Giáo trình môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Việt Nam là một quốc gia dân tộc tự chủ từ sớm. Nền độc lập, tự chủ của Việt

Nam gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước trải qua hàng ngàn năm lịch sử.

Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, đánh sập thành

trì chế độ phong kiến mục ruỗng của triều đình nhà Nguyễn, biến nước ta thành thuộc

địa của Pháp, nhân dân Việt Nam bị sống trong kiếp đọa đày nô lệ.

Bắt đầu từ mùa xuân năm 1930, dưới ngọn cờ độc lập, tự do của Hồ Chí Minh, dân

tộc Việt Nam đã đoàn kết thành một khối, kiên cường chiến đấu và dựng xây đất nước,

giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc. Có được

những thắng lợi vĩ đại đó là nhờ Đảng và nhân dân ta được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khoá

III lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời có viết: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất

nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm

rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta"1.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu rõ: Hồ Chí Minh đã đề xướng đường lối độc

lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau này được đúc kết lại trong khẩu hiệu nổi

tiếng: Không có gì quý hơn độc lập, tự do2.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp khái quát: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận

về đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng cách

mạng không ngừng, từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội, nội dung

cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người. Nói

ngắn gọn là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội; hay nói gọn hơn: độc lập dân

tộc và chủ nghĩa xã hội"3.

