Giáo trình môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Phần 2)

Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa

Như chúng ta đã biết, muốn tạo ra giá trị hàng hoá, tất yếu phải chi phí một số lao động

nhất định, gọi là chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện tại. Lao

động quá khứ (lao động vật hoá), tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c); lao động hiện tại

(lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới (v + m).

Đứng trên quan điểm xã hội mà xét, chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi

phí tạo ra giá trị hàng hoá. Ký hiệu giá trị hàng hoá: W = c + v + m.

Song, đối với nhà tư bản, họ không phải chi phí lao động để sản xuất hàng hoá, cho nên

họ không quan tâm đến điều đó. Trên thực tế, họ chỉ quan tâm đến việc ứng tư bản để

mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Do đó, nhà tư bản chỉ xem hao phí hết

bao nhiêu tư bản, chứ không tính đến hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. C. Mác gọi

chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu bằng k (k = c + v).

Vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản

xuất hàng hoá.

pdf 184 trang kimcuc 11960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Phần 2)

Giáo trình môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Phần 2)
Chương VII:Các hình thái tư bản và các hình thức biểu
hiện của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là một phạm trù nói lên bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong đời sống thực tế của xã hội tư bản, giá trị thặng dư chuyển hoá và biểu hiện thành
lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay,
địa tô tư bản chủ nghĩa. Trong chương này, chúng ta nghiên cứu những hình thức biểu
hiện cụ thể đó của giá trị thặng dư, đồng thời khẳng định các quy luật vận động của
chúng trong điều kiện tự do cạnh tranh của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
LỢI NHUẬN, LỢI NHUẬN BÌNH QUÂN VÀ GIÁ CẢ SẢN XUẤT
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa
Như chúng ta đã biết, muốn tạo ra giá trị hàng hoá, tất yếu phải chi phí một số lao động
nhất định, gọi là chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện tại. Lao
động quá khứ (lao động vật hoá), tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c); lao động hiện tại
(lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới (v + m).
Đứng trên quan điểm xã hội mà xét, chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi
phí tạo ra giá trị hàng hoá. Ký hiệu giá trị hàng hoá: W = c + v + m.
Song, đối với nhà tư bản, họ không phải chi phí lao động để sản xuất hàng hoá, cho nên
họ không quan tâm đến điều đó. Trên thực tế, họ chỉ quan tâm đến việc ứng tư bản để
mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Do đó, nhà tư bản chỉ xem hao phí hết
bao nhiêu tư bản, chứ không tính đến hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. C. Mác gọi
chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu bằng k (k = c + v).
Vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản
xuất hàng hoá.
Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì công thức giá trị hàng hoá (W = c +
v + m) sẽ chuyển thành W = k + m.
Như vậy, giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự khác nhau cả
về mặt lượng lẫn mặt chất.
Về mặt lượng: chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay
giá trị hàng hoá:
98/281
(c + v) < (c + v + m)
Vì tư bản sản xuất được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động cho nên chi phí
sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước.
Ví dụ: Một nhà tư bản sản xuất đầu tư tư bản với số tư bản cố định (c1) là 1200 đơn vị
tiền tệ; số tư bản lưu động (c2 và v) là 480 đơn vị tiền tệ (trong đó giá trị của nguyên,
nhiên, vật liệu (c2) là 300 và tiền công (v) là 180). Nếu tư bản cố định hao mòn hết trong
10 năm, tức là mỗi năm hao mòn 120 đơn vị tiền tệ, thì:
Chi phí sản xuất là: 120 + 480 = 600 đơn vị tiền tệ.
Tư bản ứng trước là: 1200 + 480 đơn vị tiền tệ.
Nhưng khi nghiên cứu, C.Mác thường giả định tư bản cố định hao mòn hết trong một
năm, nên tổng tư bản ứng trước và chi phí tư bản luôn bằng nhau và cùng ký hiệu là k
(k = c + v).
Về mặt chất: chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng, đầy đủ hao phí lao động
xã hội cần thiết để sản xuất và tạo ra giá trị hàng hoá, còn chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa (k) chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản mà thôi, nó không tạo ra giá trị
hàng hoá.
C.Mác viết: phạm trù chi phí sản xuất không có quan hệ gì với sự hình thành giá trị hàng
hoá, cũng như không có quan hệ gì với quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị.
Việc hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) che đậy thực chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản. Giá trị hàng hoá: W = k + m, trong đó k = c + v. Nhìn vào công thức trên
thì sự phân biệt giữa c và v đã biến mất, người ta thấy dường như k sinh ra m. Chính ở
