Giáo trình môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Phần 1)

Để nhận thức hiện thực khách quan và tái hiện đối tượng nghiên cứu vào tư duy, cấu

thành một hệ thống những phạm trù và quy luật, khoa học kinh tế chính trị cũng sử

dụng phép biện chứng duy vật và những phương pháp khoa học chung như mô hình hoá

các quá trình và hiện tượng nghiên cứu, xây dựng các giả thuyết, tiến hành thử nghiệm,

quan sát thống kê, trừu tượng hoá, phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống. Đó

là những phương pháp được sử dụng cả trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.

Tuy nhiên, khác với các môn khoa học tự nhiên, kinh tế chính trị không thể tiến hành

các phương pháp thực nghiệm trong phòng thí nghiệm mà chỉ có thể thử nghiệm trong

đời sống hiện thực, trong các quan hệ xã hội hiện thực. Các thử nghiệm về kinh tế đụng

chạm đến lợi ích của con người, vì vậy kiểm tra những giải pháp, thử nghiệm cụ thể chỉ

được tiến hành trong những phạm vi rất hạn chế. Do vậy, phương pháp quan trọng của

kinh tế chính trị là trừu tượng hoá khoa học. Phương pháp trừu tượng hoá khoa học đòi

hỏi gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá trình và những hiện tượng

được nghiên cứu, tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng

5/281và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản chất cấp

một tiến đến bản chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật

phản ánh những bản chất đó. Vấn đề quan trọng hàng đầu trong phương pháp này là giới

hạn của sự trừu tượng hoá. Việc loại bỏ những cái cụ thể nằm trên bề mặt của cuộc sống

phải bảo đảm tìm ra được mối quan hệ bản chất giữa các hiện tượng dưới dạng thuần tuý

nhất của nó; đồng thời phải bảo đảm không làm mất nội dung hiện thực của các quan hệ

được nghiên cứu; không được tuỳ tiện, loại bỏ cái không được phép loại bỏ, hoặc ngược

lại, giữ lại cái đáng loại bỏ. Giới hạn trừu tượng hoá cần thiết và đầy đủ này được quy

định bởi chính đối tượng nghiên cứu. Thí dụ, để vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản

hoàn toàn có thể và cần phải trừu tượng hoá sản xuất hàng hoá nhỏ, mặc dù nó thực sự

tồn tại với mức độ ít hoặc nhiều ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng không được

trừu tượng hoá bản thân quan hệ hàng hoá - tiền tệ, bởi vì tư bản lấy quan hệ hàng hoá

- tiền tệ làm hình thái tồn tại của mình; hơn nữa, càng không được trừu tượng hoá việc

chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá, bởi vì không có hàng hoá - sức lao động thì

chủ nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư bản nữa.

pdf 99 trang kimcuc 11400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Phần 1)

