Giáo trình môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin là “hệ thống các quan điểm và học thuyết” khoa học, gồm triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, do V.I.Lênin bảo vệ và phát triển. Chủ nghĩa đó hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng những giá trị lịch sử tư tưởng nhân loại để giải thích, nhận thức thực tiễn thời đại; là thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp tự giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người, về những quy luật chung nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, tạo nên hệ tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân.

 

doc 283 trang kimcuc 9240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin

Giáo trình môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
MỤC LỤC
Chương
Nội dung
Trang
Mở đầu
Nhập môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
2
1
Chủ nghĩa duy vật biện chứng
23
2
Phép biện chứng duy vật
43
3
Chủ nghĩa duy vật lịch sử
87
4
Học thuyết giá trị
119
5
Học thuyết giá trị thặng dư
138
6
Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
175
7
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng xã hội chủ nghĩa
195
8
Những vấn đề chính trị-xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
229
9
Chủ nghĩa xã hội- hiện thực và triển vọng
258-273
1
Phần thứ nhất. Triết học Mác-Lênin
2-118
2
Phần thứ hai. Kinh tế chính trị Mác-Lênin
119-194
3
Phần thứ ba. Chủ nghĩa xã hội khoa học
195-273
 CHƯƠNG MỞ ĐẦU. NHẬP MÔN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin và ba bộ phận cấu thành
a. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là “hệ thống các quan điểm và học thuyết” V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.26, tr.59
 khoa học, gồm triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, do V.I.Lênin bảo vệ và phát triển. Chủ nghĩa đó hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng những giá trị lịch sử tư tưởng nhân loại để giải thích, nhận thức thực tiễn thời đại; là thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp tự giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người, về những quy luật chung nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, tạo nên hệ tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân. 
b. Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin
	- Nội dung chủ nghĩa Mác-Lênin bao gồm hệ thống tri thức phong phú Bao gồm triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, kinh tế, chính trị, văn hóa, lịch sử, quân sự v.v
 bao quát nhiều lĩnh vực với những giá trị lịch sử, thời đại và khoa học to lớn; nhưng triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học là những bộ phận lý luận quan trọng nhất. Triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Kinh tế chính trị là hệ thống tri thức về những quy luật chi phối quá trình sản xuất và trao đổi tư liệu sinh hoạt vật chất trong đời sống xã hội mà trọng tâm của nó là những quy luật kinh tế của quá trình vận động, phát triển, diệt vong tất yếu của hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa cũng như sự ra đời tất yếu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ thống tri thức chung nhất về cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa; về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng hình thái kinh tế-xã hội đó.
- Giữa các bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin có sự khác nhau tương đối, thể hiện ở chỗ chủ nghĩa xã hội khoa học không nghiên cứu những quy luật xã hội tác động trong tất cả hoặc trong nhiều hình thái kinh tế-xã hội như chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà chỉ nghiên cứu các quy luật đặc thù của sự hình thành, phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng không nghiên cứu các quan hệ kinh tế như kinh tế chính trị, mà chỉ nghiên cứu các quan hệ chính trị-xã hội của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. 
- Giữa các bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin có sự thống nhất tương đối, thể hiện ở quan niệm duy vật về lịch sử mà tư tưởng chính của nó là do sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất nên từ một hình thái kinh tế-xã hội này nảy sinh ra một hình thái kinh tế-xã hội khác tiến bộ hơn và chính quan niệm như thế đã thay thế sự lộn xộn, tùy tiện trong các quan niệm về xã hội trong các học thuyết trước đó; thể hiện ở việc C.Mác và Ph.Ăngghen vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu kinh tế, từ đó sáng tạo ra học thuyết giá trị thặng dư để nhận thức chính xác sự xuất hiện, phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Đến lượt mình, học thuyết giá trị thặng dư cùng với quan niệm duy vật về lịch sử đã đưa sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin “cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại” V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.23, tr.54
 và “kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X.. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.260
.
