước lượng giá trị của doanh nghiệp thường được sử dụng ở các nước dựa trên sự vốn hóa của lợi nhuận trung bình được quan sát trong các năm cuối trước khi dự đoán. Và lợi nhuận được sử dụng trong việc định giá này thường là tính cả lợi nhuận trong kinh doanh, lợi nhuận tài chính, lợi nhuận bất thường. Tỷ lệ r (hiện tại hóa) được sử dụng trong việc định giá thường phải phù hợp với chi phí vốn của doanh nghiệp. Trong thực tiễn ở các nước có thị trường chứng khoán, tỷ lệ này thường tương ứng với tỷ suất được quan sát trên trên các thị trường tài chính về vốn dài hạn. Để minh họa nội dung phương pháp định giá này, hãy xem xét tài liệu dự toán về doanh thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp X trong 5 năm đến. Chi phí vốn (tỷ lệ r) của doanh nghiệp là10%. Giả sử, thuế suất thu nhập trong 5 năm đến không đổi là 32% và toàn bộ lợi nhuận được để lại doanh nghiệp. Bảng 5.2. Báo cáo lãi lỗ dự toán doanh nghiệp X Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu N+1 Nguyãùn+2 N+3 N+4 N+5 1. Doanh thu thuần 105 126 151 174 191 2. Giá vốn hàng bán 80 94 111 127 137 3. Lợi nhuận gộp 25 32 40 47 54 4. Chi phí bán hàng và QLDN 10 12 13 15 16 5. Lợi nhuận thuần kinh doanh 15 20 27 32 38 6. Chi phí lãi vay 3 4 5 6 6 7. Lợi nhuận trước thuế 12 16 22 26 32 8. Thuế thu nhập doanh nghiệp 3,84 5,12 7,04 8,32 10,24 9. Lợi nhuận sau thuế 8,16 10,88 14,96 17,68 21,76 Với chi phí vốn của doanh nghiệp là 10% thì giá trị của doanh nghiệp X vào cuối năm N là hiện giá của lợi nhuận sau thuế dự toán trong 5 năm đến, chiết khấu theo tỷ lệ 10%là: 3.2. Phương pháp định giá dựa vào cổ tức Dựa trên một logích như trên, theo phương pháp này ta không vốn hóa lợi nhuận mà vốn hóa cổ tức của doanh nghiệp. Nếu ta khảo sát cổ tức của doanh nghiệp là hằng số thì giá trị doanh nghiệp được xác định bằng Trong đó tỷ lệ r là hệ số vốn hóa của cổ tức, và thường được sử dụng là lãi suất vay ngân hàng; CT là cổ tức của thời kỳ thứ nhất. Trong trường hợp ta giả sử rằng tỷ lệ tăng cổ tức hằng năm là h% thì giá trị của doanh nghiệp sẽ là: Ở đây, n là tuổi thọ dự tính của doanh nghiệp. Nếu N tiến đến vô hạn, và giả sữ rằng r > h thì giá trị của doanh nghiệp sẽ là : 4. Định giá bằng phương pháp hỗn hợp Phương pháp này thường được sử dụng trong thực tiễn trên cơ sở sử dụng đồng thời cả hai phương pháp trên, nó khắc phục các nhược điểm của phương pháp đánh giá theo tài sản và theo hiệu quả. Giá trị tổng thể của doanh nghiệp là trung bình số học giữa giá trị tài sản và giá trị năng suất theo công thức sau: Trong đó các giá trị này được xác định theo các phương pháp định giá trên, trên cơ sở của BCĐKT và Báo cáo kết quả kinh doanh. Có thể xem xét cách đánh giá này dưới một dạng khác với r là tỷ lệ vốn hóa lợi nhuận. Phương pháp này là tổng hợp các kết quả của các phương pháp đánh giá khác nhau nên nó hạn chế được những nhược điểm của các phương pháp trước nhưng đồng thời nó cũng chứa đựng các nhược điểm trước. Nói chung các phương pháp trên đây có thể được sử dụng đơn chiếc cũng có thể được sử