Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ (Phần 1)

Thước đo giá trị:

Giá trị của tiền được dùng làm phương tiện để so sánh với giá trị của hàng hoá hoặc dịch vụ,

thông qua quan hệ này tiền đã thực hiện chức năng thước đo giá trị.

- Khi thực hiện chức năng này thì:

+ Giá trị của tiền được coi là chuẩn mực (1 bên là tiền, 1 bên là hàng)

+ Tiền là thước đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong một hàng hoá nào đó

VD: 1 m vải gồm có đối tượng lao động (bỏ ra 1 giờ hay 2 hoặc người khác 3 giờ) và công cụ

lao động (máy dệt, kim khâu, kéo.)

- Các điều kiện để thực hiện các chức năng này:

+ Tiền phải có đầy đủ giá giá trị (giá trị danh nghĩa và giá trị nội tại mà NN thừa nhận nó là

tiền)

+ Tiền có tiêu chuẩn giá cả (là một hàm lượng vàng được luật NN ấn định cho tiền đơn vị và

tên gọi của nó.)

Khi đo giá trị của HH thì người mua và người bán chỉ cần liên tưởng để so sánh đến giá trị

của HH và giá trị của tiền mà không quan tâm đến số tiền (Số tiền đó sẽ mua được bao nhiêu

HH tức là sức mua của đồng tiền cao hay thấp). Và bây giờ người ta đo giá trị của HH bằng 1

thước đo giá trị do NN qui định.=> Vì vậy trên thế giới mỗi quốc gia có 1 thước đo giá trị riêng

và nó dựa trên cơ sở:

+ Năng suất lao động

+ Trình độ phát triển của nền KT

pdf 34 trang kimcuc 6480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ (Phần 1)

