Giáo trình Mạng LAN
Giới thiệu các thiết bị mạng LAN.
1.1.1. Định nghĩa
Mạng cục bộ (Local Area Network – LAN ) là mạng nằm trong một
phạm vi hẹp với chu vi nhỏ hơn vài chục km, nó thường là sở hữu của một
số cơ quan, tổ chức nào đó. Ví dụ mạng trong trường học, nhà máy
Công nghệ LAN được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là Ethernet. Nó
đạt được sự cân bằng giữa tốc độ, giá cả, dễ cài đặt, và khả năng hỗ trợ.
Khoảng 80% các mạng LAN đã cài đặt dùng Ethernet.
Chuẩn Ethernet được định nghĩa bởi viện kỹ thuật điện và điện tử
(IEEE) Hoa Kỳ trong chỉ tiêu thường biết đến dưới mã hiệu IEEE802.3.
1.1.2. Phương tiện Ethernet và cấu trúc liên kết(Topology):
Cáp đồng trục là phương tiện LAN đầu tiên được dùng trong cấu trúc
liên kết tuyến (bus topology ). Trong cấu hình này cáp đồng trục tạo thành
một tuyến đơn gắn với tất cả các trạm. Tuy nhiên ngày nay cấu trúc này rất ít
được ử dụng.
Một cấu trúc khác gọi là cấu trúc liên kết hình sao thì mạnh hơn.
Trong cấu trúc liên kết hình sao, mỗi trạm được gắn vào một dây hệ trung
tâm (HUB) bởi một đoạn cáp xoắn riêng biệt. Mỗi đầu cáp gắn với các NIC
của các trạm và đầu kia gắn với cổng các HUB đặt trong khoang dây taị
trung tâm
Có thể xây dựng mạng Ethernet sử dụng các phương tiện khác nhau:
Cáp dây xoắn, cáp đòng trục, cáp quang.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Mạng LAN
Chương I Tổng quan 1.1. Giới thiệu các thiết bị mạng LAN. 1.1.1. Định nghĩa Mạng cục bộ (Local Area Network – LAN ) là mạng nằm trong một phạm vi hẹp với chu vi nhỏ hơn vài chục km, nó thường là sở hữu của một số cơ quan, tổ chức nào đó. Ví dụ mạng trong trường học, nhà máy Công nghệ LAN được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là Ethernet. Nó đạt được sự cân bằng giữa tốc độ, giá cả, dễ cài đặt, và khả năng hỗ trợ. Khoảng 80% các mạng LAN đã cài đặt dùng Ethernet. Chuẩn Ethernet được định nghĩa bởi viện kỹ thuật điện và điện tử (IEEE) Hoa Kỳ trong chỉ tiêu thường biết đến dưới mã hiệu IEEE802.3. 1.1.2. Phương tiện Ethernet và cấu trúc liên kết(Topology): Cáp đồng trục là phương tiện LAN đầu tiên được dùng trong cấu trúc liên kết tuyến (bus topology ). Trong cấu hình này cáp đồng trục tạo thành một tuyến đơn gắn với tất cả các trạm. Tuy nhiên ngày nay cấu trúc này rất ít được ử dụng. Một cấu trúc khác gọi là cấu trúc liên kết hình sao thì mạnh hơn. Trong cấu trúc liên kết hình sao, mỗi trạm được gắn vào một dây hệ trung tâm (HUB) bởi một đoạn cáp xoắn riêng biệt. Mỗi đầu cáp gắn với các NIC của các trạm và đầu kia gắn với cổng các HUB đặt trong khoang dây taị trung tâm Có thể xây dựng mạng Ethernet sử dụng các phương tiện khác nhau: Cáp dây xoắn, cáp đòng trục, cáp quang. 1.1.2.1. Cấu trúc kết nối Bus. Dùng cáp đồng trục. Cáp đồng trục dùng làm đường truyền chung cho toàn mạng. Đường truyền chung trong mạng được gọi là bus. Mọi nút mạng được gắn vào đường bus đó. ở hai đầu của đoạn cáp có thiết bị gọi là terminal để chánh phản hồi ngược lại của tín hiệu. Dùng cáp béo RG8: Để gsứn nút mạng vào bus phải có thiết bị tranceiver để nhận các bít từ cạc mạng ra sau đó chuyển thnhf xung ( tín hiệu phù hợp để chạy trên dây cáp) Dùng cáp gầy: Không sử dung tranceiver mà gắn ngay trên NIC. Sử dụng một số các thiết bị đầu cuối ( connecter ) hình chữ T hai đầu nối với BNC, một đaauf nối với đầu ra của NIC, ta thấy kết nối đơn giản hơn. Nhược điểm của cấu trúc bus: ♣ Khi đoạn cáp bị đứt tại một điểm bất kỳ sẻ làm ngưng trệ giao thông trên toàn bộ mạng do khi bị đứt đoạn cáp bị chia thành hai phần do đó sẽ thiếu mất một terminal, tín hiệu truyển đi sẽ bị phản xạ trở lại. ♣ Khi số lượng nút mạng khá lớn sẽ gây khó khăn trong việc phát hiện các sự cố trên đường cáp. ♣ Không thuận lợi cho việc nâng cấp mạng. ♣ Tốc độ tối đa là 10 Mbps. Dùng đôi xoắn Phương thức truyền tín hiệu trên các đồng trục là không cân bằng dó đó ta sử dụng hai sợi đây