Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh

Tư bản thương nghiệp thực hiện chức năng chuyển hoá tư bản hàng hoá thành tiền

tệ mà tư bản công nghiệp trước đây đảm nhiệm. Quá trình này không diễn ra trong sản

xuất mà diễn ra trong lĩnh vực lưu thông, chức năng này tách rời các chức năng khác

của tư bản công nghiệp.

Tư bản thương nghiệp độc lập làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, nhà tư bản phải

ứng trước tư bản nhằm mục đích thu về với lượng tiền lớn hơn trước, thông qua việc

mua bán. Với mục đích đó, tư bản của họ không bao giờ mang hình thái tư bản sản xuất,

mà chỉ hoạt động trong phạm vi lĩnh vực lưu thông.

pdf 257 trang thom 08/01/2024 1200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh

Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin (Dùng cho khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh
Bộ Giáo dục và Đào tạo 
Giáo trình 
Kinh tế chính trị 
Mác - Lênin 
(Dùng cho khối ngành kinh tế - quản trị kinh doanh 
trong các trường đại học, cao đẳng) 
(Tái bản lần thứ hai, có sửa chữa và bổ sung) 
Đồng chủ biên: 
GS.TS. Chu Văn Cấp 
GS.TS. Phạm Quang Phan 
PGS. TS. Trần Bình Trọng 
Tập thể tác giả: 
GS. TS. Chu Văn Cấp 
TS. Nguyễn Văn Chiển 
PGS. TS. Phạm Văn Dũng 
PGS. TS. Nguyễn Văn Hảo 
PGS. TS. Phan Thanh Phố 
GS. TS. Phạm Quang Phan 
PGS. TS. Mai Hữu Thực 
PGS. TS. Trần Bình Trọng 
PGS. TS. Vũ Hồng Tiến 
Phần mở đầu 
Chương I 
Đối tượng, phương pháp và chức năng của kinh tế 
chính trị Mác - Lênin 
I- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - 
Lênin 
1. Đối tượng của kinh tế chính trị Mác - Lênin 
Lịch sử cho thấy quá trình hình thành và phát triển môn kinh tế chính trị có những 
nhận thức khác nhau về đối tượng nghiên cứu. Chủ nghĩa trọng thương cho rằng, đối 
tượng nghiên cứu của môn kinh tế chính trị là lĩnh vực lưu thông mà chủ yếu là ngoại 
thương. Chủ nghĩa trọng nông chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang 
lĩnh vực sản xuất, nhưng lại chỉ giới hạn ở sản xuất nông nghiệp. Kinh tế chính trị tư sản 
cổ điển xác định kinh tế chính trị là khoa học khảo sát về bản chất và nguyên nhân của 
sự giàu có, có những phát hiện nhất định về những quy luật kinh tế chi phối nền sản 
xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng lại coi các quy luật của chủ nghĩa tư bản là quy luật của 
quá trình lao động nói chung của loài người, phủ định tính chất lịch sử của chủ nghĩa tư 
bản. Một số nhà kinh tế học hiện đại ở các nước tư bản chủ nghĩa lại tách chính trị khỏi 
kinh tế, biến kinh tế chính trị thành khoa học kinh tế thuần tuý, che đậy quan hệ sản xuất tư 
bản chủ nghĩa và mâu thuẫn giai cấp trong chủ nghĩa tư bản. 
Quan niệm của chủ nghĩa Mác về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị được 
thể hiện rõ trong tác phẩm Chống Đuyrinh của Ph.Ăngghen. Ph.Ăngghen đã nhấn 
mạnh: "Kinh tế chính trị học, theo nghĩa rộng nhất, là khoa học về những quy luật chi 
phối sự sản xuất và sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người... 