2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin
	a. Những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác
	- Điều kiện kinh tế-xã hội
+ Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở nước Anh, sau đó mau chóng lan rộng ra các nước tây Âu tiên tiến. Cuộc cách mạng đó đã không những đánh dấu bước chuyển từ sản xuất thủ công sang sản xuất công nghiệp, làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với chế độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội mà trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Đó là mâu thuẫn giữa tính xã hội của quá trình sản xuất và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất với hình thức sở hữu tư liệu sản xuất tư nhân và phân chia sản phẩm xã hội bất bình đẳng. Sản phẩm xã hội tăng lên nhưng lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái không được thực hiện. Bất công xã hội tăng, đối kháng xã hội thêm sâu sắc mà tiêu biểu là cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1825; người lao động bị bần cùng hoá vì bị bóc lột
+ Mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Khởi nguồn là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lyông (1831, 1834) đã vạch ra một điều bí mật quan trọng- đó là cuộc đấu tranh diễn ra bên trong xã hội, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những kẻ không có gì hết; phong trào Hiến chương ở Anh (1830-1840) là phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Sự phát triển nhanh chóng của giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi năm 1844 ở Đức mang tính giai cấp tự phát đã dẫn đến sự ra đời Đồng minh những người chính nghĩa- một tổ chức vô sản cách mạng. Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, giai cấp vô sản xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị-xã hội độc lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản. Những vấn đề của thời đại do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nảy sinh được phản ánh từ những lập trường giai cấp khác nhau, hình thành nên những học thuyết triết học, kinh tế và chính trị-xã hội khác nhau để lý giải về những khuyết tật của xã hội tư bản đương thời, sự cần thiết phải thay thế nó bằng xã hội hiện thực được tự do, bình đẳng, bác ái theo những lập trường khác nhau đã sản sinh ra nhiều hình thức lý luận về chủ nghĩa xã hội như chủ nghĩa xã hội phong kiến, chủ nghĩa xã hội tư sản, chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản, chủ nghĩa xã hội chân chính Đức v.v. 
Thực tiễn xã hội như vậy nảy sinh yêu cầu khách quan là những vấn đề mà thời đại đặt ra phải được soi sáng và giải đáp về mặt lý luận trên lập trường của giai cấp vô sản. Phải trả lời rõ ràng những vấn đề mà mọi giai cấp trong xã hội quan tâm là số phận của loài người sẽ ra sao; lực lượng nào đóng vai trò chủ yếu trong cuộc đấu tranh cho tương lai của nhân loại. Đó là điều kiện kinh tế-xã hội cho sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Mác xuất hiện với tư cách là hệ tư tưởng khoa học của giai cấp vô sản- phong trào công nhân đã bước sang giai đoạn phát triển mới về chất vì đã có lý luận khoa học và cách mạng dẫn đường.
- Tiền đề lý luận. Theo V.I.Lênin, toàn bộ thiên tài của C.Mác chính là ở chỗ học thuyết của ông ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội của các đại biểu xuất sắc nhất 
+ Triết học cổ điển Đức là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác (đặc biệt là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học của Phoiơbắc). Phép biện chứng duy tâm của Hêghen phê phán phép siêu hình; xây dựng phép biện chứng từ phạm trù “ý niệm tuyệt đối”, coi phát triển là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là tha hoá và khẳng định tha hoá diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa Hêghen bằng cách duy vật hóa những “hạt nhân hợp lý” của phép biện chứng để xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Những quan điểm duy vật về giới tự nhiên của Phoiơbắc chứng minh thế giới là thế giới vật chất; cơ sở tồn tại của giới tự nhiên chính là giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra và tồn tại độc lập với ý thức. Tuy nhiên, trong lĩnh vực xã hội, Phoiơbắc lại coi sự phát triển của xã hội là sự phát triển của tôn giáo. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa chủ nghĩa duy vật cũ bằng cách loại bỏ tính siêu hình và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ chỉ nhận thức giới tự nhiên sang nhận thức cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và triệt để.