pdf 136 trang kimcuc 8340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Giáo trình môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Bộ giáo dục và đào tạo 
_______________________ 
Giáo trình 
Tư tưởng Hồ Chí Minh 
(Dùng trong các trường đại học, cao đẳng) 
(Tái bản lần thứ nhất) 
Chủ biên 
PGS, TS. Mạch Quang Thắng 
Tập thể tác giả 
- PGS. Lê Mậu Hãn Chương I 
- TS. Vũ Quang Hiển Chương II 
- TS. Phạm Ngọc Anh Chương III 
- PGS, TS. Ngô Đăng Tri Chương IV 
- PGS, TS. Mạch Quang Thắng Chương V, VII 
- PGS, TS. Bùi Đình Phong Chương VI 
- TS. Ngô Văn Thạo Chương tham khảo 
Cộng tác viên 
Vũ Thanh Bình 
2
Chương I 
Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát 
triển, đối tượng, nhiệm vụ và ý nghĩa học tập 
tư tưởng Hồ Chí Minh 
Việt Nam là một quốc gia dân tộc tự chủ từ sớm. Nền độc lập, tự chủ của Việt 
Nam gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước trải qua hàng ngàn năm lịch sử. 
Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, đánh sập thành 
trì chế độ phong kiến mục ruỗng của triều đình nhà Nguyễn, biến nước ta thành thuộc 
địa của Pháp, nhân dân Việt Nam bị sống trong kiếp đọa đày nô lệ. 
Bắt đầu từ mùa xuân năm 1930, dưới ngọn cờ độc lập, tự do của Hồ Chí Minh, dân 
tộc Việt Nam đã đoàn kết thành một khối, kiên cường chiến đấu và dựng xây đất nước, 
giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại và có tính thời đại sâu sắc. Có được 
những thắng lợi vĩ đại đó là nhờ Đảng và nhân dân ta được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - 
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khoá 
III lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời có viết: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất 
nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm 
rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta"1. 
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu rõ: Hồ Chí Minh đã đề xướng đường lối độc 
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau này được đúc kết lại trong khẩu hiệu nổi 
tiếng: Không có gì quý hơn độc lập, tự do2. 
Đại tướng Võ Nguyên Giáp khái quát: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận 
về đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam... Đó là tư tưởng cách 
mạng không ngừng, từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội, nội dung 
cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người. Nói 
ngắn gọn là độc lập dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội; hay nói gọn hơn: độc lập dân 
tộc và chủ nghĩa xã hội"3. 
Chủ tịch Phiđen Caxtrô Rudơ (Cuba) cho rằng: Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách 
thiên tài cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và cuộc đấu tranh vì quyền lợi quần 
chúng bị bọn phong kiến và giai cấp bóc lột áp bức... Sự nghiệp giải phóng dân tộc và 
sự nghiệp giải phóng xã hội là hai điểm then chốt trong học thuyết của Người1. 
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr. 516. 
2. Xem: Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại và tương lai, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 18. 
3. Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
2003, tr. 98. 
1. Xem: Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr .76. 
3
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu cao tư tưởng Hồ Chí 
Minh và đã quyết định ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: "Đảng lấy chủ nghĩa 
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành 
động"2. 
Vì vậy, nghiên cứu, học tập một cách có hệ thống môn học Tư tưởng Hồ Chí 
Minh trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong cán bộ, đảng viên, nhất là học sinh, 
sinh viên thuộc hệ thống nhà trường của cả nước là nhiệm vụ hết sức quan trọng. 
I. Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư 
tưởng hồ chí minh 
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình sĩ phu yêu nước, ở quê hương 
giàu truyền thống cách mạng, trong một đất nước sớm định hình một quốc gia dân tộc 
có chủ quyền lâu đời, trong đó tinh thần yêu nước là dòng chảy chủ yếu xuyên suốt 
chiều dài lịch sử. 
Cuối thế kỷ XIX, đất nước ta bị rơi vào cảnh nô lệ lầm than dưới ách thuộc địa 
của thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổi dậy chống lại ách thống trị của 
thực dân Pháp dưới ngọn cờ của một số nhà yêu nước tiêu biểu nối tiếp nhau, song đều 
lần lượt thất bại. Đám mây đen của chủ nghĩa thực dân vẫn bao phủ bầu trời Việt Nam. 
Dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. 
Giữa lúc đó, Hồ Chí Minh ra nước ngoài để học hỏi, tìm một giải pháp mới để 
cứu nước, giải phóng dân tộc. Lúc này, chủ nghĩa đế quốc đã xác lập được sự thống trị 
của chúng trên một phạm vi rộng lớn của thế giới. ách áp bức và thôn tính dân tộc 
càng nặng, sự phản kháng dân tộc của nhân dân bị nô dịch càng tăng. Phương Đông đã 
thức tỉnh. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Cách mạng Tháng Mười Nga đã 
thành công, nước Nga Xôviết đã ra đời. Quốc tế Cộng sản được thành lập. Các đảng 
cộng sản đã lần lượt ra đời tại một số nước ở châu Âu, châu á... 
Hồ Chí Minh đã hoạt động trong phong trào công nhân và lao động một số nước 