đây chi phí lao động bị che lấp bởi chi phí tư bản (k), lao động là thực thể, là nguồn gốc
của giá trị thì bị biến mất, và giờ đây hình như toàn bộ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa
sinh ra giá trị thặng dư.
Lợi nhuận
Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có một khoảng
chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hoá (giá cả = giá trị), nhà tư bản không những bù
đắp đủ số tư bản đã ứng ra, mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền
này được gọi là lợi nhuận, ký hiệu là p.
Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của
toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận. Hay lợi nhuận là
số tiền lời mà nhà tư bản thu được do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
99/281
Nếu ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức:
W = c + v + m = k + m bây giờ sẽ chuyển thành:
W = k + p
(hay giá trị hàng hoá bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận).
Vấn đề đặt ra là giữa p và m có gì khác nhau?
Về mặt lượng: nếu hàng hoá bán với giá cả đúng giá trị thì m = p; m và p giống nhau ở
chỗ chúng đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân
làm thuê.
Về mặt chất: thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ
là một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. C.Mác viết: "Giá trị thặng dư, hay là
lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất của
nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số
lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hoá"
. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.25, phần I,
tr.74.
.
Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao
động làm thuê, vì nó làm cho người ta tưởng rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao
động làm thuê tạo ra. Nguyên nhân của hiện tượng đó là:
Thứ nhất, sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khác nhau
giữa c và v, nên việc p sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận v được thay thế bằng
sức lao động, bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước.
Thứ hai, do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, cho
nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và có
thể thấp hơn giá trị hàng hoá là đã có lợi nhuận rồi. Đối với nhà tư bản, họ cho rằng lợi
nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có.
Điều này được thể hiện ở chỗ, nếu nhà tư bản bán hàng hoá với giá cả bằng giá trị của
nó thì khi đó m = p; nếu bán với giá cả cao hơn giá trị thì khi đó m < p; nếu bán với giá
cả nhỏ hơn giá trị hàng hoá, thì khi đó m > p. Nhưng xét trong toàn xã hội thì tổng giá
cả luôn bằng tổng giá trị, nên tổng lợi nhuận luôn bằng tổng giá trị thặng dư. Chính sự
không nhất trí về lượng giữa m và p, nên càng che giấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa
tư bản.
100/281
Tỷ suất lợi nhuận
Trên thực tế, các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận, mà còn quan tâm đến tỷ
suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản
ứng trước.
Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p' ta có:
p'= mc+v x 100 % =
p
k x 100%
Lợi nhuận là hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư, nên tỷ suất lợi nhuận cũng là sự
chuyển hoá của tỷ suất giá trị thặng dư, vì vậy chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nhưng giữa m' và p' lại có sự khác nhau cả về lượng và chất.
Về mặt lượng: p' luôn luôn nhỏ hơn m', vì:
p'= mc+v x 100 %, còn m'=
m
v x 100 %
Về mặt chất: m' phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.
Còn p' không thể phản ánh được điều đó, mà chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư
tư bản.
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi hơn.
Do đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư
bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
Sự thèm khát lợi nhuận của các nhà tư bản là không có giới hạn. Mức tỷ suất lợi nhuận
cao bao nhiêu cũng không thoả mãn được lòng tham vô đáy của chúng. Nhưng mức tỷ
suất lợi nhuận cao hay thấp không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các nhà tư bản,
mà phụ thuộc vào những nhân tố khách quan sau đây:
- Tỷ suất giá trị thặng dư:
Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
Ví dụ:
+ Nếu cơ cấu giá trị hàng hoá là: 800 c + 200 v + 200 m, thì m' = 100% và p'= 20%.
+ Nếu cơ cấu giá trị hàng hoá là: 800 c + 200 v + 400 m, thì m' = 200% và p' = 40%.
101/281
Do đó, tất cả những thủ đoạn nhằm nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư, cũng chính
là những thủ đoạn nhằm nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản:
Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao
thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.
Ví dụ:
+ Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 7/3 thì :
W = 70c + 30v + 30m và p' = 30%
+ Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 8/2 thì:
W = 80c +20v + 20m và p' = 20%.
Thông thường, khi cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng, thì tỷ suất giá trị thặng dư cũng có