+ Kinh tế chính trị học Anh mà đặc biệt là các quan điểm kinh tế của Ađam Xmít và Đavít Ricácđô là yếu tố không thể thiếu trong sự hình thành quan niệm duy vật về lịch sử của triết học Mác. Ađam Xmít cho rằng chủ nghĩa tư bản tồn tại theo các quy luật kinh tế khách quan; lý luận về kinh tế hàng hóa, đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư là cơ sở của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa tạo cho C.Mác cách nhìn đúng về chủ nghĩa tư bản. Đavít Ricácđô thừa nhận các quy luật khách quan của đời sống kinh tế xã hội, đặt quy luật giá trị làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống kinh tế và rằng, do đó chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những phê phán xã hội tư bản và những dự báo thiên tài của Xanh Ximông, Phuriê mà trước hết là lịch sử loài người là một quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước; các ông cho rằng sự xuất hiện các giai cấp đối kháng trong xã hội tư bản là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng thời phê phán chủ nghĩa tư bản là ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không quan tâm tới dân nghèo. Về một số đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai, các ông khẳng định đó là xã hội công nghiệp mà trong đó, công nông nghiệp đều được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm những điều kiện vật chất cho cuộc sống v.v là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý luận cải tạo xã hội.
- Tiền đề khoa học tự nhiên. Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng vượt lên tính tự phát của tư duy biện chứng cổ đại, thoát khỏi tính thần bí của phép biện chứng duy tâm và trở thành khoa học. 
+ Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của các nhà khoa học tự nhiên như Lômônôxốp, Lenxơ (Nga), Maye (Đức), Gơrốp, Giulơôn (Anh) và Cônđinhgơ (Đan Mạch) chứng tỏ lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện tử, các quá trình hoá học không tách rời nhau, mà liên hệ với nhau và hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hoá cho nhau mà không mất đi, chỉ có sự chuyển hoá không ngừng của năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Định luật này đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.
+ Thuyết tế bào (ra đời trong những năm 30 của thế kỷ XIX) của Svannơ (sinh học) và Sơlâyđen (thực vật học) được xây dựng nhờ các công trình nghiên cứu trước đó của Húc (1665), Vonphơ, Gôriannhinốp (tự nhiên học), Púckin (sinh học). Thuyết này chứng minh rằng tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển chung của thực vật và động vật; bản chất sự phát triển của chúng đều nằm trong sự hình thành và phát triển của tế bào. Như vậy, thuyết tế bào đã xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với động vật.
+ Thuyết tiến hoá của Đácuyn (Anh), giải thích duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật (1859). Các loài thực vật và động vật biến đổi, các loài đang tồn tại được sinh ra từ các loài khác bằng con đường chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Phát minh này đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài. 
Đánh giá về ý nghĩa của những phát minh trong khoa học tự nhiên thời ấy, Ph. Ăngghen viết "Quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu" C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 2004, t.20, tr.471
.
	b. Giai đoạn hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác
 - Giới thiệu sơ lược về C.Mác và Ph.Ăngghen. “C.Mác là con một nhà quý phái, Ph.Ăngghen là con một nhà tư bản, nhưng hai ông đã hoàn toàn dâng mình cho cách mạng và trở thành những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản” Hồ Chí Minh: Toàn tập, 2002, t.8, tr.140
. Tên đầy đủ của C.Mác là Karl Henrix Marx, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 tại Tơria, tỉnh Ranh, nước Đức trong một gia đình luật sư người Do thái có tư tưởng khai sáng và tự do; từ trần ngày 14 tháng 3 năm 1883, an táng tại nghĩa trang Khaighết, Luân Đôn, Anh. Ph.Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Bácmen, tỉnh Ranh, nước Đức trong một gia đình tư bản công nghiệp dệt bảo thủ về tư tưởng; từ trần ngày mùng 5 tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Anh. Theo nguyện vọng của Ph.Ăngghen, sau khi hoả táng, tro thi hài được thả xuống eo biển gần Ixtôbôrn, phía Nam bờ nước Anh.