dụng một cách tổng hợp tùy thuộc vào từng nhà phân tích, cũng như tùy từng đối tượng, từng mục đích định giá cụ thể. Với phương thức định giá này, các mô hình định giá thường bao gồm nhiều biến. Các biến số thường tương ứng với đặc điểm của doanh nghiệp, thông thường là: doanh số, giá trị gia tăng, lợi nhuận... Ngoài ra sự tác động của các yếu tố bên ngoài, các rủi ro không thể tránh khỏi cũng là các biến số rất quan trọng trong việc định giá doanh nghiệp. Trong điều kiện doanh nghiệp có tham gia thị trường chứng khoán có thể định giá doanh nghiệp dựa vào giá thị trường của mỗi cổ phần. Gdn = Gcp x Ncp Trong đó : Gdn là giá trị của doanh nghiệp; Gcp giá thị trường của mỗi cổ phần; Ncp Số lượng cổ phần đã phát hành. Phương pháp này cho ta xác định chính xác giá trị của doanh nghiệp trong thị trường hoàn hảo. 5. Phân tích tài chính và đánh giá doanh nghiệp Phân tích tài chính và việc đánh giá doanh nghiệp có mối liên hệ với nhau. Điều này thể hiện qua các giai đoạn của quá trình đánh giá doanh nghiệp. Để đánh giá doanh nghiệp, trước tiên phải phân tích và chẩn đoán trạng thái tài chính của doanh nghiệp. Tiếp theo là việc ước lượng giá trị của doanh nghiệp. Trong giai đoạn sau, công việc đánh giá doanh nghiệp khá phức tạp, vì kết quả của các phương pháp đánh giá khác nhau thường không trùng hợp nhau. Vấn đề quan trọng là phải lựa chọn các phương pháp đánh giá phù hợp. Thông thường việc lựa chọn này không thống nhất giữa người bán và người mua. Do vậy họ phải nhượng bộ nhau và phải sử dụng đồng thời nhiều phương pháp một lúc. Qua các công thức đánh giá ở trong chương, phân tích tài chính có tầm quan trọng rất lớn đối với công tác đánh gía bởi nhiều lý do: Một là, chẩn đoán tài chính là một hướng của phân tích trước của doanh nghiệp trước khi định giá. Do vậy, kết quả của phân tích tài chính về hiệu quả, rủi ro, cân bằng tài chính sẽ giúp cho việc thương lượng giá cả cũng như thấy được sự tăng giảm giá trị của doanh nghiệp. Hai là, khi thương lượng giá trị của doanh nghiệp bằng bảng cân đối kế toán, người mua, người bán có thể thấy được sự phù hợp của các phương pháp, các thủ tục hoặc việc chuẩn bị các thông tin kế toán. Chỉ như vậy thông tin đánh giá và phân tích tài chính mới trùng nhau. Ba là, khi ước lượng giá trị của doanh nghiệp bằng cách sử dụng báo cáo kết quả kinh doanh thì nhà phân tích tài chính luôn quan tâm đến việûc chọn lựa các cách thức nhằm xác định khả năng tạo ra lợi nhuận, hiệu quả tương lai của doanh nghiệp. Như vậy giữa phân tích tài chính và đánh gía doanh nghiệp có mối liên quan mật thiết. Cuối cùng, vì mục tiêu của tài chính là tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp nên phải xem xét các phương pháp định giá khác nhau: Tóm lại, giá trị của doanh nghiệp, giá trị trao đổi, giá trị sử dụng, giá trị chủ quan, khách quan được tranh cãi khá nhiều và khá phức tạp. Việc định giá doanh nghiệp không thóat khỏi các khó khăn này. MỤC LỤC MỤC LỤC BẢNG BIỂU MỤC LỤC BẢNG BIỂU
File đính kèm:
- giao_trinh_phan_tich_tai_chinh_doanh_nghiep.doc