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ (Phần 1)
 - 1 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
KHOA KẾ TOÁN – TÀI CHÍNH 
Biên soạn: Ths.Trần Thị Thái Hằng 
 - 2 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
 - 3 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ 
VÀ LƯU THÔNG TIỀN TỆ 
1.1 Nguồn gốc và bản chất tiền tệ 
1.1.1 Nguồn gốc xuất hiện: 
Theo Mác, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và các hình thái 
giá trị. Quá trình phát triển của các hình thái giá trị để đi đến hình thái giá trị diễn ra như sau: 
- Hình thái trao đổi đơn giản hay ngẫu nhiên: 
1 tấm bò = 2 cái rìu 
Hình thái giá trị tương đối vật ngang giá chung 
Giá trị của bò được biểu hiện ở rìu, còn rìu là cái được dùng làm phương tiện để biểu hiện giá 
trị của bò. Hàng hoá (bò) mà giá trị của nó được biểu hiện ở một hàng hoá khác (rìu) thì gọi là 
hình thái giá trị tương đối. Còn hàng hoá rìu mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng 
hoá khác (bò) gọi là hình thái vật ngang giá chung. 
 Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng xuất hiện sau lần phân công lao động lần thứ nhất - bộ 
lạc du mục tách rời khỏi toàn bộ lạc đòi hỏi có sự trao đổi bằng nhiều hàng hoá khác nhưng vẫn 
trực tiếp. Lúc này giá trị của vật không chỉ biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của một vật mà 
còn biểu hiện thông qua giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác 
Ví dụ: 1 con gà = 10 kg thóc / 1 cái rìu/1 m vải / 0,1 chỉ vàng (chưa cố định) 
 Hình thái giá trị chung khi sự phân công lao động lần thứ 2, thủ công nghiệp tách rời khỏi 
nông nghiệp -> SX HH phát triển thì hình thức trao đổi trực tiếp bộc lộ những nhược điểm của 
nó , đòi hỏi phải có một loại hàng hoá đặc biệt giữ vai trò vật ngang giá chung của quá trình trao 
đổi 
Ví dụ: 10 kg thóc 
 2 con gà = 1 m vải (vật ngang giá nhưng chưa cố định) 
 0,1 chỉ vàng 
 Hình thái tiền tệ khi vật ngang giá chung cố định ở một thứ hàng hoá, đó là kim loại (kẽm, 
đồng, sắt, bạc, vàng.) chỉ đến lúc này thì hình thái tiền tệ mới được xác lập và vàng với tư cách 
là vật ngang giá chung và đã trở thành tiền tệ, gọi là kim tệ. Vì vậy, vàng – tiền tệ được coi là 
một HH đặc biệt. 
 Kết luận: 
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế và cũng là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền là một 
phát minh vĩ đại của loài người, nó làm thay đổi bộ mặt của nền KT – XH 
 Sự ra đời và tồn tại của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và tồn tại của sản xuất và trao đổi HH. 
Và trong quá trình này nó xuất hiện vật ngang giá chung. 
 Vàng – tiền tệ được coi là một hàng hoá đặc biệt. 
Khái niệm: 
 Khái niệm cũ: Tiền tệ là một HH đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung để đo giá trị của 
các HH khác.Tiền có thể thoã mãn được một số nhu cầu của người sở hữu nó tương ứng với số 
lượng giá trị mà người đó tích luỹ được 
 - 4 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
 Khái niệm mới: Tiền là tất cả những phương tiện có thể làm trung gian trao đổi được nhiều 
người thừa nhận 
 Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong thanh toán để đối lấy hàng hoá, dịch vụ 
hoặc trả các khoản nợ. 
Ngoài ra, còn có những vật thể khác giữ vai trò trung gian trao đổi như chi phiếu, thương 
phiếu, kỳ phiếu, mà các nhà kinh tế học vẫn không thống nhất với nhau có phải là tiền tệ hay 
không. Irving Fisher cho rằng chỉ có giấy bạc ngân hàng là tiền tệ, trong khi Conant Paul 
Warburg cho rằng chi phiếu cũng là tiền tệ. Samuelson lại cho rằng tiền là bất cứ cái gì mà nhờ 
nó người ta có thể mua được hầu hết mọi thứ. Theo Charles Rist thì cái thật quan trọng đối với 
nhà kinh tế không phải là sự thống nhất về một định nghĩa thế nào là tiền tệ mà phải biết và 
hiểu hiện tượng tiền tệ. 
1.1.2 Bản chất của tiền tệ: 
Tiền tệ thực chất là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá dịch vụ, giúp quá trình trao 
đổi diễn ra dễ dàng hơn. 
Lúc đầu vật ngang giá chung là hàng hoá thông thường (bò, cừu, rìu) sau đó là hàng hoá mở 
rộng (kẽm, đồng, bạc) và cuối cùng là tiền tệ. 
Hàng hoá thông thường Hàng hoá tiền tệ 
- Giá trị: đo lường hao phí lao động kết 
tinh trong hàng hoá thông qua giá cả 
- Giá trị sử dụng: nhằm thoả mãn một 
nhu cầu nào đó của con người 
- Giá trị: là thước đo đo lường giá trị 
của những hàng hoá khác. 
- Giá trị sử dụng: nhằm thoả mãn tất cả 