Giáo trình môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Phần 1)
GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC - LÊNIN (DÙNG CHO KHỐI
NGÀNH KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH
DOANH)
Biên tập bởi:
PGS. TS. Phạm Văn Dũng
GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC - LÊNIN (DÙNG CHO KHỐI
NGÀNH KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH
DOANH)
Biên tập bởi:
PGS. TS. Phạm Văn Dũng
Các tác giả:
unknown
Phiên bản trực tuyến:
MỤC LỤC
1. Phần mở đầu
1.1. Chương I: Đối tượng, phương pháp và chức năng của kinh tế chính trị Mác-
Lênin
1.2. Chương II:Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế
1.3. Chương III:Hàng hoá và tiền tệ
2. Phần thứ nhất: Phương thức sản xuất Tư bản Chủ nghĩa
2.1. Chương IV: Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa
tư bản
2.2. Chương V: Tuần hoàn và chu chuyển tư bản
2.3. Chương VI: Tái sản xuất tư bản xã hội
2.4. Chương VII:Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
2.5. Chương VIII: Chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà
nước
3. Phần thứ hai: Những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã
hội ở Việt Nam
3.1. Chương IX: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
3.2. Chương X: Sở hữu tư liệu sản xuất và nền kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.3. Chương XI: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.4. Chương XII:Kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
3.5. Chương XIII:Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3.6. Chương XIV:Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.7. Chương XV: Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
3.8. Chương XVI: Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Tham gia đóng góp
1/281
Phần mở đầu
Chương I: Đối tượng, phương pháp và chức năng của kinh
tế chính trị Mác-Lênin
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ
CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
Đối tượng của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Lịch sử cho thấy quá trình hình thành và phát triển môn kinh tế chính trị có những nhận
thức khác nhau về đối tượng nghiên cứu. Chủ nghĩa trọng thương cho rằng, đối tượng
nghiên cứu của môn kinh tế chính trị là lĩnh vực lưu thông mà chủ yếu là ngoại thương.
Chủ nghĩa trọng nông chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực
sản xuất, nhưng lại chỉ giới hạn ở sản xuất nông nghiệp. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển
xác định kinh tế chính trị là khoa học khảo sát về bản chất và nguyên nhân của sự giàu
có, có những phát hiện nhất định về những quy luật kinh tế chi phối nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, nhưng lại coi các quy luật của chủ nghĩa tư bản là quy luật của quá trình lao
động nói chung của loài người, phủ định tính chất lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Một số
nhà kinh tế học hiện đại ở các nước tư bản chủ nghĩa lại tách chính trị khỏi kinh tế, biến
kinh tế chính trị thành khoa học kinh tế thuần tuý, che đậy quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa và mâu thuẫn giai cấp trong chủ nghĩa tư bản.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị được thể
hiện rõ trong tác phẩm Chống Đuyrinh của Ph.Ăngghen. Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh:
"Kinh tế chính trị học, theo nghĩa rộng nhất, là khoa học về những quy luật chi phối sự
sản xuất và sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người... Những
điều kiện trong đó người ta sản xuất sản phẩm và trao đổi chúng, đều thay đổi tuỳ từng
nước, và trong mỗi nước, lại thay đổi tuỳ từng thế hệ. Bởi vậy không thể có cùng một
môn kinh tế chính trị duy nhất cho tất cả mọi nước và cho tất cả mọi thời đại lịch sử
được... Vậy môn kinh tế chính trị, về thực chất là một môn khoa học có tính chất lịch
sử. Nó nghiên cứu tư liệu có tính chất lịch sử, nghĩa là một tư liệu luôn luôn thay đổi;
nó nghiên cứu trước hết là những quy luật đặc thù của từng giai đoạn phát triển của sản
xuất và của trao đổi, và chỉ sau khi nghiên cứu như thế xong xuôi rồi nó mới có thể xác
định ra một vài quy luật hoàn toàn có tính chất chung, thích dụng, nói chung, cho sản
xuất và trao đổi... Chẳng hạn như việc dùng tiền kim loại đã làm cho một loạt quy luật
phát huy tác dụng, những quy luật này có hiệu lực cho bất cứ nước nào và bất cứ giai