trên thế giới; đến với nhân dân cần lao ở các nước thuộc địa đang bị chủ nghĩa thực dân 
nô dịch; học tập, nghiên cứu các trào lưu tư tưởng, các thể chế chính trị; tiếp thu tư 
tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin; chọn lựa con đường cứu nước, giải phóng 
dân tộc là con đường cách mạng vô sản; đứng về phía Quốc tế Cộng sản; tham gia Đảng 
Cộng sản Pháp. Từ đó, Hồ Chí Minh càng đi sâu tìm hiểu các học thuyết cách mạng trên 
thế giới, xây dựng lý luận về cách mạng thuộc địa, trước hết là lý luận cách mạng để 
giải phóng dân tộc Việt Nam, xây dựng các nhân tố cách mạng của dân tộc, tổ chức và 
lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên giành những thắng lợi vĩ đại vì độc lập của dân 
tộc, tự do của toàn dân, v.v.. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127. 
4
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh 
a) Giá trị truyền thống dân tộc 
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành cho Việt Nam các 
giá trị truyền thống dân tộc phong phú, vững bền. Đó là ý thức chủ quyền quốc gia dân 
tộc, ý chí tự lập, tự cường, yêu nước, kiên cường, bất khuất... tạo thành động lực mạnh 
mẽ của đất nước; là tinh thần tương thân, tương ái, nhân nghĩa, cố kết cộng đồng dân 
tộc; thủy chung, khoan dung, độ lượng; là thông minh, sáng tạo, quý trọng hiền tài, tiếp 
thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú văn hóa dân tộc... Trong nguồn giá trị 
tinh thần truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi, là dòng chảy chính của tư 
tưởng văn hóa truyền thống Việt Nam, xuyên suốt trường kỳ lịch sử, là động lực mạnh 
mẽ cho sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Chính sức mạnh truyền thống tư tưởng 
và văn hóa đó của dân tộc đã thúc giục Hồ Chí Minh ra đi tìm tòi, học hỏi, tiếp thu tinh 
hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu cho tư tưởng cách mạng và văn hóa của Người. 
b) Tinh hoa văn hóa nhân loại 
Hồ Chí Minh đã biết làm giàu vốn văn hóa của mình bằng cách học hỏi, tiếp thu 
tư tưởng văn hóa phương Đông và phương Tây. 
Về tư tưởng và văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những mặt tích 
cực của Nho giáo về triết lý hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị, 
hòa mục, thế giới đại đồng; về một triết lý nhân sinh, tu thân, tề gia; đề cao văn hóa 
trung hiếu "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". 
Người nói: "Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử 
có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học"1. Người 
dẫn lời của V.I. Lênin: "Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được 
những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại"2. 
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu 
nạn; coi trọng tinh thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều thiện, v.v.. 
Về chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh tìm thấy những điều 
thích hợp với điều kiện nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh 
phúc. 
Về tư tưởng và văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tiếp thu tư tưởng 
văn hóa dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ. 
Về tư tưởng dân chủ của cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng của 
các nhà khai sáng: Vônte (Voltaire), Rútxô (Rousso), Môngtexkiơ (Moutesquieu). Đặc 
biệt, Người chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng tự do, bình đẳng của Tuyên ngôn 
nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Đại cách mạng Pháp. Về tư tưởng dân chủ của 
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.6, tr. 46. 
5
cách mạng Mỹ, Người đã tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu 
hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập năm 1776, quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ. 
c) Chủ nghĩa Mác - Lênin 
Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư 
tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: 
"Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt 
Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn 
là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã 
hội và chủ nghĩa cộng sản"1. 
Đối với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh hồn 
sống của nó, là phương pháp biện chứng duy vật; học tập lập trường, quan điểm, 
phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin để giải quyết các vấn đề thực tiễn 
của cách mạng Việt Nam. 
Các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất cách mạng tư tưởng 
của Người theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. 
d) Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh 
Ngoài nguồn gốc tư tưởng, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí 
Minh còn chịu sự tác động sâu sắc của thực tiễn dân tộc và thời đại mà Người đã sống 
và hoạt động. Chính quá trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh ở trong nước và khi 
còn bôn ba khắp thế giới để học tập, nghiên cứu và hoạt động đã làm cho Người có một 
hiểu biết sâu sắc về dân tộc và thời đại, nhất là thực tiễn phương Đông để xem xét, đánh 
giá và bổ sung cơ sở triết lý phương Đông cho học thuyết Mác - Lênin. 