các nhu cầu của con người khi sở hữu 
một khối lượng tiền tệ nhất định 
1.2 Chức năng của tiền tệ 
 K/niệm 1: Các nhà kinh tế học cho rằng tiền tệ có 3 chức năng gồm: phương tiện trao đổi, 
đơn vị tính toán, dự trữ giá trị. 
 K/niệm 2: Theo Mác khi vàng đựơc sử dụng làm tiền tệ thì tiền tệ gồm có 5 chức năng: 
thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ, phương 
tiện cất trữ và tiền tệ thế giới 
1.2.1 Thước đo giá trị: 
Giá trị của tiền được dùng làm phương tiện để so sánh với giá trị của hàng hoá hoặc dịch vụ, 
thông qua quan hệ này tiền đã thực hiện chức năng thước đo giá trị. 
- Khi thực hiện chức năng này thì: 
+ Giá trị của tiền được coi là chuẩn mực (1 bên là tiền, 1 bên là hàng) 
+ Tiền là thước đo hao phí lao động xã hội kết tinh trong một hàng hoá nào đó 
VD: 1 m vải gồm có đối tượng lao động (bỏ ra 1 giờ hay 2 hoặc người khác 3 giờ) và công cụ 
lao động (máy dệt, kim khâu, kéo..) 
- Các điều kiện để thực hiện các chức năng này: 
 - 5 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
+ Tiền phải có đầy đủ giá giá trị (giá trị danh nghĩa và giá trị nội tại mà NN thừa nhận nó là 
tiền) 
+ Tiền có tiêu chuẩn giá cả (là một hàm lượng vàng được luật NN ấn định cho tiền đơn vị và 
tên gọi của nó.) 
Khi đo giá trị của HH thì người mua và người bán chỉ cần liên tưởng để so sánh đến giá trị 
của HH và giá trị của tiền mà không quan tâm đến số tiền (Số tiền đó sẽ mua được bao nhiêu 
HH tức là sức mua của đồng tiền cao hay thấp). Và bây giờ người ta đo giá trị của HH bằng 1 
thước đo giá trị do NN qui định.=> Vì vậy trên thế giới mỗi quốc gia có 1 thước đo giá trị riêng 
và nó dựa trên cơ sở: 
+ Năng suất lao động 
+ Trình độ phát triển của nền KT 
1.2.2 Phương tiện lưu thông 
- Tiền làm môi giới trung gian trong trao đổi HH, DV với nhau, quá trình này 
diễn ra như sau: Hàng - Tiền – Hàng (H – T – H) trong đó: 
- Tiền là phương tiện quan trọng trong việc trao đổi HH – DV , nó tiến bộ hơn so với trao đổi 
trực tiếp (H- H). Vì: 
+ Nghiệp vụ : H – T: bán hàng để lấy tiền 
 T – H: lấy tiền để mua hàng 
+ Lưu thông HH tách rời hành vi mua và bán cả về không gian lẫn thời gian 
- Khi thực hiện chức năng này thì tiền có phải có đầy đủ các giá trị sau: 
+ Phải dùng tiền mặt vì phải chuyển quyền sở hữu khi mua và bán 
+ Lưu thông chỉ chấp nhận một số lượng tiền nhất định. Số lượng nhiều hay ít phụ thuộc vào: 
 Tổng giá cả HH đưa ra thị trường 
 Tốc độ lưu thông của tiền tệ 
Số lượng tiền cần thiết cho lưu thông chịu tác động của cả hai yếu tố trên. Mối quan hệ hữu cơ 
giữa hai yếu tố này là nội dung của qui luật số lượng tiền cần thiết cho lưu thông. (Qui luật lưu 
thông tiền tệ) có công thức như sau: 
Đây là qui luật KT phổ biến và rất quan trọng trong nền KT3 
1.2.3 Phương tiện dự trữ giá trị 
Dự trữ giá trị là tích luỹ một lượng giá trị nào đó bằng những phương tiện chuyển tải giá trị 
được xã hội thừa nhận với mục đích là chuyển hoá thành HH- DV trong tương lai. 
Thực hện chức năng nay, các phương tiện chuyển tải gái trị phải được giá trị xã hội thừa nhận , 
tức phải đảm bảo các yêu cầu sau: 
Số lượng tiền cần thiết trong kỳ = 
Tổng số giá cả hàng hoá lưu thông trong kỳ 
Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ trong kỳ 
 - 6 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
+ Dự trữ giá trị bằng những phương tiện hiện thực chứ không phải bằng một lượng tiền “ 
tưởng tượng” 
+ Giá trị dự trữ bằng những phương tiện được xã hội thừa nhận 
+ Mang tính thời gian (theo yêu cầu của chủ sở hữu, trong tương lai gần có thể là dấu hiệu giá 
trị, tương lai xa hơn có thể là vàng, ngoại tệ) 
1.2.4 Phương tiện thanh toán 
 Tiền được sử dụng làm công cụ thanh toán các khoản nợ về HH và DV trong mua bán trước 
đây 
 Tiền và hàng vận động độc lập tương đối với nhau về không gian và thời gian 
+ Không gian: có thể mua bán ở chỗ này nhưng có thể thanh toán ở chỗ khác hoặc tại chỗ 
+ Thời gian: có thể trả nợ trước hoặc sau khi mua (độc lập) hoặc là tiền trao cháo múc (đưa 
tiền liền – Không độc lập) 
Chức năng phương tiện thanh toán xuất hiện phát sinh quan hệ tín dụng (bán chịu). Do đó làm 
cho khối lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông tại một thời điểm nhất định cũng thay đổi: 
Trong thanh toán có thể dùng tiền mặt, chuyển khoản, bù trừ 
1.2.5 Chức năng tiền tệ thể giới 
 Tiền tệ thế giới là phương tiện thanh toán và chi trả chung giữa các quốc gia 
 Khi thực hiện chức năng tiền tệ thế giới thì chỉ có tiền mặt và tiền có giá trị hoàn toàn nhưng 