có hiệu điện thể ngược nhau xoắn vào nhau để làm cho pha ngược nhau. Gọi là cáp đối xoắn. Cáp đôi xoắn chia 2 loại: ♣ STP ( Shielded Twisted Pair): Có thêm một lớp bọc bằng kim loại xung quanh các cặp dây để tăng cường khả năng chống nhiễu, do đó loại cáp này được áp dụng trong môi trương có khả năng chống nhiễu cao ♣ UTP ( Unshielded TP ): Sau các cặp dây đến ngay lớp bảo vệ, không có lớp bọc kim loại xung quanh, do đó nó được áp dụng trong các môi trường thông thường Dùng cáp quang Tín hiệu được truyền dưới dạng tia sáng nên ít bị ảnh hưởng của nhiễu, từ tính, độ suy hao không lớn. Được chế tạo từ các sợi thuỷ tinh nhỏ do đó chi phí cao, rất phức tạp cho việc sửa chữa bởi các thiết bị rất tinh vi. Cấu tạo gồm 3 lớp: ♣ Lõi thuỷ tinh ♣ Lớp vạtt liệu chống khúc xạ ♣ Lớp vỏ bảo vệ Tín hiệu truyền dưới dạng tia sáng trên lớp thuỷ tinh, có lớp khúc xạ làm cho tín hiệu bị suy hao ít do đó truyền trên đường truyền dài được. Chia cáp quang thành 2 loại: ♣ Single Mode: Cho phép tia sáng truyền qua nó theo chiều song song với trục nằm ngang. ♣ Multi Mode: Cho phép ánh sáng truyền trên nó theo hướng bất kỳ. Truyền dùng cáp quang tốc đọ rất cao 1.1.2.2. Cấu trúc kết nối Star. Có thể dùng cáp đôi xoắn hoặc dùng cáp quang Thiết bị Oullet (Wall place): Oullet là một loại ổ cắm, thay vì nối từ HUB đến các nút mạng ta nối từ HUB đến các Outlet rồi từ đó nối đến các nút mạng. Dùng Oullet tăng tính linh động, dễ di chuyển đến các nút mạng mà không ảnh hưởng nhiều đến các nút mạng khác. Thiết bị Patch Panel và Cross Connect: Patch Panel như cái bảng cắm dây, dùng outlet, khi số nút mạng tăng lên nhiều khó xử lý khi đó ta dùng thiết bị Patch Panel Patch Panel có các cổng TP để nối với các HUB. Khi ta nối các HUB/Bridge với nhau ta dùng Cross cable ( cáp chéo), đây là loạ cáp truyền một đầu, nhận một đầu. Số lượng HUB kết nối giữa 2 nút mạng <= 4 Không nối vòng tròn các HUB với nhau. Rack mount Cabinet Patch O utlet Panel Cross Connect Đặc điểm của cấu trúc Star: ♣ Một đoạn bị đứt không ảnh hưởng đến toàn mạng ♣ Việc tăng thêm số lượng nút mạng dễ dàng, không ảnh hưởng đến giao thông trên mạng. ♣ Việc nâng cao tốc độ có thể làm được 1.1.2.3. Cấu trúc kết nối Ring. Cấu hình mạng ring nối các máy tính trên một vòng cáp. Không có đầu nào bị hở. Tín hiệu truyền đi theo một chiều và đi qua từng máy tính. Khác với cấu hình bus thụ động, mỗi máy tính đóng vai trò như một bộ chuyển tiếp, khuyếch đại tín hiệu và gửi nó đến máy tính tiếp theo. Do tín HUB hiệu đi qua từng máy nên sự hỏng hóc của một máy ảnh hưởng đến toàn mạng. 1.2. Giới thiệu các thiết bị mạng WAN 1.2.1. Định nghĩa. Mạng diện rộng (Wide Area Network - WAN) là hệ thống kết nối các mạng cục bộ nằm ở xa nhau. Ví dụ kết nối các điểm trong một thành phố, giữa các thành phố 1.2.2. Thiết bị Gateway Các Gateway được thiét kế để nối các loại mạng khác nhau về cơ bản .Chúng thực hiện điều đó bằng cách dịnh các thông điệp từ một định dạng này sang một định dạng khác . Các Gateway thường được dùng để nối một mạng với một máy tính chính hoặc với một máy tính mini. Nếu bạn không có một máy tính chính hoặc máy tính mini,có lẽ bạn không cần Gateway . +Các Gateway là cần thiết vì các nhà sản xuất máy tính dùng các thiết kế độc quyền trong mạng.Nếu các nhà sản xuất máy tính chịu nói chuyện với nhau 20 năm trước thì ngày nay chúng ta đã không phải dùng các Gateway để cho các mạng nói chuyện với nhau. 1.2.3. Thiết bị Router Thiết bị Router tương tự như một Bridge siêu thông minh cho các mạng thực sự lớn. Các Bridge biết địa chỉ của tất cả các máy tính ở các máy tính kết nối đến nó và có thể gửi chuyển tiếp các thông điệp theo đúng địa chỉ. Nhưng các Router còn biết nhiều hơn về mạng. Một Router không những chỉ biết địa chỉ của tất cả các máy tính mà còn biết các Bridge và Router khác ở trên mạng và có thể quyết định lộ trình có hiệu quả nhất để gửi mỗi thông điệp