Những điều kiện trong đó người ta sản xuất sản phẩm và trao đổi chúng, đều thay đổi 
tuỳ từng nước, và trong mỗi nước, lại thay đổi tuỳ từng thế hệ. Bởi vậy không thể có 
cùng một môn kinh tế chính trị duy nhất cho tất cả mọi nước và cho tất cả mọi thời đại 
lịch sử được... Vậy môn kinh tế chính trị, về thực chất là một môn khoa học có tính chất 
lịch sử. Nó nghiên cứu tư liệu có tính chất lịch sử, nghĩa là một tư liệu luôn luôn thay 
đổi; nó nghiên cứu trước hết là những quy luật đặc thù của từng giai đoạn phát triển của 
sản xuất và của trao đổi, và chỉ sau khi nghiên cứu như thế xong xuôi rồi nó mới có thể 
xác định ra một vài quy luật hoàn toàn có tính chất chung, thích dụng, nói chung, cho 
sản xuất và trao đổi... Chẳng hạn như việc dùng tiền kim loại đã làm cho một loạt quy 
luật phát huy tác dụng, những quy luật này có hiệu lực cho bất cứ nước nào và bất cứ 
giai đoạn lịch sử nào mà tiền kim loại được dùng làm phương tiện trao đổi"1. 
1. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 207 - 208. 
Phương thức phân phối sản phẩm cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất và 
trao đổi của một xã hội nhất định trong lịch sử, vào những tiền đề lịch sử của xã hội đó. 
Tuy vậy, phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả thụ động của sản xuất và trao 
đổi, nó cũng có tác động trở lại đối với sản xuất và trao đổi. 
Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị nghiên cứu sự phát sinh, phát triển của một 
phương thức sản xuất nhất định và tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất đó 
bằng một phương thức sản xuất cao hơn. Tác phẩm Tư bản của C. Mác là một kiểu mẫu 
về kinh tế chính trị theo nghĩa hẹp, trong đó phân tích sự phát sinh, phát triển của 
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những nhân tố phủ định của chủ nghĩa 
tư bản và sự chuẩn bị những tiền đề cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Trong 
lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất tác phẩm này, C. Mác đã xác định đối tượng 
nghiên cứu là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao 
đổi thích ứng với phương thức ấy và mục đích cuối cùng của tác phẩm này là tìm ra quy 
luật vận động kinh tế của xã hội hiện đại. 
V.I. Lênin cũng xác định: Kinh tế chính trị "tuyệt nhiên không nghiên cứu "sự sản 
xuất" mà nghiên cứu những quan hệ xã hội giữa người với người trong sản xuất, nghiên 
cứu chế độ xã hội của sản xuất" và phê phán quan điểm cho rằng kinh tế chính trị là 
khoa học về kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. 
Như vậy, kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ xã hội của con người hình thành 
trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất và vạch rõ những quy luật điều 
tiết sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải đó trong những trình độ 
nhất định với sự phát triển xã hội loài người. Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của kinh tế 
chính trị là phương thức sản xuất hay nói cách khác là nó nghiên cứu các quan hệ sản 
xuất trong mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau với lực lượng sản xuất và kiến trúc 
thượng tầng. 
Các quan hệ sản xuất phải phù hợp một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, 
sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất và quan 
hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển 
của lực lượng sản xuất. 
Kinh tế chính trị không nghiên cứu bản thân đối tượng lao động và tư liệu lao 
động mà nghiên cứu việc phát triển lực lượng sản xuất trong mức độ làm rõ sự phát 
triển của quan hệ sản xuất do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Nó cũng 
không nghiên cứu bản thân của cải vật chất, mà nghiên cứu quan hệ giữa người với 
người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải này. 
Kinh tế chính trị cũng quan tâm đến mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất và kiến 
trúc thượng tầng, bởi vì các quan hệ sản xuất là cơ sở của kiến trúc thượng tầng và kiến 
trúc thượng tầng, nhất là quan hệ chính trị, pháp luật, v.v. tác động trở lại quan hệ sản 
xuất và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, biểu hiện rõ nhất là vai trò kinh 
tế của nhà nước trong xã hội hiện đại. 
Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và tác động với 
lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nhưng không phải là nghiên cứu những 
biểu hiện bề ngoài của các hiện tượng kinh tế mà đi sâu vạch rõ bản chất, tìm ra những 
mối liên hệ và sự lệ thuộc bên trong của các hiện tượng và quá trình kinh tế trên cơ sở 
đó hình thành các phạm trù và khái niệm như hàng hoá, tiền tệ, tư bản, thu nhập quốc 
dân, v.v.. Kết quả cao nhất của sự phân tích khoa học các quan hệ sản xuất, các quá 
trình kinh tế nói chung là phát hiện ra các quy luật, tính quy luật kinh tế và sự tác động 
của chúng nhằm mục đích ứng dụng một cách có hiệu quả trong thực tiễn. 
Quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ nhân quả bản chất, tất yếu, thường 
xuyên lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tế. Cũng như các quy luật tự 
nhiên, các quy luật kinh tế có tính khách quan, không lệ thuộc vào ý chí và nhận thức 
chủ quan của con người. Nhưng, khác với quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế chỉ xuất 
hiện trong quá trình hoạt động kinh tế của con người. Vì vậy quy luật kinh tế có tính 
lịch sử, nó chỉ tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định. Có những quy luật kinh tế 
tồn tại trong mọi phương thức sản xuất, gọi là quy luật chung (như quy luật về sự phù 
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật tiết 
kiệm thời gian, quy luật nâng cao nhu cầu, v.v.). Lại có những quy luật kinh tế chỉ tác 
động trong một số hình thái kinh tế - xã hội nhất định, như quy luật giá trị, quy luật lưu 
thông tiền tệ, v.v., đó là những quy luật đặc thù. 
Cần chú ý rằng, quy luật kinh tế và chính sách kinh tế là hai vấn đề khác nhau. 
Chính sách kinh tế là tổng thể các biện pháp kinh tế của nhà nước nhằm tác động 
vào các ngành kinh tế theo những mục tiêu nhất định trong một thời gian nhất định. Nó 
là một khái niệm thuộc hoạt động chủ quan của nhà nước. Khi tình hình kinh tế thay đổi 
thì chính sách kinh tế cũng thay đổi theo. Nó có thể được nhà nước sửa đổi, bổ sung và 
hoàn thiện sau khi đã được ban hành. Nghiên cứu kinh tế chính trị chưa phải là nghiên 
cứu chính sách kinh tế, nhưng việc nghiên cứu các chính sách kinh tế đòi hỏi phải 
nghiên cứu kinh tế chính trị, dựa trên cơ sở khoa học của kinh tế chính trị. 
Cần phân biệt kinh tế chính trị với các môn kinh tế khác, cụ thể như: kinh tế phát 
triển, kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp. Giữa kinh tế chính trị và các bộ môn nói 
trên có sự khác nhau về trình độ khái quát hoá. Những nguyên lý và những quy luật kinh tế 
do kinh tế chính trị phát hiện có ý nghĩa phổ biến đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, 
có thể ứng dụng trong các ngành và các cơ sở kinh tế. Còn những kết luận, những 
nguyên lý của các bộ môn kinh tế khác chỉ có thể ứng dụng trong phạm vi ngành hoặc 
những đơn vị kinh tế thuộc ngành đó. 
Kinh tế chính trị là bộ môn khoa học cơ bản, cung cấp những nguyên lý lý luận 
cho các bộ môn khoa học kinh tế khác. Đồng thời, nó định hướng cho các hoạt động 
thực tiễn kinh tế. ý nghĩa thực tiễn và sức sống của kinh tế chính trị thể hiện ở chỗ các 
phạm trù, quy luật, nguyên lý của nó phản ánh sát thực tiễn kinh tế - xã hội của đất 
nước. 
Cần có sự nhận thức đúng về sự giống nhau giữa kinh tế chính trị Mác- Lênin và 
kinh tế học. Không ít người đã đối lập một cách cực đoan hai môn khoa học này. 
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế cho thấy hai môn khoa học này có chung một 
nguồn gốc, hay nói khác, đều nằm trong dòng phát triển của lịch sử các học thuyết kinh 
tế. Trong dòng lịch sử đó, kinh tế học là một nhánh "phái sinh" của kinh tế chính trị tư 
sản, nên nó chịu ảnh hưởng của A. Smith và D. Ricardo và thích ứng với yêu cầu lịch sử 
cụ thể của chủ nghĩa tư bản. 