đoạn lịch sử nào mà tiền kim loại được dùng làm phương tiện trao đổi"
2/281
. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr.
207 - 208.
.
Phương thức phân phối sản phẩm cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất và trao đổi
của một xã hội nhất định trong lịch sử, vào những tiền đề lịch sử của xã hội đó. Tuy
vậy, phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả thụ động của sản xuất và trao đổi, nó
cũng có tác động trở lại đối với sản xuất và trao đổi.
Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị nghiên cứu sự phát sinh, phát triển của một phương
thức sản xuất nhất định và tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất đó bằng
một phương thức sản xuất cao hơn. Tác phẩm Tư bản của C. Mác là một kiểu mẫu về
kinh tế chính trị theo nghĩa hẹp, trong đó phân tích sự phát sinh, phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những nhân tố phủ định của chủ nghĩa tư bản
và sự chuẩn bị những tiền đề cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Trong lời tựa
viết cho lần xuất bản thứ nhất tác phẩm này, C. Mác đã xác định đối tượng nghiên cứu
là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích
ứng với phương thức ấy và mục đích cuối cùng của tác phẩm này là tìm ra quy luật vận
động kinh tế của xã hội hiện đại.
V.I. Lênin cũng xác định: Kinh tế chính trị "tuyệt nhiên không nghiên cứu "sự sản xuất"
mà nghiên cứu những quan hệ xã hội giữa người với người trong sản xuất, nghiên cứu
chế độ xã hội của sản xuất" và phê phán quan điểm cho rằng kinh tế chính trị là khoa
học về kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ xã hội của con người hình thành trong
quá trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất và vạch rõ những quy luật điều tiết sản
xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải đó trong những trình độ nhất định
với sự phát triển xã hội loài người. Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị
là phương thức sản xuất hay nói cách khác là nó nghiên cứu các quan hệ sản xuất trong
mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Các quan hệ sản xuất phải phù hợp một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, sự
phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Kinh tế chính trị không nghiên cứu bản thân đối tượng lao động và tư liệu lao động mà
nghiên cứu việc phát triển lực lượng sản xuất trong mức độ làm rõ sự phát triển của quan
hệ sản xuất do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Nó cũng không nghiên
cứu bản thân của cải vật chất, mà nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải này.
3/281
Kinh tế chính trị cũng quan tâm đến mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng, bởi vì các quan hệ sản xuất là cơ sở của kiến trúc thượng tầng và kiến trúc
thượng tầng, nhất là quan hệ chính trị, pháp luật, v.v. tác động trở lại quan hệ sản xuất
và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, biểu hiện rõ nhất là vai trò kinh tế
của nhà nước trong xã hội hiện đại.
Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và tác động với lực
lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nhưng không phải là nghiên cứu những biểu
hiện bề ngoài của các hiện tượng kinh tế mà đi sâu vạch rõ bản chất, tìm ra những mối
liên hệ và sự lệ thuộc bên trong của các hiện tượng và quá trình kinh tế trên cơ sở đó
hình thành các phạm trù và khái niệm như hàng hoá, tiền tệ, tư bản, thu nhập quốc dân,
v.v.. Kết quả cao nhất của sự phân tích khoa học các quan hệ sản xuất, các quá trình kinh
tế nói chung là phát hiện ra các quy luật, tính quy luật kinh tế và sự tác động của chúng
nhằm mục đích ứng dụng một cách có hiệu quả trong thực tiễn.
Quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ nhân quả bản chất, tất yếu, thường xuyên
lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế. Cũng như các quy luật tự nhiên,
các quy luật kinh tế có tính khách quan, không lệ thuộc vào ý chí và nhận thức chủ quan
của con người. Nhưng, khác với quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế chỉ xuất hiện trong
quá trình hoạt động kinh tế của con người. Vì vậy quy luật kinh tế có tính lịch sử, nó chỉ
tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định. Có những quy luật kinh tế tồn tại trong
mọi phương thức sản xuất, gọi là quy luật chung (như quy luật về sự phù hợp giữa quan
hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật tiết kiệm thời gian,