của mạng. Một trong những thủ thuật hay nhất mà các Router có thể thực hiện là nghe ngóng trên toàn mạng để xem các phần khác nhau của mạng bận rộn như thế nào.Nếu một phần nào đó của mạng bị bận, Router có thể quyết định gửi tiếp một thông điệp bằng cách dùng một đường ít bận hơn. 1.3. So sánh sự Bridge và Switch Bạn có thể nghĩ về các Switch như là Bridge có nhiều cổng. Switch là một phần cứng cơ sở, điều đó có nghĩa là chúng sử dụng các địa chỉ MAC từ các Card kết nối của các máy chủ để lọc được một mạng xác định. Bạn cần phải nhớ cách mà các Switch sử dụng các mạch tích hợp ứng dụng đặc biệt để xây dựng và lưu trữ các bảng lựa chọn. Tuy nhiên, có một số điểm khác nhau giữa các Bridge và các Switch điều này bạn sẽ nhận thấy ở các tính chất sau: +> Để tạo ra các quyết định lựa chọn, các Bridge sử dụng phần mềm còn các Switch sử dụng phần cứng. +> Mỗi Bridge chỉ có một cây bao trùm trong khi đó mỗi Switch có thể có nhiều cây bao trùm. +> Các Bridge có số cổng cực đại là 16, trong khi đó các Switch có thể có hàng trăm cổng. Mặc dù bridge và switch có nhiều tính năng tương tự nhau nhưng chúng vẫn có nhiều điểm khác biệt. Switch nhanh hơn nhiều so với bridge bởi vì chúng chuyển đổi bằng phần cứng so với cách chuyển đổi bằng phần mềm của bridge, switch có khả năng kết nối các mạng có băng thông khác nhau ví dụ có thể kết nối hai mạng cục bộ ethernet 10Mbps và mạng 100Mbps với nhau. Switch có mật độ cổng cao hơn so với bridge. Một số cung cấp kiểu hoạt động cut-through switching làm giảm thời gian trễ trong mạng trong khi đó bridge chỉ cung cấp chế độ store-and-forward switching. Cuối cùng switch làm giảm thiểu sự đụng độ trên các đoạn của mạng bởi vì chúng cung cấp băng thông dành riêng cho các đoạn. Chương II Hoạt động của Ethernet bridge và switch 2.1. Giới thiệu về mạng Ethernet Phần này giới thiệu về kiến trúc mạng Ethernet và trình bày khái quát về các chức năng, đặc tính, và những thành phần chủ yếu của kiến trúc mạng Ethernet. ♣ Tổng quan về Ethernet Kiến trúc mạng kết hợp các tiêu chuẩn, cấu hình và giao thức để tạo thành mạng làm việc. Phần này mô tả kiến trúc mạng Ethernet. ♣ Nguồn gốc của Ethernet Vào cuối thập niên 60, trường đại học Hawall phát triển một mạng diện rộng (WAN) ( gọi là ALOHA). Hẳn các bạn còn nhớ, mạng diện rộng (WAN) chính là cục bộ ( LAN) mở rộng qua một địa hình rộng hơn. Trường đại học có một địa hình rộng lớn và họ cần nối kết những máy tính nằm rải rác khắp khu vực trường. Một trong những đặc điểm quan trọng của mạng mà họ đã thiết kế là việc sử dụng CSMA/CD làm phương pháp truy nhâp. Mạng sơ khai này đặt nền tảng cho cấu trúc mạng Ethernet ngày nay. Vào năm 1972. Robert Metcalfe và David boggs phát minh ra sơ đồ đường cáp và lược đồ truyền dữ liệu ở trung tâm nghiên cứu Palo Alto của Xerox (Xerox Palo Alto Research) Center – PARC). và đưa ra sản phẩm Ethernet đầu tiên vào năm 1975. Phiên bản Ethernet đầu tiên được thiết kế như một hệ thống 2.94 Mbps để nối hơn 100 máy tính vào sợi cáp dài 1 km. Xerox Ethernet thành công đến mức tập đoàn và Digital Equipment đã thảo ra tiêu chuẩn Ethernet 10 Mbps. Ngày nay, đó là quy cách kĩ thuật mô tả phương pháp nối và dùng chung cáp cho máy tính và hệ thống dữ liệu. Quy cách kỹ thuật Ethernet có cùng chức năng như tầng Phicical và tâng Data Link trong OSI. Thiết kế này là cơ sở cho quy cách kĩ thuật 802.3 của IEEE. ♣ Các đặc tính của Ethernet Hiện nay Ethernet là kiến trúc mạng phổ biến nhất: kiến trúc dải gốc ( Baseband Architecture) này dùng cấu hình bus thường dùng ở tốc độ 10 Mbps và dựa vào CSMA\CD để điều chỉnh lưu thông trên đường cáp chính. Môi trường Ethernet mạng tính thụ động, có nghĩa nó lấy năng lượng từ máy tính và vì vậy sẽ không ngừng hoạt động trừ khi phương tiện nối bị cắt đứt hoặc bị kết thúc không đúng cách. ♣ Những đặc điểm cơ bản của Ethernet Danh sách sau tóm tắt các đặc tính của Ethernet