Ưu điểm của kinh tế chính trị Mác - Lênin ở chỗ phát hiện những nguyên lý 
chung và những quy luật trừu tượng chi phối quá trình sản xuất xã hội. Còn kinh tế học 
tuy phiến diện nhưng lại có ưu điểm là vận dụng phương pháp tiếp cận tình huống (case 
study) và minh hoạ bằng đồ thị, biểu đồ gắn với những hiện tượng cụ thể diễn ra trên bề 
mặt xã hội. Bởi vậy, không nên đối lập một cách cực đoan kinh tế học với kinh tế chính 
trị Mác - Lênin. Thái độ đúng đắn nhất là nắm vững những nguyên lý của kinh tế chính 
trị Mác - Lênin, coi đó là nền tảng phương pháp của các môn khoa học kinh tế khác, và 
tiếp thu có phê phán, có chọn lọc những thành tựu khoa học của kinh tế học làm phong 
phú thêm kinh tế chính trị Mác - Lênin. 
C. Mác đã khẳng định học thuyết của mình là hệ thống kinh tế chính trị "mở" biện chứng 
và phát triển không ngừng. 
2. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin 
Để nhận thức hiện thực khách quan và tái hiện đối tượng nghiên cứu vào tư duy, 
cấu thành một hệ thống những phạm trù và quy luật, khoa học kinh tế chính trị cũng sử 
dụng phép biện chứng duy vật và những phương pháp khoa học chung như mô hình hoá 
các quá trình và hiện tượng nghiên cứu, xây dựng các giả thuyết, tiến hành thử nghiệm, 
quan sát thống kê, trừu tượng hoá, phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống... Đó là 
những phương pháp được sử dụng cả trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Tuy 
nhiên, khác với các môn khoa học tự nhiên, kinh tế chính trị không thể tiến hành các 
phương pháp thực nghiệm trong phòng thí nghiệm mà chỉ có thể thử nghiệm trong đời 
sống hiện thực, trong các quan hệ xã hội hiện thực. Các thử nghiệm về kinh tế đụng 
chạm đến lợi ích của con người, vì vậy kiểm tra những giải pháp, thử nghiệm cụ thể chỉ 
được tiến hành trong những phạm vi rất hạn chế. Do vậy, phương pháp quan trọng của 
kinh tế chính trị là trừu tượng hoá khoa học. Phương pháp trừu tượng hoá khoa học đòi 
hỏi gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá trình và những hiện tượng 
được nghiên cứu, tách ra những cái điển hình, bền vững, ổn định trong những hiện 
tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các hiện tượng, từ bản chất 
cấp một tiến đến bản chất ở trình độ sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy 
luật phản ánh những bản chất đó. Vấn đề quan trọng hàng đầu trong phương pháp này là 
giới hạn của sự trừu tượng hoá. Việc loại bỏ những cái cụ thể nằm trên bề mặt của cuộc 
sống phải bảo đảm tìm ra được mối quan hệ bản chất giữa các hiện tượng dưới dạng 
thuần tuý nhất của nó; đồng thời phải bảo đảm không làm mất nội dung hiện thực của 
các quan hệ được nghiên cứu; không được tuỳ tiện, loại bỏ cái không được phép loại bỏ, 
hoặc ngược lại, giữ lại cái đáng loại bỏ. Giới hạn trừu tượng hoá cần thiết và đầy đủ này 
được quy định bởi chính đối tượng nghiên cứu. Thí dụ, để vạch ra bản chất của chủ 
nghĩa tư bản hoàn toàn có thể và cần phải trừu tượng hoá sản xuất hàng hoá nhỏ, mặc dù 
nó thực sự tồn tại với mức độ ít hoặc nhiều ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng 
không được trừu tượng hoá bản thân quan hệ hàng hoá - tiền tệ, bởi vì tư bản lấy quan 
hệ hàng hoá - tiền tệ làm hình thái tồn tại của mình; hơn nữa, càng không được trừu 
tượng hoá việc chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá, bởi vì không có hàng hoá - sức 
lao động thì chủ nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư bản nữa. 
Trừu tượng hoá khoa học gắn liền với quá trình nghiên cứu đi từ cụ thể đến trừu 
tượng, nhờ đó nêu lên những khái niệm, phạm trù và vạch ra những mối quan hệ giữa 
chúng, phải được bổ sung bằng một quá trình ngược lại - đi từ trừu tượng đến cụ thể. 
Cái cụ thể này không còn là những hiện tượng hỗn độn, ngẫu nhiên mà là bức tranh có 
tính quy luật của đời sống xã hội. 
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học cũng đòi hỏi gắn liền với phương pháp kết 
hợp lôgíc với lịch sử. 