Từ hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã khám phá quy luật vận động xã hội, đời 
sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể của các quốc gia 
và thời đại mới để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn, qua 
kiểm nghiệm của thực tiễn để hoàn thiện, làm cho lý luận có giá trị khách quan, tính 
cách mạng và khoa học. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm hoạt động tinh thần của cá nhân, do Người 
sáng tạo trên cơ sở những nhân tố khách quan. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc 
rất lớn vào các yếu tố nhân cách, phẩm chất và năng lực tư duy của chính người sáng 
tạo ra nó. 
Không chỉ ở nước ta mà có nhiều chính khách, nhiều nhà hoạt động văn hóa-xã 
hội ở nước ngoài đã nêu nhiều ý kiến sâu sắc về nhân cách, phẩm chất, về tài năng trí 
tuệ của Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1923, lúc Hồ Chí Minh vào trạc tuổi 33, nhà báo 
Liên Xô Ô. Manđenxtam khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh đã sớm nhận biết: "Từ Nguyễn 
1. Sđd, t.10, tr. 128. 
6
ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền 
văn hóa tương lai"1. Văn hóa Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày càng tỏa sáng theo 
dòng thời gian của dân tộc và thời đại. 
Nhân cách, phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến sự hình 
thành và phát triển tư tưởng của Người. Đó là một con người sống có hoài bão, có lý 
tưởng, yêu nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định, có lòng tin vào nhân dân, khiêm tốn, 
bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, thông minh, có hiểu biết sâu rộng, có phương 
pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn, v.v.. Chính nhờ vậy, Người đã khám phá sáng tạo về 
lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, xây dựng được một hệ thống quan điểm 
toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, đã vượt qua mọi thử thách, sóng 
gió trong hoạt động thực tiễn, kiên trì chân lý, định ra các quyết sách đúng đắn và sáng 
tạo, biến tư tưởng thành hiện thực cách mạng. 
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện 
chứng tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa tư tưởng văn hóa của 
phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng, cùng với thực 
tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh- một con 
người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất cách 
mạng cao đẹp tạo nên. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng Việt Nam hiện đại. 
2. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh 
Nêu rõ sự phân chia các thời kỳ lịch sử tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp chúng ta 
nắm được những nội dung tư tưởng cơ bản của Người trong từng thời kỳ, phản ánh 
khách quan hiện thực lịch sử và tài năng trí tuệ của Hồ Chí Minh. Vì vậy, tiêu chí cơ 
bản để phân kỳ là phải dựa vào nội dung chuyển biến về mặt tư tưởng của Hồ Chí Minh 
trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể chứ không phải dựa vào mốc thời gian hoạt động của 
Người. Chúng ta có thể phân chia thành 5 thời kỳ như sau: 
a) Thời kỳ hình thành tư tưởng yêu nước, thương nòi (trước năm 1911) 
Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh lớn lên và sống trong nỗi đau của người dân mất 
nước, được sự giáo dục của gia đình, quê hương, dân tộc về lòng yêu nước thương dân; 
sớm tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp; băn khoăn trước những thất bại của các 
sĩ phu yêu nước chống Pháp; ham học hỏi, muốn tìm hiểu những tinh hoa văn hóa tiên 
tiến của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở châu Âu, muốn đi ra nước ngoài xem họ 
làm gì để trở về giúp đồng bào thoát khỏi vòng nô lệ. Trong thời kỳ này, ở Hồ Chí Minh 
đã hình thành tư tưởng yêu nước, thương dân, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần 
truyền thống của dân tộc, ham muốn học hỏi những tư tưởng tiến bộ của nhân loại. 
1. Sđd, t. 1, tr. 478. 
7
b) Thời kỳ tìm tòi con đường cứu nước, giải phóng dân tộc (1911-1920) 
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, trước tiên Người đến nước Pháp, nơi đã 
sản sinh ra tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái; tiếp tục đến nhiều nước ở châu Âu, châu 
Phi, châu Mỹ, sống và hoạt động với những người dân bị áp bức ở phương Đông và 
những người làm thuê ở 
phương Tây. Người đã khảo sát, tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, 
tham gia Đảng Xã hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng Tháng Mười Nga, học tập và đã tìm 
đến với chủ nghĩa Lênin, tham dự Đại hội Tua, đứng về phía Quốc tế cộng sản, tham gia 
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến vượt 
bậc về tư tưởng; từ giác ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Mác- 
Lênin, từ một chiến sĩ chống thực dân phát triển thành một chiến sĩ cộng sản Việt 
Nam. Đây là một bước chuyển biến cơ bản về tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh: 
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách 
mạng vô sản"1. 
c) Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam (1921 - 
1930) 