quy luật nâng cao nhu cầu, v.v.). Lại có những quy luật kinh tế chỉ tác động trong một
số hình thái kinh tế - xã hội nhất định, như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ,
v.v., đó là những quy luật đặc thù.
Cần chú ý rằng, quy luật kinh tế và chính sách kinh tế là hai vấn đề khác nhau.
Chính sách kinh tế là tổng thể các biện pháp kinh tế của nhà nước nhằm tác động vào
các ngành kinh tế theo những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định. Nó là
một khái niệm thuộc hoạt động chủ quan của nhà nước. Khi tình hình kinh tế thay đổi thì
chính sách kinh tế cũng thay đổi theo. Nó có thể được nhà nước sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện sau khi đã được ban hành. Nghiên cứu kinh tế chính trị chưa phải là nghiên cứu
chính sách kinh tế, nhưng việc nghiên cứu các chính sách kinh tế đòi hỏi phải nghiên
cứu kinh tế chính trị, dựa trên cơ sở khoa học của kinh tế chính trị.
Cần phân biệt kinh tế chính trị với các môn kinh tế khác, cụ thể như: kinh tế phát triển,
kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp. Giữa kinh tế chính trị và các bộ môn nói trên
có sự khác nhau về trình độ khái quát hoá. Những nguyên lý và những quy luật kinh
tế do kinh tế chính trị phát hiện có ý nghĩa phổ biến đối với toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, có thể ứng dụng trong các ngành và các cơ sở kinh tế. Còn những kết luận, những
4/281
nguyên lý của các bộ môn kinh tế khác chỉ có thể ứng dụng trong phạm vi ngành hoặc
những đơn vị kinh tế thuộc ngành đó.
Kinh tế chính trị là bộ môn khoa học cơ bản, cung cấp những nguyên lý lý luận cho các
bộ môn khoa học kinh tế khác. Đồng thời, nó định hướng cho các hoạt động thực tiễn
kinh tế. Ý nghĩa thực tiễn và sức sống của kinh tế chính trị thể hiện ở chỗ các phạm trù,
quy luật, nguyên lý của nó phản ánh sát thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước.
Cần có sự nhận thức đúng về sự giống nhau giữa kinh tế chính trị Mác- Lênin và kinh
tế học. Không ít người đã đối lập một cách cực đoan hai môn khoa học này. Nghiên cứu
lịch sử các học thuyết kinh tế cho thấy hai môn khoa học này có chung một nguồn gốc,
hay nói khác, đều nằm trong dòng phát triển của lịch sử các học thuyết kinh tế. Trong
dòng lịch sử đó, kinh tế học là một nhánh "phái sinh" của kinh tế chính trị tư sản, nên nó
chịu ảnh hưởng của A. Smith và D. Ricardo và thích ứng với yêu cầu lịch sử cụ thể của
chủ nghĩa tư bản.
Ưu điểm của kinh tế chính trị Mác - Lênin ở chỗ phát hiện những nguyên lý chung và
những quy luật trừu tượng chi phối quá trình sản xuất xã hội. Còn kinh tế học tuy phiến
diện nhưng lại có ưu điểm là vận dụng phương pháp tiếp cận tình huống (case study) và
minh hoạ bằng đồ thị, biểu đồ gắn với những hiện tượng cụ thể diễn ra trên bề mặt xã
hội. Bởi vậy, không nên đối lập một cách cực đoan kinh tế học với kinh tế chính trị Mác
- Lênin. Thái độ đúng đắn nhất là nắm vững những nguyên lý của kinh tế chính trị Mác
- Lênin, coi đó là nền tảng phương pháp của các môn khoa học kinh tế khác, và tiếp thu
có phê phán, có chọn lọc những thành tựu khoa học của kinh tế học làm phong phú thêm
kinh tế chính trị Mác – Lênin. C. Mác đã khẳng định học thuyết của mình là hệ thống
kinh tế chính trị "mở" biện chứng và phát triển không ngừng.
Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Để nhận thức hiện thực khách quan và tái hiện đối tượng nghiên cứu vào tư duy, cấu
thành một hệ thống những phạm trù và quy luật, khoa học kinh tế chính trị cũng sử
dụng phép biện chứng duy vật và những phương pháp khoa học chung như mô hình hoá
các quá trình và hiện tượng nghiên cứu, xây dựng các giả thuyết, tiến hành thử nghiệm,
quan sát thống kê, trừu tượng hoá, phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống... Đó
là những phương pháp được sử dụng cả trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Tuy nhiên, khác với các môn khoa học tự nhiên, kinh tế chính trị không thể tiến hành
các phương pháp thực nghiệm trong phòng thí nghiệm mà chỉ có thể thử nghiệm trong
đời sống hiện thực, trong các quan hệ xã hội hiện thực. Các thử nghiệm về kinh tế đụng
chạm đến lợi ích của con người, vì vậy kiểm tra những giải pháp, thử nghiệm cụ thể chỉ
được tiến hành trong những phạm vi rất hạn chế. Do vậy, phương pháp quan trọng của
kinh tế chính trị là trừu tượng hoá khoa học. Phương pháp trừu tượng hoá khoa học đòi
hỏi gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá trình và những hiện tượng