phải đưa về dạng nén, thỏi để thực hiện việc thanh toán cuối cùng. 
 Còn trong thanh toán quốc tế thì người ta sử dụng ngoại tệ mạnh, ví dụ: USD, EUR, Yên, .. 
Phân chia theo cách thứ nhất như sau: 
1. Chức năng phương tiện trao đổi 
Là một phương tiện trao đổi, tiền tệ được sử dụng như một vật môi giới trung gian trong việc 
trao đổi các hàng hoá, dịch vụ. Đây là chức năng đầu tiên của tiền tệ, nó phản ánh lý do tại sao 
tiền tệ lại xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế hàng hoá . 
Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp, người ta phải tiến hành đồng thời hai dịch vụ bán và 
mua với một người khác. Điều đó là đơn giản trong trường hợp chỉ có ít người tham gia trao 
đổi, nhưng trong điều kiện nền kinh tế phát triển, các chi phí để tìm kiếm như vậy quá cao. Vì 
vậy người ta cần sử dụng tiền làm môi giới trong quá trình này, tức là người ta trước hết sẽ đổi 
hàng hoá của mình lấy tiền sau đó dùng tiền mua thứ hàng hoá mình cần. Rõ ràng việc thực 
hiện lần lượt các giao dịch bán và mua với hai người sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc thưc hiện 
đồng thời hai giao dịch đối với cùng một người. 
Để thực hiện chức năng phương tiện trao đổi tiền phải có những tiêu chuẩn nhất định: 
Khối lượng tiền 
cần thiết cho lưu 
thông 
= 
Tổng giá 
cả H2 và 
dvụ 
Giá cả H2 
bán chịu 
Giá cả H2 
đến hạn 
thanh toán 
Giá cả H2 
được t/h 
thanh toán bù 
Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ 
+ 
_ _ 
 - 7 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
- Được chấp nhận rộng rãi: nó phải được con người chấp nhận rộng rãi trong lưu thông, bởi 
vì chỉ khi mọi người cùng chấp nhận nó thì người có hàng hoá mới đồng ý đổi hàng hóa của 
mình lấy tiền; 
- Dễ nhận biết: con người phải nhận biết nó dễ dàng; 
- Có thể chia nhỏ được: để tạo thuận lợi cho việc đổi chác giữa các hàng hoá có giá trị khác 
nhau; 
- Dễ vận chuyển: tiền tệ phải đủ gọn nhẹ để dễ dàng trong việc trao đổi hàng hoá ở khoảng 
cách xa; 
- Không bị hư hỏng một cách nhanh chóng; 
- Được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng: để số lượng của nó đủ dùng trong trao đổi; 
- Có tính đồng nhất: các đồng tiền có cùng mệnh giá phải có sức mua ngang nhau. 
2. Chức năng đơn vị đánh giá. 
Chức năng thứ hai của tiền là một đơn vị đánh giá, tức là tiền tệ được sử dụng làm đơn vị để 
đo giá trị của các hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế. Qua việc thực hiện chức năng này, giá trị 
của các hàng hoá, dịch vụ được biểu hiện ra bằng tiền, như việc đo khối kượng bằng kg, đo độ 
dài bằng mnhờ đó mà việc trao đổi hàng hoá được diễn ra thuận lợi hơn. 
Nếu giá trị hàng hoá không có đơn vị đo chung là tiền, mỗi hàng hoá sẽ được định giá bằng 
tất cả các hàng hoá còn lại, và như vậy số lượng giá các mặt hàng trong nền kinh tế ngày nay 
sẽ nhiều đến mức người ta không còn thời gian cho việc tiêu dùng hàng hoá, do phần lớn thời 
gian đã dàng cho việc đọc giá hàng hoá. Khi giá của các hàng hoá, dịch vụ được biểu hiện 
bằng tiền, không những thuận tiện cho người bán hàng hóa mà việc đọc bảng giá cũng đơn giản 
hơn rất nhiều với chi phí thời gian ít hơn sử dụng cho các giao dịch. 
Là một đơn vị đánh giá, nó tạo cơ sở thuận lợi cho việc sử dụng tiền làm phương tiện trao 
đổi, nhưng cũng chính trong quá trình trao đổi sử dụng tiền làm trung gian, các tỉ lệ trao đổi 
được hình thành theo tập quán - tức là ngay từ khi mới ra đời, việc sử dụng tiền làm phương 
tiện trao đổi đã dẫn tới việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá. Đầu tiên những phương tiện được 
sử dụng làm tiền để biểu hiện giá trị hàng hoá cũng có giá trị như các hàng hoá khác. Cơ sở 
cho việc tiền biểu hiện giá trị các hàng hoá khác chính là tiền cũng có giá trị sử dụng như các 
hàng hoá khác (Theo phân tích của Marx về sự phát triển của các hình thái biểu hiện giá trị 
hàng hoá: giá trị hàng hoá được biểu hiện ở giá trị sử dụng của hàng hoá đóng vai trò vật 
ngang giá, vật ngang giá chung). Vì vậy trong thời đại ngày nay, mặc dù các phương tiện được 
sử dụng là tiền không còn có giá trị như các hàng hoá khác nhưng nó được mọi người chấp 
nhận trong lưu thông (có giá trị sử dụng đặc biệt), do đó vẫn được sử dụng để đánh giá giá trị 
các hàng hoá. Trong bất kể nền kinh tế tiền tệ nào việc sử dụng tiền làm đơn vị đo lường giá trị 
đều mang tính chất trừu tượng, vừa có tính pháp lý, vừa có tính quy ước. 