Hồ Chí Minh đã có thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi, phong phú ở 
Pháp (1921-1923), ở Liên Xô (1923-1924), ở Trung Quốc (1924-1927), ở Thái Lan 
(1928-1929)... Trong thời gian này, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã 
hình thành cơ bản. Hồ Chí Minh đã kết hợp nghiên cứu xây ...  sọ" làm hư hỏng các thế hệ trẻ Việt Nam. Người viết: Trong mấy 
mươi năm nô lệ, đế quốc và phong kiến đã dùng giáo dục nô lệ để "nhồi sọ" thanh niên 
ta, làm cho thanh niên ta hư hỏng. Hồ Chí Minh chủ trương, khi cách mạng thành công 
sẽ thực hiện nền giáo dục cách mạng. Nhưng "Trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng 
giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời 
sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ"2. 
3. Nội dung giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ 
- Bồi dưỡng, giáo dục thế hệ cách mạng cho đời sau một cách toàn diện 
Hồ Chí Minh yêu cầu trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: 
đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất; 
đào tạo thế hệ trẻ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa "hồng" vừa 
"chuyên". 
Đạo đức và tài năng là cả hai nội dung không thể thiếu được đối với nhiệm vụ bồi 
dưỡng, giáo dục, trong đó đạo đức là gốc. Năm 1964, Người nói: "Dạy cũng như học 
phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan 
trọng"1. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng 
cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách 
mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học 
và kỹ thuật. 
- Bồi dưỡng, giáo dục phải trên tất cả các mặt "đức, trí, thể, mỹ", thể hiện ở 5 nội 
dung sau đây: 
Thứ nhất, giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ. 
Thanh niên bao giờ cũng có rất nhiều ước mơ, hoài bão, bao giờ cũng mang tâm 
lý hướng tới cái cao đẹp trong cuộc sống và họ luôn luôn cần đến một điểm tựa tinh 
thần vững chãi để có thể vượt qua được những khó khăn, thực hiện được ước mơ hoài 
2. Sđd, t. 8, tr. 80. 
1. Sđd, t. 11, tr. 329. 
130
bão của mình. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục lý tưởng cho thanh niên. ở mỗi 
một giai đoạn khác nhau của cách mạng Việt Nam, Người luôn có những yêu cầu cụ thể 
và cơ bản về việc giáo dục bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho tuổi trẻ. Hồ Chí Minh đã 
ân cần khuyên nhủ thanh niên rằng: Chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng 
cao cả của mình là suốt đời phấn đấu cho Tổ quốc ta được hoàn toàn độc lập, chủ nghĩa 
xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta. Khi nói về nhiệm vụ học tập của thanh niên, 
Người viết: mục tiêu lý tưởng phấn đấu của thanh niên đó là học tập và học để làm gì ? 
Người trả lời: "Học để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, học để làm cho dân giàu, 
nước mạnh". 
Thứ hai, quan tâm đến việc bồi dưỡng nâng cao chí khí cách mạng cho tuổi trẻ. 
Chỉ có lý tưởng cách mạng cũng chưa đủ, mà phải có chí khí thì mới biến lý tưởng 
đó thành hiện thực được. Chí khí mà Hồ Chí Minh yêu cầu giáo dục cho thế hệ trẻ 
không chỉ là chí khí chung chung như "chí làm trai" trước đây cha ông ta vẫn nói, mà là 
chí khí cách mạng. Đó là trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó 
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. 
Thứ ba, giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. 
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là yếu tố vô cùng cần thiết, là cái gốc, cái 
nền tảng của cách mạng. Giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ là nhằm làm cho 
thế hệ trẻ trở thành những người công dân có ích, những người chiến sĩ tốt, những 
người cách mạng chân chính, với những phẩm chất: trung với nước, hiếu với dân, yêu 
thương con người, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đối với thế hệ trẻ, Người căn 
dặn: phải thật thà, phải ngay thẳng, chí công vô tư, phải coi tham ô, lãng phí tài sản của 
Nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp mà ai cũng thù ghét. 
Thứ tư, giáo dục nâng cao trình độ chính trị, học vấn, khoa học, kỹ thuật và quân 
sự. 
Hồ Chí Minh cho rằng, việc nâng cao trình độ chính trị, học vấn, khoa học, kỹ 
thuật và quân sự là điều kiện cơ bản để tuổi trẻ cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, 
cho nhân dân và đây cũng là điều kiện để bảo đảm khả năng hoạt động thực tiễn của họ. 
Trong khi thực hiện nội dung giáo dục này, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến mối quan hệ 
hữu cơ giữa các thành tố chính trị, học vấn, khoa học - kỹ thuật, lao động sản xuất và 
quân sự. Chính Người đã giải thích, nếu không học tập, không có trình độ học vấn 
không thể nào tiếp thu được chuyên môn nghiệp vụ. Nhưng nếu chỉ học tập văn hóa, 
khoa học - kỹ thuật mà không học tập chính trị thì như người nhắm mắt mà đi. 
Thứ năm, giáo dục, bồi dưỡng nếp sống văn hóa, thể chất cho tuổi trẻ. 
Hồ Chí Minh luôn coi con người là nhân tố quyết định trong sự thành công của sự 
nghiệp cách mạng, sự tiến bộ của xã hội. Người khẳng định, văn hóa là nền tảng tinh 
thần của xã hội, phải giáo dục nếp sống, lối sống văn hóa cho thanh niên. Về giáo dục 
131