được nghiên cứu, tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong những hiện tượng
5/281
và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản chất cấp
một tiến đến bản chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật
phản ánh những bản chất đó. Vấn đề quan trọng hàng đầu trong phương pháp này là giới
hạn của sự trừu tượng hoá. Việc loại bỏ những cái cụ thể nằm trên bề mặt của cuộc sống
phải bảo đảm tìm ra được mối quan hệ bản chất giữa các hiện tượng dưới dạng thuần tuý
nhất của nó; đồng thời phải bảo đảm không làm mất nội dung hiện thực của các quan hệ
được nghiên cứu; không được tuỳ tiện, loại bỏ cái không được phép loại bỏ, hoặc ngược
lại, giữ lại cái đáng loại bỏ. Giới hạn trừu tượng hoá cần thiết và đầy đủ này được quy
định bởi chính đối tượng nghiên cứu. Thí dụ, để vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản
hoàn toàn có thể và cần phải trừu tượng hoá sản xuất hàng hoá nhỏ, mặc dù nó thực sự
tồn tại với mức độ ít hoặc nhiều ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng không được
trừu tượng hoá bản thân quan hệ hàng hoá - tiền tệ, bởi vì tư bản lấy quan hệ hàng hoá
- tiền tệ làm hình thái tồn tại của mình; hơn nữa, càng không được trừu tượng hoá việc
chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá, bởi vì không có hàng hoá - sức lao động thì
chủ nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư bản nữa.
Trừu tượng hoá khoa học gắn liền với quá trình nghiên cứu đi từ cụ thể đến trừu tượng,
nhờ đó nêu lên những khái niệm, phạm trù và vạch ra những mối quan hệ giữa chúng,
phải được bổ sung bằng một quá trình ngược lại - đi từ trừu tượng đến cụ thể. Cái cụ
thể này không còn là những hiện tượng hỗn độn, ngẫu nhiên mà là bức tranh có tính quy
luật của đời sống xã hội.
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học cũng đòi hỏi gắn liền với phương pháp kết hợp
lôgíc với lịch sử.
Bởi lẽ, lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy lôgíc cũng phải bắt đầu từ đó. Theo
cách nói của Ph. Ăngghen, sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh quá
trình lị ... uyết định nhất đối với
tái sản xuất mở rộng, nên điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng tư bản xã hội là:
90/281
Điều kiện thứ nhất: I (v + m) > II c
I (1000 v + 1000 m) > II (1500 c)
Giá trị mới của khu vực I sản xuất ra phải lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất của khu vực II
đã tiêu dùng.
Giả sử: khu vực I dành 1/2 m (= 500) cho tích lũy để mở rộng sản xuất và nếu cấu tạo
hữu cơ không thay đổi là 4/1 thì 500 sẽ chia thành 400 c và 100 v phụ thêm, 400 c phụ
thêm tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất nên được trao đổi trong nội bộ khu vực I.
Còn 100 v phụ thêm tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất nên phải được trao đổi với
khu vực II. Như vậy, khu vực I phải trao đổi với khu vực II tất cả là: 1000 v + 100 v phụ
thêm + 500 m (tiêu dùng cá nhân nhà tư bản) = 1600. Số giá trị tư liệu sản xuất mà khu
vực I có thể cung cấp cho khu vực II (1600) đã vượt quá quy mô tư liệu sản xuất của
khu vực II (1500) là 100 đã tạo điều kiện cho tái sản xuất mở rộng ở khu vực II.
Ở khu vực II tư bản phụ thêm sẽ là 100 c + 50 v (cấu tạo hữu cơ vẫn không thay đổi là
2/1) lấy ở giá trị thặng dư.
Cơ cấu mới của hai khu vực là:
I : (4000 + 400) c + (1000 + 100) v + 500 m = 6000 (tư liệu sản xuất).
II: (1500 + 100) c + (750 + 50) v + 600 m = 3000 (tư liệu tiêu dùng).
Gọi m1 là bộ phận giá trị thặng dư để tiêu dùng cho các nhà tư bản, Δc là bộ phận tư bản
bất biến phụ thêm. Δv là bộ phận tư bản khả biến phụ thêm, có thể thấy qua quá trình
trao đổi sản phẩm giữa hai khu vực của nền kinh tế được thực hiện như sau: I (v + Δv +
m1) = II (c + Δc).
I (1000 v + 100 v + 500 m) = II (1500 c + 100 c)
Điều kiện thứ hai: I (c + v + m) > I c + II c
Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực I phải lớn hơn tổng giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu
dùng của cả hai khu vực. Có như vậy, cả hai khu vực sản xuất của xã hội mới có tư liệu
sản xuất phụ thêm để mở rộng sản xuất.
Thực hiện qua trao đổi:
I (c + v + m) = Ic + IΔc + IIc + II Δc
I (4000 c + 1000 v + 1000 m) = I (4000 c) + I (400 Δc) + II (1500 c + II (100 Δc).
91/281
Tổng cung về tư liệu sản xuất của xã hội phải bằng tổng cầu về tư liệu sản xuất để thay
thế tư liệu sản xuất đã hao mòn và phụ thêm cho tái sản xuất mở rộng.