- C.Mác, Ph.Ăngghen với quá trình hình thành chủ nghĩa Mác (1842-1848)
Thời kỳ 1842-1843, những bài viết của C.Mác đăng trên báo Sông Ranh nhằm bảo vệ lợi ích của những người lao động nghèo khổ, đấu tranh vì tự do và dân chủ; đánh dấu sự hình thành tư tưởng về vai trò lịch sử của giai cấp vô sản của ông. Thực tiễn đấu tranh thông qua báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng có nội dung rõ ràng hơn và sự chuyển biến về thế giới quan ở C.Mác diễn ra từng bước. Khi phê phán chính quyền nhà nước đương thời, ông thấy cái khách quan quy định hoạt động của nhà nước không phải là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối” như Hêghen đã chứng minh, mà là những lợi ích; còn chính quyền nhà nước là cơ quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích tư nhân. Trong thời gian ở Croixơnăc (tháng 5 đến tháng 10 năm 1843), C.Mác viết tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen phê phán những quan niệm duy tâm của Hêghen về xã hội và đi tới  ...  khó tránh khỏi những khuyết tật. Khi điều kiện lịch sử thay đổi mô hình đó không kịp thời thay đổi bổ sung để thích ứng thì những khuyết tật ấy bộc lộ ra và dẫn tới khủng hoảng toàn hệ thống. Nếu như mô hình tổ chức xã hội dựa trên kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được sức mạnh cho cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại thì trong điều kiện hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội mô hình này tỏ ra không phù hợp. Cơ chế kế hoạch hoá tập trung làm mất đi tính chủ động sáng tạo của người lao động, chậm trễ trong việc tiếp thu những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Trong khi đó các nước tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường lại tiếp nhận thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào những năm 80 của thế kỷ XX nhanh hơn các nước xã hội chủ nghĩa. Trong những điều kiện lịch sử mới, mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết tỏ ra không còn phù hợp, chính đó là nguyên nhân sâu xa làm cho xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng dẫn tới sụp đổ ở Liênxô và Đông Âu.
b. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
Với cùng một mô hình tổ chức xã hội kiểu Xôviết, khi gặp khó khăn khủng hoảng các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải cách, cải tổ, đổi mới, nhưng Liênxô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu thì sụp đổ, một số nước xã hội chủ nghĩa khác thì không. Chung quy lại vấn đề nảy sinh từ nội bộ Đảng cầm quyền và sai lầm, sự phản bội của những người lãnh đạo cao nhất. Bởi vì, các nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đảng là trung tâm lãnh đạo và chỉ huy của nhà nước và xã hội. Đảng có vấn đề thì đó là vấn đề mang tính sống còn đối với nhà nước và đối với chế độ.
Trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng không coi trọng kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn nước mình và đặc điểm thời đại, không coi trọng việc kế thừa, bổ sung và phát triển lý luận mácxít. Hoặc là giáo điều, rập khuôn máy móc, không căn cứ vào tình hình mới để phát triển sáng tạo. Đánh giá không công bằng với lịch sử, từ chỗ phê phán sai lầm của cá nhân đi đến phủ nhận toàn bộ lịch sử của Đảng và của nhà nước, phủ định chế độ xã hội chủ nghĩa, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin để cuối cùng đi theo con đường chủ nghĩa dân chủ xã hội.