Bởi lẽ, lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy lôgíc cũng phải bắt đầu từ đó. 
Theo cách nói của Ph. Ăngghen, sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh 
quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng và nhất quán về lý luận. Nó là sự phản ánh 
đã được uốn nắn, nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện 
thực đã cung cấp. 
II- Chức năng của kinh tế chính trị Mác -Lênin và sự cần thiết 
nghiên cứu nó 
1. Chức năng của kinh tế chính trị Mác - Lênin 
Kinh tế chính trị Mác - Lênin là một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa 
Mác - Lênin, có quan hệ mật thiết với hai bộ phận kia là triết học và chủ nghĩa xã hội 
khoa học. Kinh tế chính trị Mác - Lênin là biểu hiện mẫu mực của sự vận dụng quan 
điểm duy vật lịch sử vào sự phân tích kinh tế. Kinh tế chính trị Mác - Lênin thực hiện 
những chức năng sau đây: 
a) Chức năng nhận thức 
Kinh tế chính trị Mác - Lênin cung cấp những tri thức về sự vận động của các quan 
hệ sản xuất, về sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và kiến 
trúc thượng tầng, về những quy luật kinh tế của xã hội trong những trình độ phát triển 
khác nhau của xã hội. Đó là chìa khoá để nhận thức lịch sử phát triển của sản xuất vật 
chất và lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung, về chủ nghĩa tư bản nói riêng ... ều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn... 
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là hoạt động hết sức cần thiết nhưng cũng hết 
sức mới mẻ và khó khăn đối với nước ta. Do đó, để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh 
tế đối ngoại, cần thiết phải thực hiện tốt một số loại giải pháp dưới đây: 
Thứ nhất, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị vững 
mạnh, củng cố an ninh quốc phòng và đấu tranh có hiệu quả chống âm mưu phá hoại 
của các thế lực thù địch. 
Thứ hai, tăng cường việc quản lý thống nhất của Nhà nước về kinh tế đối ngoại. 
Cần khẳng định rằng, việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị 
trường có điều tiết vĩ mô không có nghĩa là từ bỏ sự quản lý thống nhất của Nhà nước 
mà phải thực hiện sự quản lý đó một cách mềm dẻo và linh hoạt, có hiệu quả cao hơn. 
- Nhà nước thống nhất quản lý trên tầm vĩ mô mọi hoạt động kinh tế đối ngoại 
bằng những biện pháp kinh tế và hành chính trên cơ sở bảo đảm tính tự chủ của các tổ 
chức kinh doanh đối ngoại. Trong trường hợp có nhiều cơ quan nhà nước thực hiện việc 
quản lý nói trên thì phải xác định rõ chức năng, quyền hạn của từng cơ quan để vừa 
tránh chồng chéo, vừa tránh sơ hở, buông lỏng quản lý. 
Để thực hiện sự quản lý thống nhất của Nhà nước, cần phải: 
- Xây dựng một số Tổng công ty hoặc tập đoàn lớn, có uy tín và khả năng cạnh 
tranh trong quan hệ kinh tế với nước ngoài. 
- Nhà nước ban hành những định chế thích hợp để bảo đảm thống nhất đầu mối, 
khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán giữa các tổ chức được quyền kinh doanh đối 
ngoại của ta trên thị trường trong và ngoài nước. 
Để thống nhất chỉ đạo quá trình Việt Nam gia nhập và hoạt động trong các tổ chức 
kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực, hội nhập với thế giới, năm 1998 Chính phủ đã 
thành lập Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. 
III- Mục tiêu, phương hướng, nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và 
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 
1. Về mục tiêu 
Đối với nước ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm từng bước 
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian trước mắt, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối 
ngoại nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - 
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Mục tiêu đó phải được quán triệt đối với mọi 
ngành, mọi cấp trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như phải được quán triệt trong 
mọi lĩnh vực của kinh tế đối ngoại. 
2. Phương hướng cơ bản nhằm mở rộng, phát triển và nâng cao hiệu quả 
kinh tế đối ngoại 
Xuất phát từ quan điểm: "Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong 
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực", Đảng ta 
phương hướng cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ là: "Thực 
hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, chủ động, tích cực hội nhập 
kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới"1. 
- Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh 
tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình 
đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen 
thuộc và với bạn hàng truyền thống; tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường 
mới, phát triển các quan hệ mới dưới mọi hình thức. 
- Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện 
mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực mục 
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa. 
- Chủ động tạo những điều kiện để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới; 
phát huy ý chí tự lực, tự cường; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dựa 
vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. 
Theo những định hướng trên, những năm qua, hoạt động kinh tế đối ngoại ở nước 
ta đã từng bước mở rộng thị trường, đã lập lại quan hệ bình thường với các tổ chức tài 
1. Sđd, tr. 204. 
chính, tiền tệ quốc tế, bước đầu đã thu được những thành tựu quan trọng. Bên cạnh 
những thành tựu to lớn đó, hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn còn những bất cập đã và 
đang là những thách thức đối với nước ta, đòi hỏi chính sách kinh tế đối ngoại phải tiếp 
tục đổi mới và hoàn thiện. 
3. Nguyên tắc cơ bản cần quán triệt trong việc mở rộng và nâng cao 
hiệu quả kinh tế đối ngoại 
a) Bình đẳng 
Đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa 
chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. 
Nguyên tắc bình đẳng này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng 
đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của 
sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên. Với tư 
cách là thành viên, mỗi quốc gia phải được bảo đảm có quyền tự do kinh doanh, quyền 
tự chủ như mọi quốc gia khác. Nói cách khác, bảo đảm tư cách pháp nhân của mỗi quốc 
gia trước luật pháp quốc tế và cộng đồng quốc tế. 
b) Cùng có lợi 
Nếu nguyên tắc thứ nhất giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan 
hệ đối ngoại, thì nguyên tắc này lại giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở 
rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau. 
Cơ sở khách quan của nguyên tắc cùng có lợi bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện 
đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có 
lợi ích kinh tế dân tộc khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường thế giới, nguyên tắc bình 
đẳng giữa các quốc gia sẽ là hình thức, nếu các quốc gia có tham dự không cùng có lợi 
ích kinh tế. Vì trong trường hợp đó, quan hệ kinh tế giữa các nước sẽ đi ra ngoài yêu 
cầu của quy luật giá trị - quy luật dựa trên nguyên tắc ngang giá của kinh tế thị trường 
trong cộng đồng quốc tế. 
Nguyên tắc cùng có lợi còn là động lực kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối 
quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau. 
c) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi 
quốc gia 
Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập có chủ quyền 
về mặt chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý. 
Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc bình đẳng, trong 
quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Nó cũng bắt nguồn từ nguyên tắc cùng có 
lợi, mà xét cho đến cùng chỉ khi cùng có lợi về mặt kinh tế, mới tạo cơ sở để cùng có 
các lợi ích khác nhau về chính trị, quân sự và xã hội. 
Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên trong hai bên hoặc nhiều bên phải thực hiện đúng 
các yêu cầu: 
- Tôn trọng các điều khoản đã được ký kết trong các nghị định giữa các chính phủ 
và trong các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau. 
- Không được đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích của nhau. 
- Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của 
quốc gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật và kích động để can thiệp 
vào đường lối, thể chế chính trị của các quốc gia đó. 
d) Giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa 
đã chọn 
Đây là nguyên tắc vừa mang tính chất chung cho tất cả các nước khi thiết lập và 
thực hiện quan hệ đối ngoại, vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội 
chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau 
không đơn thuần phải xử lý tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế, mà còn phải xử lý tốt mối 
quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để 
tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với 
việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện từng bước những đặc trưng của 
chủ nghĩa xã hội. 
IV- Các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế 
đối ngoại 
Để thực hiện mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại, cần thực hiện 
đồng bộ hàng loạt các giải pháp trong đó có các giải pháp chủ yếu sau đây: 
1. Bảo đảm sự ổn định về môi trường chính trị, kinh tế xã hội 
Môi trường chính trị, kinh tế - xã hội là nhân tố cơ bản, có tính quyết định đối với 
hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài - hình 
thức chủ yếu, quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ 
ra rằng, nếu sự ổn định chính trị không được bảo đảm, môi trường kinh tế không thuận 
lợi, thiếu các chính sách khuyến khích, môi trường xã hội thiếu tính an toàn... sẽ tác 
động xấu tới quan hệ hợp tác kinh tế, trên hết là đối với việc thu hút đầu tư nước ngoài 
và khách du lịch. 