Cấu hình truyền thông bus đường thẳng Cấu hình khác star bus Kiểu kiến trúc dải gốc ( Baseband) Phương pháp truy nhập CSMA\CD Quy tắc truy nhập IEEE 802.3 Vận tộc chuyền 10 Mbps hoặc 100 Mbps Loại cáp cáp đông trục, cáp mảnh,các UTP ♣ Dạng thức khung trong Ethernet Ethernet chia dữ liệu thành nhiều gói có dạng thức khác với gói dụng trong mạng khác. Ethernet chia dữ liệu thành nhiều khung ( frame). Khung là khói thông tin được truyền như một đơn vị duy nhất. Khung trong Ethernet có thể dài tự 64 byte đến 1518 byte, nhưng bản thân Ethernet đã sử dụng ít nhất 18 byte nên dữ liệu trong một khung Ethernet có thể dài từ 46 byte đến 1500 byte mỗi khung đền có chứa thông tin điều khiển và tuân theo cùng một cách cơ bản. Lấy ví dụ, khung Ethernet II ( dùng cho TCP\IP) đượng truyền qua mạng với các thành phần sau: Trường khung Mô tả Đầu Đánh dấu điểm bắt đầu khung Đích và nguồn Địa chỉ nguồi và địa chỉ đích Kiểu Được dùng để nhận diện giao thức tầng Network ( IP hay IPX) Mã kiểm tra CRC Trường kiểm tra lỗi nhằm các định liệu có phải khung đã đến mà không bị hư hại hay không Pr ea m bl e D es tin at io n So ur ce Ty pe Data RC Mẫu khung Ethernet II ♣ Giới thiệu cấu hình 10BaseT Vào năm 1990, uỷ ban IEEE ban hành quy cách kỹ thuật 802.3 dành cho việc chạy Ethernet trên dây xoắn đôi. 10BaseT( 10 Mbps,dải gốc, trên cáp xoắn đôi) là mạng Ethernet điển hình dùng cáp xoắn đôi trần ( UTP), nhưng cáp xoắn đôi có bọc (STP) cũng dùng được mà không làm thay đổi thông số nào của 10BaseT. Đa số mạng loại này được lập cấu hình theo dạng star ( hình sao) nhưng bên trong dùng hệ thống truyền tín hiệu bus giống như các cấu hình Ethernet khác. Hub của mạng 10BaseT đóng vai trò như bộ truyển tiếp đa cổng ( multiport repeater) và thường được đặt ở nơi bắc dây trong nhà. Mỗi mày tính có hai cặp dây dẫn – một cặp dùng để nhận dữ liệu và cặp kia dùng truyền dữ liệu. Chiều dài tối đa của một phân đoạn 10BaseT là 100m ( 328 feet). Có thể dùng bộ chuyển tiếp để nối thêm chiều dài nay. Chiều dài cáp tối đa giữa các máy tính là 2.5m. Một mạng cục bộ 10BaseT sẽ phục vụ cho 1024 máy tính. Hình 12.4 minh hoạ những lợi điểm của sơ đồ đi dây hình sao trong giải pháp 10BaseT. Cáp UTP có khả năng truyền dữ liệu ở tốc độ 10 Mbps. Rất dễ dời chuyển và thay đổi máy tính bằng cách di chuyển dây tiếp dẫn mô dun trong bảng phân phối. Khác với mạng bus Ethernet truyền thống. Các thiếu bị khác trên mạng không bị ảnh hưởng do sự thay đổi trên bảng phân phối. Bảng phẩn phối nên được kiểm tra ở những tốc độ cao hơn 10 Mbps. Hub mới nhất có thể cung câp nối kết chao các đoạn cáp Ethernet cả mảnh lẫn dày. Với kiểu lắp đặt này, cũng dễ dàng chuyển đổi từ cáp Ethernet dày sang cáp 10BaseT bằng cách gắn một máy thu phát 10BaseT nhỏ vào cổng AUI của CARD mạng bất kì. Tóm tắt cấp hình 10BaseT Phân mục Ghi chú Cáp Cáp UTP hạng 3.4 hoặc 5 Bộ nối RJ-45 ở các đầu cáp Máy thu phát Mỗi máy tính cần một cái: một số card có máy thu phát cài sẵn Khoảng cách từ máy thu phát tới Hub Tối đa 100m Cáp chính cho hub Cáp đồng trục hoặc cáp quang nối với mạng cục bộ lớn hơn Tổng số máy tính cho mỗi mạng cục bộ không có thành phần nối Theo quy cách kĩ thuật là 1024 máy ♣ Cân nhắc hiệu suất mạng Ethernet có thể sử dụng một vài giao thưc truyền thông, trong đó có TCP/IP, vốn hoạt động hiệu quả trong môi trường UNIX. Điều này khiến cho Ethernet được ưa chuộng trong các cộng đồng khoa học và học đường. ♣ Phân đoạn Hiệu xuất thi hành của Ethernet có thể được cải thiện bằng cách chia một đoạn cáp nối đầy thiết bị thành hai đoạn cáp nối it thiết bị hơn và nối hai đoạn cáp này bằng một bridge hoặc router. Việc này làm giảm lưu lượng truyền thông trên mỗi đoạn cáp. Do có ít mày tính truyền dữ liệu nên đoạn cáp hơn, do đó thời gian truy nhập xẽ nhanh hơn. Phân đoạn là một giải pháp lý tưởng trong trường hợp mạng kết hợp thêm nhiều người dùng mới hoặc ứng dụng trong giải thông cao, chẳng hặn chương trình cơ sở dữ liệu và chương trình Video đang đượng cài thêm vào mạng. ♣ Hệ điều hành mạng Ethernet sẽ làm việc tốt với các hệ điều hành phổ biến như sau: Microft Windows 95 Microft Windows NT Workstation Microft Windows NT Server Microft LAN Manager Microft Windows for Workgroups Novell NetWare IBM LAN Server AppleShare 2.2. Ethernet switch và bridge 2.2.1. Hoạt động của Switch và Bridge. 