thể chất, Người cho rằng, làm việc gì cũng phải có sức khỏe mới thành công. Người 
viết: "Luyện tập thể dục bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi một người yêu nước... 
Mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân khỏe mạnh tức là 
cả nước mạnh khỏe"1. Chính vì thế, Người rất quan tâm đến việc giáo dục về thể chất và 
nếp sống văn hóa cho thế hệ trẻ. 
4. Phương pháp giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ 
- Giáo dục phải phù hợp với mỗi đối tượng, giáo dục là một khoa học. 
Trong thư gửi giáo viên, học sinh cán bộ thanh niên và nhi đồng (ngày 31-10-
1955), Người chỉ ra: "Mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ của mình trong lúc 
này: 
Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và 
khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực 
giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. 
Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết 
thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không 
cần thiết cho đời sống thực tế. 
Tiểu học thì cần giáo dục cho các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu 
lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép 
thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn, phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các 
cháu"1. 
Theo Người: Giáo dục nhi đồng là một khoa học, do vậy, cách dạy trẻ phải giữ 
toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm 
cho chúng hóa ra những người già sớm. Nhiều thư do các cháu gửi cho Bác Hồ viết như 
người lớn viết; đó là một triệu chứng già sớm nên tránh. ở bậc tiểu học, cách dạy phải 
nhẹ nhàng vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. 
Vì vậy, phải biết kết hợp học tập với việc chơi, dạy từ dễ đến khó. Với trẻ nhỏ, 
Người cho rằng: "Trong lúc học, cũng cần cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm 
cho chúng học. ở trong nhà, ở trường học, ở xã hội, chúng đều vui đều học. Muốn vậy 
thì các ban phụ trách nhi đồng cần phải liên lạc mật thiết với cha mẹ và thầy giáo của 
nhi đồng"2. Với thanh niên thì phải chuyên tâm học hành và công tác, nhưng cũng cần 
có vui chơi. Vui chơi lành mạnh là một bộ phận trong sự sinh hoạt của thanh niên... 
Trong vui chơi cũng cần có giáo dục. Cần có những thứ vui chơi văn hóa, thể dục có 
tính chất tập thể và quần chúng. 
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 212. 
1. Sđd, t. 8, tr. 81, 
2. Sđd, t. 5, tr. 712. 
132
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện giáo dục không thể tùy tiện... Giáo dục cũng phải 
theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm nhưng không được vội vàng. Làm phải có kế 
hoạch, có từng bước. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ 
thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi, hơn là một trăm 
chương trình to tát mà làm không được. 
- Giáo dục phải gắn liền với xã hội, học đi đôi với hành. 
 Giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Người nói: "Chúng ta 
phải sửa đổi cách dạy cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc"1. 
Tháng 9-1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh viết: "Đối riêng với các em 
lớn... phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân. 
Các em lớn chưa hẳn đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng 
nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen 
với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất 
nước"2. Với các em nhỏ, Người khuyên cứ từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp 
nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào. Trong kháng 
chiến, Hồ Chí Minh chủ trương cần có một nền giáo dục kháng chiến và kiến quốc. 
Người yêu cầu: 
1. Phải sửa đổi triệt để chương trình giáo dục cho phù hợp với sự nghiệp kháng 
chiến và kiến quốc. 
2. Muốn như thế chúng ta phải có sách kháng chiến và kiến quốc cho các trường. 
Ngày 31-8-1960, trong thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường 
và các lớp bổ túc văn hóa, Người nhắc nhở: "Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị 
của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân"3. 
- Giáo dục phải phối hợp nhà trường - xã hội - gia đình. 
Hồ Chí Minh khẳng định: Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có 
sự giáo dục ngoài xã hội, trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường 
được tốt hơn. Ngày 31-10-1955, khi miền Bắc đã giải phóng, Hồ Chí Minh viết: "Tôi 
cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và 
khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân 
dân"4. Các đoàn thể là một yếu tố quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ, nhất là Đoàn 
thanh niên. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu: Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên 
1. Sđd, t. 5, tr. 462. 
2. Sđd, t. 4, tr. 33. 
3. Sđd, t. 10, tr. 190. 
4. Sđd, t. 8, tr. 81. 
133
cần phải chú ý đến giáo dục tư tưởng, thái độ, hoạt động và sinh hoạt hàng ngày của 
thanh niên để kịp thời khuyến khích, uốn nắn, sửa chữa. Trường học, gia đình và đoàn 
thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên. 
- Thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục. 