Điều kiện thứ ba: II (c + v + m) < I (v + m) + II (v + m).
Toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm của khu vực II. Có
như vậy mới có thể dành một phần thu nhập quốc dân để mở rộng sản xuất.
Thực hiện qua lưu thông:
II (c + v + m) = I (v + Δv + m1) + II (v + Δv + m1)
II (1500 c + 750 v + 750 m) = I (1000 v + 100 Δv + 500 m1) + II (750 v + 50 v + 600
m).
Tổng cung về tư liệu tiêu dùng của xã hội phải bằng tổng cầu về tư liệu tiêu dùng của xã
hội, bao gồm tư liệu tiêu dùng cho công nhân và nhà tư bản cộng với tư liệu tiêu dùng
cho bộ phận sức lao động phụ thêm ở cả hai khu vực.
Thực chất của vấn đề nghiên cứu điều kiện thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản
xuất mở rộng của tư bản xã hội là nghiên cứu sự trao đổi giữa hai khu vực của nền sản
xuất xã hội, tìm ra phương trình trao đổi giữa hai khu vực đó. Vì vậy, trong khi nghiên
cứu vấn đề này, C.Mác đã không tính đến sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản,
mặc dù Mác là người đầu tiên phát hiện ra quy luật đó.
V.I.Lênin đã áp dụng lý luận của C.Mác về tái sản xuất tư bản xã hội để nghiên cứu sự
hình thành thị trường tư bản chủ nghĩa do kết quả trực tiếp của việc phát triển lực lượng
sản xuất dưới tác động của tiến bộ kỹ thuật. V.I.Lênin đã chú ý đến sự tăng lên của cấu
tạo hữu cơ của tư bản. Trong cả hai khu vực, cấu tạo hữu cơ của tư bản đều tăng lên,
nhưng cấu tạo hữu cơ khu vực I tăng nhanh hơn khu vực II. Căn cứ vào thực tế đó và
phân tích sự phát triển của tư bản xã hội trong nhiều năm, cuối cùng Lênin đã nêu lên
một biểu so sánh về sự tăng lên của các bộ phận khác nhau của tổng sản phẩm xã hội và
kết luận:
"Sản xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu sản xuất phát triển nhanh nhất, sau đến sản
xuất tư liệu sản xuất để tạo ra tư liệu tiêu dùng; và cuối cùng chậm nhất là sự phát triển
của sản xuất tư liệu tiêu dùng". Đó cũng là nội dung của quy luật ưu tiên phát triển sản
xuất tư liệu sản xuất. Quy luật này là quy luật kinh tế của tái sản xuất tư bản mở rộng
trong điều kiện kỹ thuật ngày càng tiến bộ.
92/281
THU NHẬP QUỐC DÂN VÀ PHÂN PHỐI THU NHẬP QUỐC DÂN
TRONG XÃ HỘI TƯ BẢN
Thu nhập quốc dân
Thu nhập quốc dân là bộ phận còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi bù đắp những tư
liệu sản xuất đã sử dụng, là những giá trị mới do lao động xã hội tạo ra trong một năm.
Về mặt giá trị, thu nhập quốc dân gồm toàn bộ giá trị mới do lao động tạo ra trong một
năm, tức là bộ phận v + m trong tổng sản phẩm xã hội.
Về mặt hiện vật, thu nhập quốc dân cũng bao gồm tư liệu tiêu dùng và một phần tư liệu
sản xuất dùng để mở rộng sản xuất. Hai nhân tố làm tăng thu nhập quốc dân là số lượng
lao động và tăng năng suất lao động. Trong đó, tăng năng suất lao động là nhân tố quyết
định nhất.
Có hai phạm trù nói về thu nhập quốc dân: thu nhập quốc dân sản xuất và thu nhập quốc
dân sử dụng. Thu nhập quốc dân sản xuất là số thu nhập được sản xuất ra trong nước
đó. Thu nhập quốc dân sử dụng bằng thu nhập quốc dân sản xuất cộng với tài sản được
chuyển vào trong nước (vay nợ, được trả nợ, thanh toán do xuất siêu và các tài khoản
vãng lai, lợi nhuận của những tài sản đầu tư ở nước ngoài, vốn tư bản nước ngoài đầu
tư vào trong nước...) trừ đi những tài sản được chuyển ra nước ngoài (trả nợ, cho vay,
thanh toán nhập siêu, đầu tư ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận của tư bản nước ngoài
đầu tư vào trong nước về nước họ). Trong đó, thu nhập quốc dân sử dụng chính là cơ sở
quyết định quỹ tích lũy và tiêu dùng của xã hội.
2. Phân phối thu nhập quốc dân trong xã hội tư bản
Quan hệ phân phối của mỗi xã hội do quan hệ sản xuất của xã hội đó quyết định. Phân
phối thu nhập quốc dân trong xã hội tư bản trước hết là phân phối giữa những người,
những yếu tố tham gia vào quá trình tạo ra thu nhập quốc dân. Phân phối đó diễn ra
trong quan hệ giữa tư bản với lao động làm thuê, trong quan hệ cạnh tranh gay gắt giữa
những tập đoàn tư bản.
Quá trình phân phối thu nhập quốc dân chia thành phân phối lần đầu và phân phối lại.
Thu nhập quốc dân được phân phối lần đầu giữa các giai cấp cơ bản trong xã hội tư sản:
một bên là giai cấp tư sản và địa chủ, còn một bên là giai cấp công nhân. Kết quả phân
phối lần đầu là giai cấp công nhân nhận được tiền công, còn giai cấp tư sản và địa chủ
thì chia nhau giá trị thặng dư: nhà tư bản công nghiệp thu được lợi nhuận công nghiệp,