3. Chức năng phương tiện dự trữ giá trị 
Là một phương tiện dự trữ giá trị, tiền tệ là nơi cất giữ sức mua qua thời gian. Khi người ta 
nhận được thu nhập mà chưa muốn tiêu nó hoặc chưa có điều kiện để chi tiêu ngay, tiền là một 
phương tiện để cho việc cất giữ sức mua trong những trường hợp này hoặc có thể người ta giữ 
tiền chỉ đơn thuần là việc để lại của cải. 
 - 8 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
Việc cất giữ như vậy có thể thực hiện bằng nhiều phương tiện ngoài tiền như: Cổ phiếu, trái 
phiếu, đất đai, nhà cửa, một số loại tài sản như vậy đem lại một mức lãi cao hơn cho người 
giữ hoặc có thể chống đỡ lại sự tăng cao về giá so với việc giữ tiền mặt. Tuy nhiên người ta vẫn 
giữ tiền với mục đích dự trữ giá trị bởi vì tiền có thể chuyển đổi một cách nhanh chóng ra các 
tài sản khác, còn các tài sản khác nhiều khi đòi hỏi một chi phí giao dịch cao khi người ta muốn 
chuyển đổi nó sang tiền. Những điều đó cho thấy, tiền là một phương tiện dự trữ giá trị bên 
cạnh các loại tài sản khác. 
Việc thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị của tiền tốt đến đâu tuỳ thuộc vào sự ổn 
định của mức giá chung, do giá trị của tiền được xác định theo khối lượng hàng hoá mà nó có 
thể đổi được. Khi mức giá tăng lên, giá trị của tiền sẽ giảm đi và ngược lại. Sự mất giá nhanh 
chóng của tiền sẽ làm cho người ta ít muốn giữ nó, điều này thường xảy ra khi lạm phát cao. Vì 
vậy để tiền thực hiện tốt chức năng này, đòi hỏi sức mua của tiền phải ổn định. 
1.3 Vai trò của tiền tệ trong nền KT3 
1.3.1 Tiền tệ là phương tiện để mở rộng phát triển sản xuất và trao đổi HH : 
 Tiền làm cho giá trị của hàng hoá được biểu hiện một cách đơn giản cho nên người ta dễ 
dàng so sánh các hàng hoá với nhau và người lao động có thể so sánh về mức độ lao động với 
nhau. 
 Nó làm cho giá trị của hàng hoá được thực hiện một cách thuận lợi, người sở hữu có thể 
chuyển đổi giá trị sử dụng một cách dễ dàng 
 Tiền tệ làm cho sự trao đổi hàng hoá không bị ràng buộc về không gian và thời gian. ... điểm và nội dung của thu NSNN 
3.2.1.1 Khái niệm: 
 Thu NSNN, đứng về mặt pháp lý bao gồm những khoản tiền nhà nước huy động vào 
ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Tuy nhiên về thực chất, thu NSNN không 
bao gồm các khoản vay của nhà nước nhằm phản ánh đúng số thực thu, thể hiện chính xác số 
bội chi và tỉ lệ bội chi. Việc đưa các khoản vay vào thu NSNN là để tiện lợi cho hoạch toán, còn 
khi phân tích tình hình các nguồn hình thành NSNN và xác định mức bội chi NSNN thì phải 
tách khoản vay ra khỏi thu NSNN. 
 Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội 
phát sinh trong quá trình nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình huy động các nguồn tài 
chính để hình thành quĩ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm đảm bảo cho sự tồn tại của nhà 
nước và để nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. 
3.2.1.2. Đặc điểm thu NSNN: 
 Thu NSNN là một mặt hoạt động cơ bản của NSNN, xét về mặt nội dung, thu NSNN 
chứa đựng các quan hệ phân phối của các xã hội dưới hình thức giá trị nảy sinh trong quá trình 
nhà nước dùng quyền lực chính trị tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ 
tiền tệ tập trung của nhà nước, có các đặc điểm sau: 
- Thu NSNN gắn chặt với thực trạng KT-XH và sự vận động của các phạm trù giá trị 
khác như giá cả, thu nhập, lãi suất... 
 - 28 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
- Thu NSNN, thực chất là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa nhà nước với các 
chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực của nhà nước nhằm giải quyết hài hòa các mặt lợi ích 
kinh tế. 
- Thu NSNN là một tất yếu khách quan xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ 
máy nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng kinh tế- xã hội của nhà nước. 
3.2.1.3. Nội dung thu NSNN 
* Thuế: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc được thể chế bằng luật do các pháp nhân 
và thể nhân đóng cho nhà nước. 
 Thuế là một hình thức phân phối thu nhập được nhà nước sử dụng để động viên một 
phần thu nhập của các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội vào NSNN nhằm phục vụ nhu cầu 
chi tiêu của nhà nước. Thuế được thiết lập trên nguyên tắc luật định, mang tính chất bắt buộc, 
không có tính chất hoàn trả trực tiếp. 
- Trong nền kinh tế thị trường, thuế được coi là công cụ quan trọng để điều tiết vĩ mô 