2.2.1.1. Cơ bản về Switch và Bridge Bridge và switch là các thiết bị truyền dữ liệu hoạt động chủ yếu ở tầng 2 theo mô hình OSI. Bởi vậy chúng được xem là các thiết bị tầng Data- link. Bridge được thương mại ho ... ữa SRT và SRB là có thể. Các đường đi được chọn có khả năng không tốt như là đối với môi trường chỉ có transparent bridge. Cuối cùng, mạng vừa có SRB và SRT bridging làm mất đi các tính năng của SRT, do đó người sử dụng không muốn chuyển sang SRT khi chúng còn đắt. SRT bridging chỉ sử dụng để kết nối hai mạng có kiến trúc khác nhau, giữa SRD và transparent bridging. Chương V Spanning Tree Protocol (STP) 5.1. Hoạt động của giao thức Spanning Tree. Giao thức này áp dụng cho cả Switch và Bridge, bây giờ ta đi xem xét các hoạt động của giao thức Spanning Tree: Khi các thiết bị Switch/Bridge tham gia vào mạng nó sẽ sử dụng một gói dữ liệu BPDU ( Bridge Protocol Data Unit) để trao đổi thông tin với nhau nhằm: Xác định Switch/Bridge nào được coi là gốc (Root Switch/Bridge) Trên các Switch/Bridge không phải là gốc (NonRoot Switch/Bridge) nó phải xác định ra Root Port – đây là cổng mà nó sẽ kết nối đến Root Switch/Bridge theo đường ngắn nhất, trong một Bridge/S chỉ có một Root Port Xác định trạng thái của các cổng là Forward hay Block: √ Forward là trạng thái truyền nhận dữ liệu bình thường Block là trạng thái không truyền nhận dữ liệu Trong một gói dữ liệu của Bridge/Switch sử dụng BPDU mang các thông tin sau: Root Bridge’s ID: là MAC address của Bridge/Switch đó, MAC address là duy nhất nên Root Bridge’s ID là duy nhất. Bridge ID được sử dụng đểv xác định Root Bridge trong mạng và xác định Root Port. Bridge ID dài 8 bytes bao gồm priority và MAC address của Bridge/Switch. Priority: đây là mưc ưu tiên của thiết bị Bridge/Switch, thường ban đầu priority của Bridge/Switch như nhau (coi =1), khi cần thiết sẽ thay đổi, MAC address hầu như không thay đổi được. Priority trên tất cả các Bridge/Switch dùng phiên bản IEEE STP mặc định là 32768. Cost Send Bridge’s ID: số hiệu của Bridge gửi trên gói BPDU, mục đích của chỉ số này là để cho nút nhận khi nhận được BPDU nó sẽ xác định được là BPDU được gửi từ đâu. Mỗi cổng trên Bridge/Switch được gán cho một giá nhất định, tuỳ thuộc vào tốc độ của cổng Ví dụ: Port Speed Cost 100Mbps 100Mbps 1Gbps 10Gbps 100 19 4 2 5.1.1. Quá trình lựa chọn Root Bridge Các switch và bridge có sử dụng giao thức STP trao đổi thông tin với nhau bằng các gói dữ liệu giao thức bridge (Bridge Protocol Data Units - BPDU). Các BPDU được sử dụng để gửi các thông tin cấu hình tới tất cả các bridge khác. Định danh của từng thiết bị bridge được gửi tới các bridge khác qua các BPDU. Định danh bridge được sử dụng để xác định bridge gốc của mạng và các cổng gốc. Định danh của bridge dài 8 byte bao gồm mức ưu tiên và địa chỉ MAC của thiết bị đó. Mức ưu tiên mặc định của các thiết bị theo chuẩn IEEE STP là 32768. Khi Bridge/Switch tham gia vào mạng bao giờ nó cũng tự coi nó là Root Bridge, đồng thời nó tạo ra BPDU trong đó Root Bridge’s ID trỏ đến Mac Address của nó, sau quá trình này nó gửi BPDU đến tất cả các cổng khác của nó, Cost của BPDU ban đầu bằng 0 Trong quá trình lựa chọn nếu Bridge/Switch nhận được một BPDU mô tả về một ứng cử viên khác tốt hơn ( mục đích là chọn lại Root Bridge vì ban đầu Bridge/Switch tự coi Root Bridge là chính nó) dựa vào 2 yếu tố: 1. Priority: Bridge/Switch nào có priority thấp hơn thì tốt hơn 2. ID : Ban đầu Priority của