thể tăng lên, nhưng không thể tăng đủ bù đắp mức giảm của tỷ suất lợi nhuận.
- Tốc độ chu chuyển của tư bản:
+ Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm càng
tăng lên, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.
Ví dụ:
+ Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 1 vòng:
80c + 20v + 20m, thì p' = 20%.
- Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 2 vòng:
80c + 20v + (20 + 20)m, thì p' = 40%.
Vậy tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển của tư bản và tỷ lệ nghịch với
thời gian chu chuyển của tư bản.
- Tiết kiệm tư bản bất biến
Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất
biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.
102/281
Vì theo công thức:
Rõ ràng khi m và v không đổi, nếu c càng nhỏ thì p' càng lớn.
Vì vậy, trong thực tế, để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà tư bản đã tìm mọi cách để
tiết kiệm tư bản bất biến như sử dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nhà kho, phương
tiện vận tải với hiệu quả cao nhất; kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động; thay
thế nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền, giảm những chi tiêu bảo hiểm lao động,
bảo vệ môi trường, giảm tiêu hao vật tư năng lượng và tận dụng phế liệu, phế phẩm, phế
thải để sản xuất hàng hoá.
Bốn nhân tố trên đây đều được các nhà tư bản sử dụng khai thác một cách triệt để, để
thu tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Song, với những đặc điểm, điều kiện khác nhau, nên cùng
một lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau, mà tỷ suất lợi
nhuận thu được lại khác nhau. Vì vậy, các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt với nhau
và dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hình thành giá trị thị trường
Cạnh tranh xuất hiện và gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh
là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất, kinh doanh hàng hoá
nhằm giành giật những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, để thu lợi
nhuận cao nhất. Trong nền kinh tế hàng hoá, cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động
lực.
Trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, tồn tại hai loại cạnh tranh là: cạnh tranh trong nội bộ
ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành,
cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Biện pháp cạnh tranh: các nhà tư bản thường xuyên cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất
lao động làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã
hội của hàng hoá đó để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Kết quả của cạnh tranh nội bộ ngành là hình thành nên giá trị xã hội (giá trị thị trường)
của từng loại hàng hoá. Điều kiện sản xuất trung bình trong một ngành thay đổi do kỹ
thuật sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng lên, giá trị xã hội (giá trị thị trường)
của hàng hoá giảm xuống.
103/281
Chúng ta biết rằng, trong các đơn vị sản xuất khác nhau, do điều kiện sản xuất (điều kiện
kỹ thuật, tổ chức sản xuất, trình độ tay nghề công nhân...) khác nhau, cho nên hàng hoá
có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường các hàng hoá phải bán theo giá trị xã
hội - giá trị thị trường.
Theo C. Mác, "một mặt phải coi giá trị thị trường là giá trị trung bình của những hàng
hoá được sản xuất ra trong một khu vực sản xuất nào đó. Mặt khác, lại phải coi giá trị
thị trường là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện
trung bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số những sản phẩm
của khu vực này"
. Sđd, tr. 271.
.
Cạnh tranh giữa các ngành và sự hình thành lợi nhuận bình quân
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm
mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn.
Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là tự
phát phân phối tư bản (c và v) vào các ngành sản xuất khác nhau.
Kết quả cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng
hoá chuyển thành giá cả sản xuất.
Chúng ta đều biết, ở các ngành sản xuất có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật
và tổ chức quản lý khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.
Giả sử có ba ngành sản xuất khác nhau, tư bản của mỗi ngành đều bằng 100, tỷ suất giá
trị thặng dư đều bằng 100%, tốc độ chu chuyển của tư bản ở các ngành đều như nhau.
Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản ở từng ngành khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác
nhau.
Ví dụ:
Ngànhsản xuất Chi phísản xuất m' (%) Khối lượng(m) P' (%)
Cơ khí 80 c + 20 v 100 20 20
Dệt 70 c + 30 v 100 30 30
Da 60 c + 40 v 100 40 40
104/281
Như vậy, cùng một lượng tư bản đầu tư, nhưng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên tỷ suất
lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản không thể bằng lòng, đứng yên ở những ngành có tỷ
suất lợi nhuận thấp. Trong ví dụ trên, các nhà tư bản ở ngành cơ khí sẽ di chuyển tư bản
của mình sang ngành da, làm cho sản phẩm của ngành da nhiều lên (cung lớn hơn cầu),