nền kinh tế. Thuế không những là nguồn thu quan trọng, chủ yếu của NSNN, mà còn có ảnh 
hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Thuế góp phần thúc đẩy tích lũy tư bản; là công 
cụ phân phối lại, góp phần điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội; là một trong những 
biện pháp chế ngự lạm phát. 
- Theo tính chất chuyển giao của thuế, thì thuế có hai loại: Thuế trực thu và thuế gián 
thu. 
+ Thuế trực thu: là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế cũng đồng thời là người chịu 
thuế (ví dụ: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân...). 
+ Thuế gián thu: là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế không phải là người chịu thuế 
(như: thuế V.A.T, thuế tiêu thụ đặc biệt,...). 
* Phí và lệ phí. 
- Lệ phí là khoản thu của NSNN, vừa mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí về 
việc thực hiện một số thủ tục hành chính, vừa mang tính chất động viên đóng góp cho NSNN, 
như: lệ phí trước bạ, công chứng... 
- Phí là một khoản thu mang tính chất bù đắp, hay một khoản nộp có tính chất bắt buộc 
đối với các thể nhân và pháp nhân do được hưởng thụ những dịch vụ do nhà nước cung cấp như 
phí giao thông, viện phí, học phí,... 
Phí và lệ phí mang tính chất hoàn trả trực tiếp. So với thuế, tính pháp lý thấp hơn. 
c.2. Thu lợi tức cổ phần của nhà nước. 
c.3. Thu từ bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước. 
c.4. Thu từ hợp tác lao động với nước ngoài 
c.5. Thu từ viện trợ 
c.6. Thu từ vay nợ, bao gồm vay trong và ngoài nước. 
c.7. Thu qua phát hành. 
3.2.2. Những nguyên tắc thiết lập hệ thống thu NSNN. 
- Nguyên tắc ổn định và lâu dài. 
- Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng 
 - 29 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
- Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn 
- Nguyên tắc đơn giản. 
3.3 Chi NSNN 
3.3.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của chi NSNN. 
3.3.1.1 Khái niệm 
Đứng về mặt pháp lý, chi NSNN là những khoản chi tiêu do chính phủ hay các pháp 
nhân hành chính thực hiện để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội. 
Về mặt bản chất, chi NSNN thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân 
phối và sử dụng quĩ NSNN nhằm trang trải cho các chi tiêu cho bộ máy nhà nước và thực hiện 
các chức năng kinh tế - xã hội mà nhà nước đảm nhận theo những nguyên tắc nhất định. 
Chi NSNN là sự phối hợp các quá trình phân phối và sử dụng quỹ NSNN. Quá trình 
phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các quĩ trước khi đưa vào sử 
dụng; quá trình sử dụng là quá trình trực tiếp chi dùng khoản tiền cấp phát từ NSNN. 
3.3.1.2 Đặc điểm: 
- Chi NSNN gắn chặt với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế- xã hội, chính trị 
mà nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ nhất định. 
- Chủ thể duy nhất quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ các khoản chi NSNN là cơ quan 
quyền lực cao nhất của NN. 
- Chi NSNN được xem xét hiệu quả ở tầm vĩ mô. 
- Chi NSNN mang tính chất không hoàn trả trực tiếp. 
- Chi NSNN gắn chặt với sự vận động của các phạm trù giá trị khác như tiền lương, giá 
cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, nói chung là những phạm trù thuộc lĩnh vực tiền tệ. 
3.3.1.3 Nội dung chi NSNN. 
- Nếu căn cứ vào mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi, người ta có thể phân chia 
các khoản chi thành hai loại: chi cho đầu tư phát triển sản xuất; chi cho tiêu dùng 
- Nếu căn cứ vào lĩnh vực chi, người ta có thể chia thành các loại: chi cho y tế; chi cho 
giáo dục; chi cho phúc lợi xã hội; chi cho quản lý nhà nước; chi đầu tư kinh tế; chi cho an ninh 
quốc phòng 
- Nếu căn cứ theo yếu tố có thể chia thành: chi thường xuyên; chi đầu tư; chi khác. 
- Nếu căn cứ theo chức năng của nhà nước thì có thể chia thành: chi nghiệp vụ ( như : chi 
lương, trả nợ, hưu trí, trợ cấp, trợ giá,...); chi phát triển (như: kinh tế, an ninh quốc phòng, quản 
lý hành chính,...). 
3.3.2. Bội chi NSNN và xử lý bội chi NSNN 
 Bội chi NSNN là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu. Bội chi ngân sách có thể xảy ra do 
thay đổi chính sách thu - chi của nhà nước (gọi là bội chi cơ cấu); hoặc có thể do thay đổi các 
chu kỳ kinh tế (bội chi chu kỳ). Khi bội chi cơ cấu tăng lên có nghĩa là chính phủ đang dùng 
chính sách tài chính để kích thích nền kinh tế. 