tất cả Bridge/Switch là bằng nhau, khi nhận được Bridge/Switch nào có ID bé nhất thì tốt nhất. Nếu Bridge/Switch có cùng giá trị priority, thì MAC address dùng để xác định cái nào co chỉ số ID thấp nhất . Ví dụ, nếu 2 Bridge/Switch A, B cả hai cùng sử dụng priority mặc định là 32768. Nếu MAC address của Bridge/Switch A là 0000.0C00.1111.1111 và Nếu MAC address của Bridge/Switch B là 0000.0C00.2222.2222 và thì Bridge/Switch A sẽ được chọn là Root Bridge. Các BPDU được gửi đi một lần trong 2 giây. Điều này gây nên một tổn phí khá lớn nhưng ta phải chú ý rằng gói tin này chỉ có đến layer 2 không có các thông tin của layer 3. Sau đây là một ví dụ của một gói tin BPDU: Flag: 0x80 802.3 Status: 0x00 Packet length: 64 802.3 header Destination: 01:80:c2:00:00:00 Source: 00:b0:64:75:6b:c3 LLC length: 38 802.2 Logical Link Control (LLC) header Dest. SAP: 0x42 802.1 Bridge Spanning Tree Source SAP: 0x42 802.1 Bridge Spanning Tree Command: 0x03 Unnumbered information 802.1 - Bridge Spanning Tree Protocol Identifier: 0 Protocol Version ID: 0 Message Type: 0 Configuration Message Flag: %00000000 Root Priority/ID: 0x8000 / 00:b0:64:75:6b:c0 Cost of Path to root: 0x00000000 (0) Bridge Priority/ID 0x80 / 00:b0:64:75:6b:c0 Port Priority/ID 0x80 / 0x03 Message Age: 0/256 seconds (0 giây) Maximum Age: 5120/256 (20 giây) Hello time: 512/256 (2 giây) Forward Delay; 3840/256 (15 giây) Extra bytes (thêm vào cho đủ): 00 00 00 00 00 00 00 00 Frame Check Sequence: 0x2e006400 Xem xét giá của đường đi từ bridge này đến gốc: trong trường hợp này là bằng không bởi vì bridge này tự xem nó là nút gốc. Trong Frame trên ta thấy có chỉ ra các thời gian của BPDU, các khoảng thời gian này được sử dụng để ngăn ngừa sự lặp các gói tin. Bởi vì các gói tin này chỉ có thể tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Các BPDU rất dễ bị trễ do chiều dài của gói thông tin, các quá trình xử lý của switch, băng thông và các vấn đề tối ưu. Điều này có thể dẫn đến một mạng không tin cậy bởi vì có thể đưa đến việc các gói tin bị quẩn khi các gói tin BPDU không đến đúng lúc. STP sử dụng đồng hồ để bắt các cổng phải chờ các thông tin cấu hình đúng. Trong gói tin được phân tích ở trên, thời gian Hello là 2 giây, thời gian bắt đầu xây dựng lại cây là 20 giây, và thời gian trễ là 15 giây. Khi nhận được ứng cử viên tốt hơn nó sẽ dừng ngay việc loan truyền các thông tin về Root Bridge hiện thời mà nó chuyển sang loan truyền thông tin về Root Bridge mới . Kết quả của quá trình này là ta chọn được Bridge/Switch có ID và priority bé nhất. 5.1.2. Lựa chọn Root Port Sau khi đã chọn được Bridge gốc, tất cả các các switch phải trở thành các cành của nút gốc. Mỗi switch nhận các BPDU trên các cổng hoạt động, và nếu có nhiều hơn một BPDU nhận được thì nó nhận ra rằng nó đang có các kết nối dư thừa nối đến gốc. Switch phải chọn ra một cổng làm cổng gốc và cho các cổng khác vào trạng thái block. Để chọn ra cổng gốc, ta sử dụng các thông tin về tổn phí tới gốc. Tổn phí của STP được tính là tổng các tổn phí dựa trên băng thông của các kết nối mà bridge sử dụng để kết nối tới gốc. Bảng sau đây các tổn phí đối với các mạng Ethernet khác nhau: Tốc độ IEEE mới IEEE ban đầu 10Gbps 2 1 1Gbps 4 1 100Mbps 19 10 10Mbps 100 100 Khi các tổn phí của các kết nối đến gốc đã được xác định, switch sẽ xác định cổng nào có chi phí thấp nhất. Cổng đó được chọn làm cổng gốc còn các cổng khác chuyển sang chế độ Block. Nếu có các cổng có cùng chi phí thì cổng có số hiệu cổng thấp nhất được chọn làm cổng gốc. Ban đầu Bridge/Switch coi cổng nào gửi cho nó BPDU đầu tiên là Root Port. Khi nhận được BPDU tiếp mô tả về Root Bridge nó sẽ làm như sau: Lấy cost hiện thời cộng với cost của cổng mà nó nhận được BPDU: New Cost = Cost + Cost (Port) Sau đó Bridge/Switch xem giá trị New Cost có bé hơn giá trị Cost mà nó đang sử dụng để nối đến Root Bridge không? + Nếu nhỏ hơn