do đó giá cả hàng hoá ở ngành da sẽ hạ xuống thấp hơn giá trị của nó, và tỷ suất lợi
nhuận ở ngành này giảm xuống. Ngược lại, sản phẩm của ngành cơ khí sẽ giảm đi (cung
thấp hơn cầu), nên giá cả sẽ cao hơn giá trị, và do đó tỷ suất lợi nhuận ở ngành cơ khí sẽ
tăng lên. Như vậy, do hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, làm
cho ngành có cung (hàng hoá) lớn hơn cầu (hàng hoá) thì giá cả giảm xuống, còn ngành
có cầu (hàng hoá) lớn hơn cung (hàng hoá) thì giá cả tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản
từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các
ngành. Sự tự do di chuyển tư bản này chỉ tạm dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các
ngành đều xấp xỉ bằng nhau. Kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư
bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, ký hiệu là .
Nếu ký hiệu p¯' là tỷ suất lợi nhuận bình quân thì:
Theo ví dụ trên thì:
C.Mác viết: ... Những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản xuất khác
nhau, lúc đầu rất khác nhau. Do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỷ suất lợi nhuận khác
nhau đó san bằng thành tỷ số lợi nhuận chung, đó là con số trung bình của tất cả những
tỷ suất lợi nhuận khá ... , phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại
Xuất phát từ quan điểm: "Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực", Đảng ta phương
hướng cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ là: "Thực hiện
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới"
. Sđd, tr. 204.
.
- Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế
không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng
và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc
và với bạn hàng truyền thống; tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới,
phát triển các quan hệ mới dưới mọi hình thức.
- Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục
tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Chủ động tạo những điều kiện để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới; phát
huy ý chí tự lực, tự cường; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa vào
nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
Theo những định hướng trên, những năm qua, hoạt động kinh tế đối ngoại ở nước ta đã
từng bước mở rộng thị trường, đã lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức tài chính,
tiền tệ quốc tế, bước đầu đã thu được những thành tựu quan trọng. Bên cạnh những thành
272/281
tựu to lớn đó, hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn còn những bất cập đã và đang là những
thách thức đối với nước ta, đòi hỏi chính sách kinh tế đối ngoại phải tiếp tục đổi mới và
hoàn thiện.
Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại
Bình đẳng
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn
đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước.
Nguyên tắc bình đẳng này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng
quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình
thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. Với tư cách là
thành viên, mỗi quốc gia phải được bảo đảm có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ
như mọi quốc gia khác. Nói cách khác, bảo đảm tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia
trước luật pháp quốc tế và cộng đồng quốc tế.
Cùng có lợi
Nếu nguyên tắc thứ nhất giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan hệ đối
ngoại, thì nguyên tắc này lại giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan
hệ kinh tế giữa các nước với nhau.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc cùng có lợi bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng
các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có lợi ích
kinh tế dân tộc khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường thế giới, nguyên tắc bình đẳng
giữa các quốc gia sẽ là hình thức, nếu các quốc gia có tham dự không cùng có lợi ích
kinh tế. Vì trong trường hợp đó, quan hệ kinh tế giữa các nước sẽ đi ra ngoài yêu cầu
của quy luật giá trị - quy luật dựa trên nguyên tắc ngang giá của kinh tế thị trường trong
cộng đồng quốc tế.
Nguyên tắc cùng có lợi còn là động lực kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan
hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc
gia
Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập có chủ quyền về
mặt chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý.
Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc bình đẳng, trong quan hệ
đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Nó cũng bắt nguồn từ nguyên tắc cùng có lợi, mà
273/281
xét cho đến cùng chỉ khi cùng có lợi về mặt kinh tế, mới tạo cơ sở để cùng có các lợi ích
khác nhau về chính trị, quân sự và xã hội.
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên trong hai bên hoặc nhiều bên phải thực hiện đúng các
yêu cầu:
- Tôn trọng các điều khoản đã được ký kết trong các nghị định giữa các chính phủ và