Hồ Chí Minh dạy: Trong trường, cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò 
cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì 
hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không 
phải là "cá đối bằng đầu". Đồng thời thầy và trò cần giúp đỡ những anh chị em phục vụ 
cho nhà trường. Các anh chị em nhân viên thì nên thi đua sao cho cơm lành canh ngọt 
để cho học sinh ăn no, học tốt. "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát 
huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ 
giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà 
trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó"1. 
- Giáo dục phải gắn liền với thi đua. 
Hồ Chí Minh khuyên: "Đồng bào ta đang có phong trào thi đua sôi nổi: "Đại 
phong", "Duyên Hải", "Ba nhất", "Thành công". Vậy, các nhà trường cũng nên phát 
động một phong trào thi đua "2 tốt" - tức là dạy thật tốt, học thật tốt". Với học sinh, 
Người nói: "các cháu nên thi đua, thi đua học tập, thi đua trong mọi việc để trở nên 
những nhi đồng có tổ chức, có kỷ luật, có sáng kiến, có lực lượng"2. 
5. Vai trò của các thế hệ đi trước, của thầy giáo trong việc bồi dưỡng 
thế hệ trẻ 
- Hồ Chí Minh khẳng định, giáo dục thế hệ trẻ phải thực hiện phương pháp nêu 
gương. 
 Hồ Chí Minh yêu cầu không chỉ học tập trong nhà trường mà còn học tập qua các 
gương sản xuất, chiến đấu. Khi nói với học sinh trường Đại học nhân dân, Người nói: 
"Trường này là Trường đại học nhân dân, các cháu học với các thầy giáo, đồng thời 
phải học nhân dân. Trong bộ đội ta, trong dân công và những ngành hoạt động khác, có 
nhiều thanh niên gương mẫu... Mong các cháu noi theo những thanh niên kiểu mẫu ấy... 
để xứng đáng là lớp đầu tầu của Trường đại học nhân dân, để rèn luyện thành chủ nhân 
xứng đáng tương lai của nước nhà"1. Trong nhà trường, thầy nêu gương cho trò. Hồ Chí 
1. Sđd, t. 12, tr. 403. 
2. Sđd, t. 7, tr. 561. 
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 456. 
134
Minh nói: "Tri thức phải dễ hiểu, dễ nhớ, học mau. Ngoài tri thức phải có đạo đức cách 
mạng. Thầy giáo phải làm kiểu mẫu cho các cháu. Làm được như thế là làm tròn nhiệm 
vụ"2. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò rất quan trọng của thầy cô giáo với sự nghiệp 
trồng người, coi nghề thầy giáo là rất quan trọng, rất vẻ vang. Theo Hồ Chí Minh, "Nhiệm 
vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo 
dục"3. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ con em nhân dân, thì làm sao xây dựng chủ nghĩa 
xã hội được. Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang. 
- Phải xây dựng đội ngũ những "người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy 
giáo". 
Về phẩm chất của người thầy, Hồ Chí Minh yêu cầu: 
+ "Phải thật thà yêu nghề mình"; 
+ "Phải có đạo đức cách mạng. Phải có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu hậu lạc" 
nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng thì hưởng sau thiên hạ. Đấy 
là đạo đức cách mạng"; 
+ "Phải yên tâm công tác"; 
+ "Phải thật thà đoàn kết"; 
+ "Phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của mình"; 
+ "Phải luôn luôn ra sức thi đua công tác và học tập, thật thà phê bình và tự phê 
bình để cùng nhau tiến bộ mãi". 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau 
không chỉ thể hiện tình cảm yêu thương vô bờ bến và sự chăm lo của Người đối với thế 
hệ trẻ, mà còn là một nội dung quan trọng trong hệ thống các quan điểm lý luận của 
Người. Việc nghiên cứu quán triệt quan điểm của Người về chăm lo bồi dưỡng thế hệ 
cách mạng cho đời sau là nhiệm vụ của mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, đảng viên 
trong các lĩnh vực, nhưng trước hết là của thanh niên, học sinh trong các nhà trường. 
Đối với thanh niên, học sinh, cùng với việc học tập tốt các môn học lý luận Mác - 
Lênin, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng để trang bị cho mình thế 
giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, giúp cho việc học tập trong nhà trường 
được tốt, đồng thời chuẩn bị hành trang cần thiết cho cuộc đời lao động và học tập 
không ngừng, cống hiến được nhiều hơn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân 
tộc. 
2, 3. Sđd, t. 8, tr. 184. 
135
Mục lục 
Chương I: Nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển, đối tượng, 
nhiệm vụ và ý nghĩa học tập tư tưởng Hồ Chí Minh 
Chương II: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng 
giải phóng dân tộc 
Chương III: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Chương IV: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp 
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 
Chương V: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam; về 
xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân 
Chương VI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, nhân văn, văn hóa 
Chương VII: Một số vấn đề về vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí 
Minh trong công cuộc đổi mới 
Chương tham khảo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách 
mạng cho đời sau 
136

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_mon_tu_tuong_ho_chi_minh.pdf