nó coi cổng mà nó nhận được BPDU là Root Port + Nếu không nhỏ hơn nó không xem xét nữa Tính xong New Cost Bridge/Switch phải gửi BPDU đến tất cả các cổng khác không phải là Root Port . Tóm lại Root Port phụ thuộc vào Cost của các cổng 5.1.3. Các trạng thái của cổng Một cổng của switch hoặc bridge sử dụng STP chuyển đổi giữa 4 trạng thái sau: ♣ Blocking: Không chuyển các gói dữ liệu, nhận các BPDU. Tất cả các cổng sẽ mặc định là ở trạng thái block khi switch được bật lên. ♣ Listening: Nhận các BPDU để đảm bảo không có các vòng lặp trên mạng trước khi chuyển các gói tin. ♣ Learning: Nhận các địa chỉ MAC và xây dựng các bảng lọc nhưng không chuyển tiếp các Frame. ♣ Forwarding: Cổng có thể gửi và nhận dữ liệu. Một cổng không bao giờ được đặt vào trạng thái này trừ khi không có các kết nối thừa hoặc cổng đó xác nhận được là nó có con đường đi tới gốc. Một người quản trị hệ thống có thể đặt cổng về trạng thái không sẵn sàng, hoặc nếu cổng xảy ra lỗi, thì switch cũng có thể chuyển cổng về trạng thái không sẵn sàng. Nói chung, các cổng của switch ở một trong hai trạng thái là blocking hoặc forwarding. Một cổng forwarding là một cổng được xác định là có giá trị (cost) nhỏ nhất đối với bridge gốc. Tuy nhiên, nếu kiến trúc mạng thay đổi do các liên kết sai, hoặc người quản trị thêm một switch mới vào mạng, các cổng trên một chuyển mạch sẽ ở trạng thái lắng nghe và cập nhật. Các cổng blocking được sử dụng để ngăn việc lặp vòng. Khi một switch xác định được đường đi tốt nhất đến bridge gốc, tất cả các cổng khác sẽ được đặt ở trạng thái blocking. Các cổng bị blocking sẽ vẫn nhận được các gói BPDU (Bridge Protocol Data Unit). Nếu một switch xác định rằng một cổng bị block bây giờ nên chuyển thành cổng được chỉ định, nó sẽ trở lại trạng thái listen. Nó sẽ kiểm tra tất cả các gói BPDU nhận được để chắc chắn rằng sẽ không tạo ra một vòng lặp khi cổng đó chuyển sang trạng thái forwarding. Hình 4.5 chỉ ra thời gian ngầm định trong STP và các hành động trong STP: Blocking 20 seconds Listening 15 seconds Learning 15 seconds Forwarding Total = 50 seconds Chú ý thời gian từ blocking đến forwarding. Blocking đến listening là 20 giây. Listening đến learning là 15 giây. Learning đến forwarding là 15 giây và tổng cộng là 50 giây. Tuy nhiên, switch có thể chuyển thành không sẵn sàng nếu cổng ngừng hoạt động hoặc cổng bị lỗi. 5.1.4. Sự hội tụ. Sự hội tụ xảy ra khi các bridge và các switch chuyển tiếp tới trạng thái blocking hoặc forwarding. Không có dữ liệu được chuyển tiếp trong suốt thời gian này. Sự hội tụ là rất quan trọng trong việc chắc chắn rằng tất cả các thiết bị có cùng cơ sở dữ liệu. Vấn đề của sự hội tụ đó là khoảng thời gian được sử dụng cho tất cả các thiết bị để có thể cập nhật. Trước khi dữ liệu bắt đầu được chuyển tiếp, tất cả các thiết bị phải được cập nhật. Thời gian thường được sử dụng để chuyển từ trạng thái blocking sang trạng thái forwarding là 50 giây. Thay đổi thời gian ngầm định STP là không được khuyên dùng, nhưng thời gian cũng có thể được điều chỉnh nếu điều đó cần thiết. Thời gian cần để chuyển một cổng từ trạng thái listening tới trạng thái learning hoặc từ trạng thái learning tới trạng thái forwarding được gọi là trễ chuyển tiếp. 5.2. Ví dụ cây spanning Trong hình 4.6, ba switch có cùng mức độ ưu tiên là 32768. Tuy nhiên, cần chú ý tới địa chỉ MAC của mỗi switch. Bằng cách xem xét độ ưu tiên và địa chỉ MAC của mỗi một switch, chúng ta có thể xác định được bridge gốc. Bởi vì 1900A có địa chỉ MAC thấp nhất và cả ba switch có cùng độ ưu tiên ngầm định nên 1900A sẽ là bridge gốc. Để xác định cổng gốc (root port) trên 1900B và 1900C, chúng ta cần xem xét cost của các đường kết nối các switch này đến bridge gốc, từ đó chọn ra root port là cổng mà qua đó bridge hiện thời sẽ kết nối đến bridge gốc theo một con đường có cost là bé nhất. Vì đường kết nối từ cả hai switch này đến switch