trong các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau.
- Không được đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích của nhau.
- Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của quốc
gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật và kích động để can thiệp vào
đường lối, thể chế chính trị của các quốc gia đó.
Giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã
chọn
Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực
hiện quan hệ đối ngoại, vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội chủ
nghĩa, trong đó có nước ta. Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không
đơn thuần phải xử lý tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế, mà còn phải xử lý tốt mối quan
hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để tạo ra
sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện từng bước những đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội.
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM MỞ RỘNG, NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại, cần thực hiện đồng
bộ hàng loạt các giải pháp trong đó có các giải pháp chủ yếu sau đây:
Bảo đảm sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế xã hội
Môi trường chính trị, kinh tế - xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định đối với hoạt
động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài - hình thức chủ
yếu, quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ ra rằng,
nếu sự ổn định chính trị không được bảo đảm, môi trường kinh tế không thuận lợi, thiếu
các chính sách khuyến khích, môi trường xã hội thiếu tính an toàn... sẽ tác động xấu tới
quan hệ hợp tác kinh tế, trên hết là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài và khách du
lịch.
274/281
Có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại
Đây là giải pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng, có hiệu quả kinh tế đối ngoại. Việc
mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại đòi hỏi:
Một mặt, phải mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, mặt khác, phải sử dụng linh
hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt là phải sử dụng chính sách thích hợp đối
với mỗi hình thức kinh tế đối ngoại. Chẳng hạn đối với hình thức ngoại thương cần phải
có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, tăng nhanh
tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, phát triển mạnh mẽ những sản phẩm
hàng hoá dịch vụ có khả năng cạnh tranh, có cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu, đặc biệt
là nông sản, đầu tư cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư,
tăng sức hấp dẫn nhất là đối với các công ty xuyên quốc gia. Khuyến khích các doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và các chính sách hỗ trợ công dân Việt Nam kinh
doanh ở nước ngoài. Có chính sách thích hợp tranh thủ nguồn vốn ODA...
Tăng cường mở rộng và có biện pháp hữu hiệu đối với các hình thức kinh tế đối ngoại
khác như gia công, hợp tác khoa học - công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ, có chính
sách tỷ giá thích hợp...
Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung,
kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức đang hình thành và từng
bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội càng đóng vai trò quan trọng và yêu cầu
chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật mà
trước hết là hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải.
Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực bưu chính viễn
thông thì trong lĩnh vực giao thông vận tải, mặc dù đang có nhiều cố gắng, song vẫn còn
quá lạc hậu so với các nước trong khu vực, trong khi vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Do
vậy, phải có chiến lược đầu tư đúng nhất là đầu tư tập trung có trọng điểm, dứt điểm và
có hiệu quả cao, đặc biệt phải kiên quyết chống các hiện tượng tiêu cực gây thất thoát
vốn đầu tư.
Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại
Vai trò quan trọng về quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã được
khẳng định. Đối với lĩnh vực kinh tế đối ngoại do tính chất đặc biệt của nó vai trò đó
lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chỉ có tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
mới có thể bảo đảm mục tiêu, phương hướng và giữ vững được những nguyên tắc cơ
bản trong kinh tế đối ngoại và có như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại mới mang lại hiệu
quả. Cũng chỉ có tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước mới có thể hạn chế được
275/281
những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội nhờ đó mang lại lợi ích cho các đơn vị hoạt
động kinh tế đối ngoại nói riêng và quốc gia nói chung. Thông qua sự tăng cường vai
trò quản lý nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, phát huy
hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế, tránh được sự
thua thiệt về lợi ích...
Để tăng cường vai trò quản lý kinh tế đối ngoại của Nhà nước cần thiết phải đổi mới tổ