Về tổ chức. Chế độ tập trung trong Đảng bị phá hoại, không những làm cho Đảng mất khả năng của bộ chỉ huy chiến đấu mà ngay mâu thuẫn trong đảng cũng không giải quyết nổi. Tính chất quan liêu, giáo điều bảo thủ rất nặng nề ở bộ phận lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước tác động to lớn đến đời sống xã hội. Nhân danh cải tổ với khẩu hiệu dân chủ hoá, công khai hóa trong bộ phận lãnh đạo cấp cao đã hình thành các phe nhóm. Với chiêu bài phi chính trị lực lượng vũ trang, quân đội có nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc chứ không thuộc đảng phái nào để tách lực lượng vũ trang khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từng bước vô hiệu hoá và giải tán Đảng Cộng sản. Sự phân liệt Đảng Cộng sản thành các phe nhóm chính trị khác nhau, nhiều tổ chức, đảng phái chính trị ra đời đấu tranh giành quyền lực chính trị. Khuynh hướng dân tộc ly khai nảy sinh, những cuộc xung đột đẫm máu xảy ra tạo môi trường cho các lực lượng phản động trỗi dậy, xã hội mất phương hướng gây thảm hoạ cho nhân dân.
Lực lượng phản bội trong nước tìm chỗ dựa từ các chính phủ tư sản bên ngoài, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội cũng xem đây là cơ hội tốt để thực hiện ý đồ “diễn biến hoà bình”. Chúng ra sức cổ vũ lôi kéo những phần tử cơ hội, phản bội giữ địa vị cao ở các cơ quan đảng, nhà nước để đưa đất nước theo xu hướng tư bản. Khi bộ phận lãnh đạo tối cao đã liên kết với lực lượng đế quốc bên ngoài thì chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xôviết dễ dàng sụp đổ.
Vậy chủ nghĩa xã hội sụp đổ có phải là tất yếu lịch sử? Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội mô hình Xôviết trì trệ và khủng hoảng thì cải cách, cải tổ, đổi mới là tất yếu mới có thể đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Nhưng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội không thể là tất yếu vì thực tế ở những nước xã hội chủ nghĩa khác qua cải cách đổi mới đã đưa đất nước từng bước thoát khỏi khó khăn. khủng hoảng như Trung Quốc, Việt Nam. Vấn đề là ở chỗ cải cách, cải tổ, đổi mới như thế nào, cần phải giữ vững nguyên tắc nào mà thôi.
III. TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người
a. Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng đánh giá rất cao vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản, các ông viết “giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”; song các ông cũng dự báo và chứng minh những dự báo của mình “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”.
Vận dụng quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” chỉ ra những mâu thuẫn, xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn “tột cùng”, ăn bám và giãy chết và là phòng chờ của chủ nghĩa xã hội. Nhưng tình hình thực tế trong mấy thập niên vừa qua, chủ nghĩa tư bản ngày nay phát triển rất mạnh do biết tự điều chỉnh và thích ứng, biết tìm bí quyết để sống lại từ con đường cùng. Chủ nghĩa tư bản còn khả năng để phát triển nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản thì không thay đổi, những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, bản thân nó không thể khắc phục nổi, đó là tình trạng khủng hoảng kinh tế, ngoài khủng hoảng mang tính chu kỳ ra còn có khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng thể chế, khủng hoảng tài chính tiền tệ v.v. Các loại khủng hoảng và những khó khăn của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới hàng loạt vấn đề xã hội nảy sinh như tình trạng thất nghiệp, nghèo khó và chênh lệch giàu nghèo xã hội, mâu thuẫn dân tộc tăng lên, trật tự xã hội hỗn loạn, hoạt động tội phạm gia tăng v.v. Chủ nghĩa tư bản ngày nay dù đã có những điều chỉnh nhưng vẫn là “một thế giới không thể chấp nhận” như Renê Duynông khẳng định trong cuốn sách của mình.
b. Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đang nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản
Theo quan điểm của C.Mác “sự thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên”. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội với tư cách là hai hình thái kinh tế xã hội khác nhau, kế tiếp nhau, xã hội trước tất yếu bị xã hội sau thay thế, xã hội sau vừa phủ nhận xã hội trước vừa kế thừa và phát triển những thành tựu mà xã hội trước tạo ra. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã phát triển đến giai đoạn cao nhất của nó- chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước- đã gần với chủ nghĩa xã hội hơn. Theo V.I. Lênin chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là giai đoạn trước của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tạo ra nền sản xuất lớn với khoa học công nghệ ngày càng hiện đại, sự phát triển xã hội hoá sản xuất đang “nẩy mầm” những nhân tố của chủ nghĩa xã hội. Sự xuất hiện những công ty cổ phần trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tăng lên của nó và những nhân tố xã hội chủ nghĩa khác có nghĩa là sự phát triển của quá trình lịch sử tự nhiên trong đó chủ nghĩa tư bản bắt đầu quá độ sang phương thức sản xuất mới. Trong xã hội tư bản hiện đại, về mặt sở hữu, sự xuất hiện quốc hữu hoá, chế độ hợp tác, công ty cổ phần, nhà nước đóng vai trò điều tiết quản lý về vốn, nguồn lao động tham gia quản lý xí nghiệp ở mức độ khác nhau, sự rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, lao động trí óc với lao động chân tay, tính dân chủ và xã hội của nhà nước tăng lên v.v tất cả những cái đó nếu không nói đó là những nhân tố của chủ nghĩa xã hội ở mức độ nhất định, thì đó cũng là sự chuẩn bị điều kiện vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên điều đó vẫn chưa vượt ra khỏi cái khung tư bản chủ nghĩa, sự biến đổi về lượng chưa chuyển thành sự biến đổi về chất, vẫn là chủ nghĩa tư bản.
c.Tính đa dạng các xu hướng phát triển của thế giới đương đại
Sau cách mạng Tháng Mười nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự tồn tại hai hệ thống kinh tế xã hội đối lập nhau đã tác động đến sự lựa chọn con đường phát triển của các dân tộc.
Ở các nước vốn trước đây là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc sau khi giành độc lập đã, đang lựa chọn con đường phát triển của dân tộc mình. Con đường tư bản tư nghĩa trong những điều kiện nhất định đã đem lại những thành công cho một số nước còn phần lớn cách nước khác không thoát khỏi đói nghèo, nợ nần chồng chất.
Ngay ở các nước tư bản phát triển cũng nảy sinh xu hướng phát triển “phi tư bản”, “hậu tư bản”, xu hướng xã hội dân chủ v.v điều này chứng tỏ chủ nghĩa tư bản không phải là “xã hội tốt đẹp cuối cùng”, không phải là tương lai của loài người mà nó sẽ phải bị thay thế.
2. Chủ nghĩa xã hội- tương lai của xã hội loài người
a. Sự sụp đổ của Liênxô và các nước Đông Âu không có nghĩa là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội
Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sự kiện Liênxô, Đông Âu sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới bị tổn thất nghiêm trọng. Kẻ thù thì vội vã vui mừng cho đó là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, sự cáo chung của chủ nghĩa Mác, còn người dân cũng không khỏi hoang mang bối rối. Sự thật, sự tan rã của Liên xô, Đông Âu không phải là sự thất bại của chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sự thất bại của một mô hình thực tiễn nhất định. Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liênxô, mô hình chủ nghĩa xã hội cứng nhắc, nó không đồng nghĩa với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một hình thái kinh tế-xã hội mà loài người đang vươn tới. Sự sụp đổ của Liênxô và Đông Âu cũng không vì thế mà thay đổi nội dung, tính chất của thời đại. Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liênxô và Đông Âu chỉ chứng tỏ tính quanh co, phức tạp của sự phát triển xã hội mà thôi.
b. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách mở cửa, đổi mới và ngày càng thu được những thành tựu to lớn
Trong bối cảnh Liênxô và các nước xẫ hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, thì ở một số nước xã hội chủ nghĩa khác điển hình là Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành đổi mới, cải cách mở cửa thành công, đã đưa đất nước vượt qua khó khăn khủng hoảng và đạt được những thành tựu to lớn. Trên cơ sở kiên trì, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình, trong qua trình đổi mới, cải cách, mở cửa đã giữ vững nguyên tắc, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội. Để giữ vững vai trò lãnh đạo, Đảng phải tự đổi mới theo hướng dân chủ, khoa học phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình.