gốc là từ cổng 0 và sử dụng đường kết nối 100Mbps, đây là đường có cost là tốt nhất và vì vậy cổng gốc trên cả hai switch đều là cổng 0. Sử dụng bridgeID để xác định các cổng được chỉ định trên các swich. Bridge gốc luôn luôn có tất cả các cổng là được chỉ định. Tuy nhiên, 1900B và 1900C có cùng một cost để đến được bridge gốc, cổng được chỉ định sẽ là trên switch 1900B bởi vì nó có bridgeID là nhỏ hơn. Bởi vì 1900B đã được xác định là có cổng được chỉ định, switch 1900C sẽ đặt cổng 1 của nó ở trạng thái blocking để ngăn chặn bất cứ một vòng lặp mạng nào có thể xảy ra. Các phương thức của switch ở mạng LAN: Các LAN switch được sử dụng để forward hoặc lọc các frame dựa trên phần cứng của chúng. Tuy nhiên, có ba phương thức khác nhau để chuyển tiếp hoặc lọc các frame. Mỗi phương thức có những ưu điểm và nhược điểm và vì vậy hiểu rõ sự khác nhau của các phương thức của LAN switch sẽ giúp chúng ta có những quyết định sáng suốt khi lựa chọn phương thức phù hợp. Switch có ba phương thức sau: Lưu trữ và chuyển tiếp (Store-and-Forward): Với chế độ lưu trữ và chuyển tiếp, switch sẽ nhận toàn bộ frame dữ liệu vào trong buffer, kiểm tra CRC (cyclic redundance check) được thực hiện, sau đó địa chỉ đích mới được tìm kiếm trong bảng MAC. Cut-through: Với chế độ cut-through, switch sẽ đợi cho đến khi nhận được địa chỉ đích và sau đó tìm kiếm ngay trong bảng MAC. FragmentFree: FragmentFree là chế độ ngầm định đối với switch Catalyst 1900, đôi khi nó được xem như là chế độ cut-through được sửa đổi. Nó kiểm tra 64 byte đầu tiên của frame ( bởi vì có thể xảy ra xung đột ) trước khi chuyển tiếp frame. Store-and-forward Phương thức store-and-forward là một trong ba kiểu chính của các chuyển mạch mạng LAN. Với phương thức hoạt động này, switch nhận toàn bộ gói tin và lưu vào buffer của nó và thực hiện kiểm tra CRC. Bởi vì nó phải nhận toàn bộ gói tin thì mới chuyển tiếp do đó thời gian trễ lớn và biến đổi theo độ dài của gói tin. Gói tin sẽ bị loại bỏ nếu nó bị lỗi CRC, có kích thước quá nhỏ (nhỏ hơn 64 byte) hay quá lớn (lớn hơn 1518 byte kể cả CRC). Khi gói tin không bị lỗi thì switch sẽ xem xem địa chỉ MAC của đích trong bảng thông tin dẫn đường để chuyển tiếp gói tin đến cổng cần thiết. Cut-through (Real Time) Theo phương thức này, switch chỉ copy phần địa chỉ đích ( 6 byte tiếp theo phần preamble) vào buffer của nó. Tiếp đó nó xem địa chỉ này có trong bảng thông tin dẫn đường để chuyển tiếp gói tin tới các cổng cần thiết. Phương thức này làm giảm thời gian trễ trên các switch bởi vì nó chuyển tiếp gói tin đi ngay khi nó nhận được địa chỉ và xác định được cổng để chuyển gói tin đến. Một số switch có thể thiết lập để thực hiện chuyển gói tin theo phương thức cut-through cho các cổng khi xác suất lỗi không vượt quá đến một ngưỡng do người dùng định ra. Khi vượt quá xác suất lỗi đó các cổng đó được tự động chuyển về phương thức store-and-forward để không truyền các gói tin bị lỗi. FragmentFree( Modified cut-through) Đây là phương thức được cải tiến từ phương thức cut-through. Trong phương thức này switch sẽ chờ để nhận xong cửa sổ xung đột (collision window) dài 64 byte rồi mới chuyển tiếp gói tin. Cơ sở để áp dụng cách tiếp cận này là nếu một gói tin bị lỗi thì nó thường xảy ra trong 64 byte đầu tiên. FragmentFree cung cấp cách kiểm tra lỗi tốt hơn so với phương thức cut- through và cũng không gây ra trễ lớn như là store-and-forward. Hình 4.7 minh họa những điểm khác nhau tại đó các chế độ switch xảy ra trong một frame. Các chế độ khác nhau sẽ được thảo luận chi tiết trong các mục sau. Hình 4.7: Các chế độ switch khác nhau trong một frame Up to 8 bytes 1 byte 6 bytes 6bytes 2bytes 1500 bytes Preamble SFD Destination Hardware Addresses Source Hardware Addresses Length Data FCS Cut-through: FragmentFree: Store-and- the error checking check for collision -forward
File đính kèm:
- giao_trinh_mang_lan.pdf