 Dù xảy ra do nguyên nhân nào thì bội chi ngân sách vẫn là một căn bệnh tác hại đến sự 
phát triển kinh tế nếu không có biện pháp xử lý đúng đắn. Biện pháp đúng đắn để giải quyết vấn 
đề này là: 
 - 30 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
- Tăng thu, giảm chi 
- Vay trong nước và vay nước ngoài 
 Biện pháp tăng thu giảm chi không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được bởi vì nó 
thường xảy ra hai nghịch lý khó giải quyết. Một là, trong khi mức tăng GDP chưa lớn, nếu tăng 
thu thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng đầu tư và tiêu dùng ở khu vực tư nhân, giảm động lực phát 
triển kinh tế; hai là, giảm chi sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế. 
 Ngày nay, để xử lý bội chi ngân sách, ngoài biện pháp tăng thu, giảm chi, hầu hết các 
nước đều sử dụng đến biện pháp vay trong nước và vay ngoài nước. 
3.4 Tổ chức hệ thống NSNN và phân cấp quản lý NSNN 
3.4.1.Tổ chức hệ thống NSNN 
Khái niệm: Là tổng thể các cấp ngân sách gắn bó hữu cơ với nhau trong quá trình thực 
hiện nhiệm vụ thu chi của mỗi cấp ngân sách. Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp 
chính quyền nhưng phải bảo đảm 2 điều kiện sau: 
- Nhiệm vụ cấp chính quyền là phải toàn diện bao gồm quản lý hành chính xã hội và cơ 
cấu tổ chức quản lý phát triển KT trong vùng lãnh thổ mà mình cai quản. Ví dụ : Đà nẵng thì cơ 
cấu quản lý từ UBND thành phố, quận, huyện và mỗi cấp có sự quản lý và phát triển về các 
ngành KT, văn hoá, nhu cầu và mong muốn của người dân, sự tin tưởng của các cấp lãnh đạo và 
sự phối hợp giữa các ban ngành như thế nào. 
- Khả năng thu thì phải lớn hơn nhu cầu chi 
Hệ thống NSNN ta hiện nay: 
NSNN 
(Ngân sách Nhà nước) 
NSxã - phường - Thị trấn 
NSĐP 
(Ngân sách địa phương) 
NS tỉnh và TP trực thuộc TW 
NS huyện – Thị xã - TP 
thuộc tỉnh 
NSTW 
(Ngân sách Trung Ương) 
 - 31 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
3.4.2. Phân cấp quản lý NSNN 
3.4.2.1Khái niệm: 
Nếu NSNN là thống nhất và duy nhất do TW trực tiếp quản lý và sử dụng thì phân cấp 
NN là sự uỷ quyền của TW cho địa phương thực hiện một số nghiệp vụ thu chi cần thiết cho 
NSNN 
Nếu NSNN là một thể thống nhất gồm nhiều cấp NS thì phân cấp NN là sự phân chia 
quyền hạn trong quản lý điều hành nhiệm vụ thu chi của NSNN 
3.4.2.2 Nội dung của phân cấp NSNN 
- Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp NSNN trong việc ban hành chế độ 
chính sách. 
- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong phân giao nguồn thu và nhiệm vụ chi. 
- Giải quyết mối quan hệ quá trình lập NS, chấp hành NS đến khâu quyết toán NS 
3.4.2.3 Nguyên tắc trong phân cấp NSNN 
- Đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW 
- Đảm bảo công bằng trong phân cấp NS 
Tóm lại : Thực chất của phân cấp NSNN là giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính 
quyền trong việc sử dụng NSNN 
3.4.2.4 Vai trò của các cấp NS 
* Vai trò của NSTW: 
- Xác định hướng hoạt động của các cấp NS 
- Thực hiện nhiệm vụ KT – XH toàn quốc 
- Điều hoà NS trong cả nước 
* Vai trò của NS Địa phương 
- Thực hiện nhiệm vụ phát triển KT - XH của địa phương: bêtông hoá nông thôn tại các 
con đường nhỏ, làm đường giao thông, kênh, mương nội đồng. 
- Quản lý một phần vốn NSTW 
3.5 Chu kỳ quản lý NSNN. 
 Quá trình quản lý NSNN được tiến hành từ khi hình thành ngân sách đến khi kết thúc để 
chuyển sang ngân sách mới. Bao gồm các khâu : Hình thành ngân sách, chấp hành ngân sách và 
quyết toán ngân sách . 
3.5.1. Hình thành ngân sách 
 Đây là quá trình bao gồm các công việc: Lập ngân sách, phê chuẩn ngân sách và thông 
baó ngân sách. Trong quá trình này, lập ngân sách là công việc khởi đầu có ý nghĩa quyết định 
đến toàn bộ các khâu của quá trình quản lý NSNN. Lập ngân sách thực chất là dự toán thu - chi 
của ngân sách trong một năm ngân sách. 
a. Yêu cầu 
- Phải tuân thủ vào hệ thống các chế độ, chính sách và tiêu chuẩn định mức, phù hợp với 
thực tiễn kinh tế - xã hội. 
- Phải đảm bảo trình tự và thời gian qui định 
- Phải đảm bảo mối quan hệ giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch giá trị. 
 - 32 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
b.Căn cứ : 
- Phải căn cứ phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng. 
- Phải căn cứ vào kết quả phân tích việc thực hiện dự toán ngân sách thời gian qua. Đây 
là căn cứ quan trọng bổ sung những kinh nghiệm cho việc lập dự tóan trong kỳ kế hoạch. 
c. Phương pháp và trình tự lập kế hoạch NSNN 