chức bộ máy, cơ chế quản lý để vừa đảm bảo sự thống nhất quản lý của nhà nước về
kinh tế đối ngoại, song vẫn phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị, đưa
lại hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng lớn.
Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, đối tác trở thành vấn đề rất cơ bản, có tính quyết định
đối với hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Do hình thức kinh tế đối ngoại rất đa dạng nên đối tác cũng hết sức đa dạng. Cũng vì thế
vừa xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác quan hệ trở thành vấn đề phức tạp cần được
xử lý linh hoạt.
Đối với việc xây dựng đối tác trong nước, điều quan trọng là phải từng bước xây dựng
các đối tác mạnh (về vốn, công nghệ, năng lực quản lý, phong cách giao tiếp quốc tế...)
có tầm cỡ quốc tế đóng vai trò đầu tàu trong quan hệ.
Đối với đối tác nước ngoài: việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là vấn đề quan trọng
đối với bên Việt Nam. Song trong tương lai và về lâu dài cần quan tâm hơn đối với các
công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản
lý mà chúng ta rất cần khai thác.
Trên đây là 5 giải pháp chủ yếu trong hệ thống các giải pháp. Mỗi giải pháp có vị trí
khác nhau và sự phân định cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Để mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Kinh tế đối ngoại? Vai trò của nó? Phân tích cơ sở khách quan của việc hình thành và
phát triển kinh tế đối ngoại.
2. Phân tích các hình thức kinh tế đối ngoại chủ yếu ở nước ta hiện nay.
3. Phân tích mục tiêu, phương hướng và nguyên tắc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
276/281
4. Trình bày các giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở
nước ta hiện nay.
277/281
Tham gia đóng góp
Tài liệu: GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN (DÙNG CHO KHỐI
NGÀNH KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH)
Biên tập bởi: PGS. TS. Phạm Văn Dũng
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương I: Đối tượng, phương pháp và chức năng của kinh tế chính trị Mác-
Lênin
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương II:Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương III:Hàng hoá và tiền tệ
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương IV: Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ
nghĩa tư bản
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương V: Tuần hoàn và chu chuyển tư bản
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương VI: Tái sản xuất tư bản xã hội
278/281
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương VII:Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng
dư
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương VIII: Chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền
Nhà nước
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương IX: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương X: Sở hữu tư liệu sản xuất và nền kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương XI: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương XII:Kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Các tác giả: unknown
URL: 
279/281
Giấy phép: 
Module: Chương XIII:Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương XIV:Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương XV: Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
Module: Chương XVI: Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Các tác giả: unknown
URL: 
Giấy phép: 
280/281
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam
Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources
– VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho
Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong
phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0
do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước
hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội.
Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành
một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi
ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học
tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn
tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu
khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của
độc giả.
Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các
tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như
đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring.
Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ
dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng
dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái
niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong
bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong
trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được
chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới.
281/281

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_mon_kinh_te_chinh_tri_mac_lenin_phan_2.pdf