 Đã từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang kinh tế thị trường, thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, lấy hình thức phân phối theo lao động là nguyên tắc chủ yếu. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế. Nhà nước quản lí vĩ mô, giảm dần sự can thiệp vi mô, thực hiện chế độ dân chủ, công khai minh bạch. Xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường khó khăn lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn.
Sau hơn 30 năm (1978) cải cách, mở cửa của Trung Quốc, hơn 20 năm (1986) đổi mới ở Việt Nam, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, vị thế của Trung Quốc và Việt Nam ngày càng được thế giới tôn trọng. Thành công của cải cách, mở cửa của Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ nghĩa xã hội.
c. Sự xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước Mỹ Latinh
Cùng với những thành công của công cuộc cải cách, đổi mới của Trung Quốc và Việt Nam, sự hồi phục của các Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, ở Mỹ Latinh đã xuất hiện xu hướng thiên tả từ những năm 90 của thế kỷ XX và hiện nay không ngừng lớn mạnh. Thông qua bầu cử các lực lượng dân chủ, tiến bộ đã thành lập được chính phủ lên cầm quyền ở các nước Mỹ Latinh như Vênêzuala, Nicaragoa, Bôlivia, Braxin, Acgentina v.v nhiều nước đã tuyên bố lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Mô hình chủ nghĩa xã hội nhiều nước Mỹ Latinh lựa chọn tạo thành mô hình “chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI”, mô hình này về đại thể có những nội dung cơ bản là Về tư tưởng, lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng tiến bộ của Ximôn Bôlivia, tư tưởng nhân đạo thiên chúa giáo làm nền tảng. Về chính trị, nhấn mạnh tư tưởng “dân chủ cách mạng” và chính quyền nhân dân, xây dựng mô hình xã hội theo đó nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, thực hiện công bằng xã hội. Về kinh tế, chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước và hợp tác giữ vai trò chủ đạo, giành lại chủ quyền dân tộc đối với tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là dầu mỏ, nước sạch v.v thực hiện công bằng, giải quyết vấn đề bất bình đẳng và phân hoá xã hội. Về đối ngoại, thúc đẩy khối đại đoàn kết Mỹ Latinh và quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, lấy hợp tác thay thế cạnh tranh, đấu tranh cho một thế giới đa cực dân chủ, chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa như Cu Ba, Việt Nam, Trung Quốc. Mô hình chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh tuy còn điểm này điểm khác, còn tiếp tục được nghiên cứu, theo dõi, nhưng với sự xuất hiện mô hình đó chứng tỏ sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội và lòng tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của nhân dân lao động.
Tóm lại, tình hình thế giới đang vận động rất phức tạp, những diễn biến từ sau cách mạng Tháng Mười Nga đến nay cũng chứng tỏ dù phải trải qua những bước quanh co phức tạp nhưng loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội, đó cũng chính là quy luật vận động khách quan của lịch sử.
Câu hỏi ôn tập
1. Sự ra đời hệ thống xã hội chủ nghĩa và những thành tựu của nó?
2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Những Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nxb. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009; 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Chương trình môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, ban hành theo Quyết định số 52/2008/QĐ-BGDĐT ngày 18/9/ 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo;
	3. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Dự thảo 5 Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tháng 9/2008 (Tài liệu Tập huấn tháng 10 năm 2008);
	4. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Tài liệu phục vụ dạy và học Chương trình các môn Lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng). Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2008;
5. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Triết học Mác-Lênin. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; 
6. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lênin. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 
7. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Trọn bộ 12 tập
9. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Trọn bộ 50 tập;
	10. V.I.Lênin: Toàn tập. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Trọn bộ 55 tập
	11. Các nghiên cứu và bài giảng của các đồng nghiệp

File đính kèm:

  • docgiao_trinh_mon_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_mac_leni.doc