Tóm tắt phương pháp xây dựng kế hoạch NSNN theo sơ đồ dưới đây 
- Ở cấp tổng hợp 
- Ở cấp làm nghĩa vụ đối với NSNN 
Lập NSNN là công việc quan trọng, nhưng việc hình thành NSNN còn phải thực hiện công việc 
phê chuẩn và thông báo NSNN. 
* Hợp đồng kinh tế 
* Tình hình thị trường 
* Các thông tin kinh tế 
Chủ 
động 
lập * Dự án vốn 
* Dự án sản xuất 
* Dự án tiêu thụ 
* Dự án phân phối 
thu nhập 
Dự án thu 
chi ngân 
sách NN 
Bằng phương pháp 
tổng hợp từ cơ sở
Bằng phương pháp dựa 
vào các chỉ tiêu cân đối 
lớn 
Dự toán thu - chi 
ngân sách nhà 
nước 
Dự toán thu - chi 
ngân sách nhà 
nước 
 So sánh 
 Chênh lệch Các biện 
pháp 
xử lý 
 - 33 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
Quá trình này được thực hiện theo sơ đồ sau: 
 Q 
 U 
 Á 
 T Á 
 R 
 Ì 
 N 
 H 
 L 
 Ậ 
 P 
3.5.2. Chấp hành NSNN: 
 Sau khi ngân sách được phê duyệt và năm ngân sách bắt đầu thì triển khai thực hiện 
ngân sách. Nội dung của quá trình này là tổ chức thu và thực hiện chi NSNN. 
3.5.2.1 Tổ chức chấp hành dự toán thu 
 Mục tiêu là không ngừng bồi dưỡng phát triển các nguồn thu, tìm mọi biện pháp đảm 
bảo tỉ lệ động viên chung đã được phê duyệt. Để đạt được mục tiêu thu NSNN cần thực hiện các 
biện pháp sau: 
- Xác lập, hoàn thiện hệ thống chính sách chế độ động viên thích hợp vừa đảm bảo mức 
thu, vừa khuyến khích SX - KD phát triển nhằm nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. 
- Nâng cao công tác tuyên truyền, làm cho mọi thành viên thấy rõ trách nhiệm của mình 
đối với NSNN 
- Kiện toàn tổ chức bộ máy thu; đổi mới hoàn thiện công tác quản lý thu; nâng cao trình 
độ nghiệp vụ cán bộ quản lý thu 
3.5.2.2 Tổ chức chấp hành dự toán chi 
Mục đích là đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí cho hoạt động của bộ máy nhà 
nước và thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội một cách tiết kiệm và hiệu quả. Để đạt mục 
đích đó, cần thực hiện các yêu cầu sau: 
Quốc hội 
Chính phủ 
Bộ tài 
chính 
Các bộ, cơ 
quan nhà 
nước 
Nguyên thủ 
Quốc gia 
Chính phủ 
Bộ tài 
chính 
Các bộ, cơ 
quan nhà 
nước 
Q
U
Á 
T
R 
Ì 
N
H 
T
H
Ô
N
G 
B
Á
O 
 - 34 - 
 Giảng viên: Ths. Trần Thị Thái Hằng – TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG Á 
- Cấp phát kinh phí phải trên cơ sở hệ thống các định mức tiêu chuẩn 
- Cấp phát kinh phí phải theo kế hoạch đã được duyệt 
- Đổi mới phương thức cấp vốn theo hướng nhanh, gọn, dễ kiểm tra và thống nhất qua 
kho bạc nhà nước. 
Hiện nay, tùy theo lĩnh vực chi, trong cấp phát kinh phí thường có các phương thức như 
sau: 
+ Phương thức "ghi thu - ghi chi", là phương thức thu, chi tại chỗ, tại thời điểm. Đơn vị 
tự thực hiện sau đó quyết toán với NSNN. Phương thức này có ưu điểm là kịp thời, nâng cao 
trách nhiệm của đơn vị; nhưng có nhược điểm là nhà nước khó kiểm soát. 
+ Phương thức "gán thu - bù chi", chủ yếu thực hiện ở các đơn vị sự nghiệp. Phương 
thức này có ưu điểm là nâng cao trách nhiệm tự hoạch toán của đơn vị, giảm bớt gánh nặng cho 
NSNN; nhưng nhược điểm dễ tạo ra các hoạt động sai trái. 
+ Phương thức cấp, phát theo "lệnh chi". Ưu điểm là cấp phát trọn gói, dễ theo dõi, quản 
lý; nhưng có nhược điểm tạo ra ứ đọng vốn tại cơ sở 
+ Phương thức "cấp phát theo hạng mức", áp dụng cho đơn vị hành chính sự nghiệp; 
định kỳ cơ quan tài chính cấp phát hạng mức và đơn vị đến kho bạc rút tiền về chi. Ưu điểm là 
quản lý tập trung, tránh ứ đọng vốn tại cơ sở; nhưng vẫn khó kiểm tra, kiểm soát. 
+ Phương thức "cấp phát ủy quyền", chủ yếu được áp dụng giữa ngân sách TW và ngân 
sách địa phương. 
c. Xây dựng dự toán: Việc xây dựng dự toán thu - chi quý, tháng nhằm đánh giá được 
khả năng hoàn thành dự toán NSNN, tìm ra biện pháp thực hiện dự toán NSNN 
3.5.3. Quyết toán NSNN 
Quyết toán NSNN là khâu cuối cùng trong quá trình quản lý NSNN. Thông qua quyết 
toán NSNN ta có thể hình dung bức tranh toàn cuüc hoạt động kinh tế - xã hội của nhà nước 
thời gian qua nhằm đúc kết rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho việc điều hành NSNN. Do 
đó yêu cầu quyết toán NSNN phải chính xác, trung thực và kịp thời. 
Muốn như vậy cần phải soát lại toàn bộ chế độ hiện hành về kế toán và quyết toán ngân 
sách; đổi mới quá trình lập, báo cáo, phê chuẩn quyết toán và tổng quyết toán NSNN; nâng cao 
vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong việc phê chuẩn NSNN. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ly_thuyet_tai_chinh_tien_te_phan_1.pdf