nhà tư bản thương nghiệp thu được lợi nhuận thương nghiệp, nhà tư bản cho vay thu
được lợi tức, địa chủ thu được địa tô. Như vậy, là trong quá trình phân phối lần đầu, thu
nhập quốc dân được chia thành tiền công, lợi nhuận, lợi tức và địa tô.
93/281
Quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân được tiến hành thông qua nhà nước tư sản.
Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước tư sản là thuế, công trái... nhà nước tư sản
dùng những món tiền huy động được để nuôi bộ máy chính quyền và những người phục
vụ: chi tiêu về quân sự, chạy đua vũ trang...
Ngày nay, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những quan hệ mới trong phân
phối thu nhập quốc dân. Đó là sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh
nghiệp gia đình với các hình thức phân phối tương ứng với nó. Sự phát triển rộng rãi
của những công ty cổ phần với sự tham gia mua cổ phiếu của những người lao động
làm cho thu nhập của một bộ phận người lao động ngoài tiền công là thu nhập chủ yếu,
còn có lợi tức cổ phần. Đặc biệt phần phân phối thu nhập quốc dân qua ngân sách nhà
nước thông qua các chương trình giáo dục, đào tạo, y tế, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ môi
trường, trợ cấp và bảo hiểm xã hội... của nhà nước, thu nhập và đời sống của người lao
động, của nhiều tầng lớp xã hội có được nâng lên. Tuy nhiên, do trình độ tích tụ và tập
trung sản xuất hình thành nên những tập đoàn tư bản khổng lồ, những tổ chức độc quyền
quốc gia và quốc tế, trong điều kiện năng suất lao động rất cao do cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đem lại và do tính chất của nhà nước tư sản, quan hệ bóc lột
không chỉ diễn ra trong nước, mà còn ở các nước khác, các tổ chức tư bản độc quyền
đã thu được những khối lượng lợi nhuận khổng lồ. Trong xã hội tư bản, khoảng cách về
thu nhập, về tài sản giữa người lao động với các nhà tư bản ngày càng lớn.
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
Khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản
Nếu như trong sản xuất hàng hoá giản đơn, với sự phát triển chức năng làm phương tiện
thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng nổ ra khủng hoảng kinh tế, thì đến chủ
nghĩa tư bản khi nền sản xuất đã xã hội hoá cao độ, khủng hoảng kinh tế là điều không
tránh khỏi. Từ đầu thế kỷ XIX, sự ra đời của đại công nghiệp cơ khí đã làm cho quá
trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị những cuộc khủng hoảng làm gián đoạn một cách chu
kỳ. Hình thức đầu tiên và phổ biến trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng
sản xuất "thừa". Khi khủng hoảng nổ ra hàng hoá không tiêu thụ được, sản xuất bị thu
hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị trường bị rối
loạn. Tình trạng thừa hàng hoá không phải là so với nhu cầu của xã hội, mà là "thừa" so
với sức mua có hạn của quần chúng lao động. Trong lúc khủng hoảng thừa đang nổ ra,
hàng hoá đang bị phá huỷ thì hàng triệu người lao động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì
họ không có khả năng thanh toán.
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính mâu thuẫn
cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá cao
của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu thuẫn sau:
94/281
- Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa
học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội.
- Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức
mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hoá.
- Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp lao động làm thuê.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên nổ ra vào năm 1825 ở nước Anh và cuộc khủng
hoảng đầu tiên mang tính chất thế giới tư bản chủ nghĩa nổ ra vào năm 1847.
Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa mang tính
chu kỳ. Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, cứ khoảng từ 8 đến 12
năm nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại phải trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế. Chu
kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận
động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Chu kỳ kinh tế gồm
bốn giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
- Khủng hoảng là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn này, hàng
hoá ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân
thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản
nợ, phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà các mâu
thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
- Tiêu điều: đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái đình trệ, không còn tiếp tục
đi xuống nữa nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hoá được
đem bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có nơi đầu tư. Trong giai đoạn này để thoát
khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản còn sống sót tìm cách giảm chi phí bằng cách hạ
thấp tiền công, tăng cường độ và thời gian lao động của công nhân, đổi mới tư bản cố
định làm cho sản xuất vẫn còn lợi trong tình trạng hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố định
làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi
chung của nền kinh tế.
- Phục hồi: là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất. Công
nhân lại được thu hút vào làm việc; mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá tăng lên,
lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
- Hưng thịnh: là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ trước
đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hoá tăng, xí nghiệp được mở rộng và
xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất
lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó, lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng
kinh tế mới.
95/281
Khủng hoảng kinh tế không chỉ diễn ra trong công nghiệp mà trong cả nông nghiệp.
Nhưng khủng hoảng trong nông nghiệp thường kéo dài hơn khủng hoảng trong công
nghiệp. Sở dĩ như vậy là do chế độ độc quyền tư hữu về ruộng đất đã cản trở việc đổi
mới tư bản cố định để thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, trong nông nghiệp vẫn còn
một bộ phận không nhỏ những người tiểu nông, điều kiện sống duy nhất của họ là tạo ra
nông phẩm hàng hoá trên đất canh tác của mình, vì vậy họ phải duy trì sản xuất ngay cả
trong thời kỳ khủng hoảng.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện nay, khủng hoảng kinh tế vẫn không tránh khỏi, nhưng có
sự can thiệp tích cực của nhà nước tư sản vào quá trình kinh tế. Sự can thiệp này mặc
dù không triệt tiêu được khủng hoảng và chu kỳ trong nền kinh tế nhưng đã làm cho tác
động phá hoại của khủng hoảng bị hạn chế bớt.
Hậu quả của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế nổ ra làm cho năng lực sản xuất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
bị phá hoại dữ dội; hàng loạt xí nghiệp bị đóng cửa, quy mô sản xuất bị thu hẹp, giá cả
giảm xuống, thương mại bị thu hẹp, nhiều ngân hàng không hoạt động, thị trường chứng
khoán bị rối loạn, giá cổ phiếu hạ thấp. Hàng loạt các xí nghiệp vừa và nhỏ bị vỡ nợ, phá
sản. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 đã làm giảm 1/3 sản lượng công nghiệp,
2/3 mậu dịch quốc tế trong hơn 50 nước. Nước Mỹ đã phá huỷ 92 lò nấu sắt, phá đi 10,4
triệu mẫu Anh cây bông, huỷ 6,46 triệu con lợn. Braxin phá huỷ 22 triệu bao cà phê.
Đan Mạch phá huỷ 117.000 con gia súc.
Trong khi một khối lượng của cải khổng lồ như vậy bị tiêu huỷ thì hàng triệu người lao
động lại lâm vào cảnh bần cùng đói khổ. Hàng triệu người lao động làm thuê bị mất việc
làm. Lợi dụng tình trạng thất nghiệp gia tăng, các nhà tư bản tăng cường bóc lột công
nhân bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ, tăng thời gian lao động. Không những
công nhân ở chính quốc bị bóc lột, mà nhân dân ở các nước thuộc địa, phụ thuộc cũng
chịu chung cảnh ngộ. Vì vậy, khủng hoảng kinh tế thúc đẩy mâu thuẫn đối kháng giữa
giai cấp tư sản với vô sản; giữa tư bản với các dân tộc thuộc địa càng thêm sâu sắc.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Thế nào là tổng sản phẩm xã hội, tư bản xã hội và thực hiện tổng sản phẩm xã hội?
2. Trình bày điều kiện thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tư bản xã
hội.
3. Phân tích quá trình phân phối thu nhập quốc dân dưới chủ nghĩa tư bản, qua đó rút ra
ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
4. Phân tích nguyên nhân, tính định kỳ và hậu quả của khủng hoảng kinh tế.
96/281
5. C.Mác vận dụng phương pháp trừu tượng hoá để trình bày quy luật thực hiện của tái
sản xuất tư bản xã hội như thế nào?
6. Các kết luận rút ra khi nghiên cứu điều kiện thực hiện của tái sản xuất tư bản xã hội
có ý nghĩa thế nào trong quản lý kinh tế?
97/281

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_mon_kinh_te_chinh_tri_mac_lenin_phan_1.pdf