2. Có chính sách thích hợp đối với từng hình thức kinh tế đối ngoại 
Đây là giải pháp quan trọng nhằm phát triển đa dạng, có hiệu quả kinh tế đối 
ngoại. Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại đòi hỏi: 
Một mặt, phải mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại, mặt khác, phải sử dụng 
linh hoạt, phù hợp với điều kiện cụ thể. Đặc biệt là phải sử dụng chính sách thích hợp 
đối với mỗi hình thức kinh tế đối ngoại. Chẳng hạn đối với hình thức ngoại thương cần 
phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, tăng 
nhanh tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, phát triển mạnh mẽ những sản 
phẩm hàng hoá dịch vụ có khả năng cạnh tranh, có cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu, đặc 
biệt là nông sản, đầu tư cho hoạt động hỗ trợ xuất khẩu. Tiếp tục cải thiện môi trường 
đầu tư, tăng sức hấp dẫn nhất là đối với các công ty xuyên quốc gia. Khuyến khích các 
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và các chính sách hỗ trợ công dân Việt 
Nam kinh doanh ở nước ngoài. Có chính sách thích hợp tranh thủ nguồn vốn ODA... 
Tăng cường mở rộng và có biện pháp hữu hiệu đối với các hình thức kinh tế đối 
ngoại khác như gia công, hợp tác khoa học - công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ, có 
chính sách tỷ giá thích hợp... 
3. Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật 
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nói 
chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Trong điều kiện nền kinh tế tri thức đang hình thành 
và từng bước phát triển, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội càng đóng vai trò quan trọng và 
yêu cầu chất lượng ngày càng cao. Trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ 
thuật mà trước hết là hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải. 
Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực bưu chính 
viễn thông thì trong lĩnh vực giao thông vận tải, mặc dù đang có nhiều cố gắng, song 
vẫn còn quá lạc hậu so với các nước trong khu vực, trong khi vốn đầu tư còn nhiều hạn 
chế. Do vậy, phải có chiến lược đầu tư đúng nhất là đầu tư tập trung có trọng điểm, dứt 
điểm và có hiệu quả cao, đặc biệt phải kiên quyết chống các hiện tượng tiêu cực gây 
thất thoát vốn đầu tư. 
4. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế đối ngoại 
Vai trò quan trọng về quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
đã được khẳng định. Đối với lĩnh vực kinh tế đối ngoại do tính chất đặc biệt của nó vai 
trò đó lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chỉ có tăng cường vai trò quản lý của Nhà 
nước mới có thể bảo đảm mục tiêu, phương hướng và giữ vững được những nguyên tắc 
cơ bản trong kinh tế đối ngoại và có như vậy hoạt động kinh tế đối ngoại mới mang lại 
hiệu quả. Cũng chỉ có tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước mới có thể hạn chế 
được những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội nhờ đó mang lại lợi ích cho các đơn vị 
hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và quốc gia nói chung. Thông qua sự tăng cường 
vai trò quản lý nhà nước sẽ khắc phục được tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, phát huy 
hiệu quả của sự hợp tác trong nước để có sức mạnh cạnh tranh quốc tế, tránh được sự thua 
thiệt về lợi ích... 
Để tăng cường vai trò quản lý kinh tế đối ngoại của Nhà nước cần thiết phải đổi mới 
tổ chức bộ máy, cơ chế quản lý để vừa đảm bảo sự thống nhất quản lý của nhà nước về kinh 
tế đối ngoại, song vẫn phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các đơn vị, đưa lại hiệu 
quả kinh tế - xã hội ngày càng lớn. 
5. Xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác trong quan hệ kinh tế đối ngoại 
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, đối tác trở thành vấn đề rất cơ bản, có tính 
quyết định đối với hiệu quả kinh tế đối ngoại. 
Do hình thức kinh tế đối ngoại rất đa dạng nên đối tác cũng hết sức đa dạng. Cũng 
vì thế vừa xây dựng đối tác và tìm kiếm đối tác quan hệ trở thành vấn đề phức tạp cần 
được xử lý linh hoạt. 
Đối với việc xây dựng đối tác trong nước, điều quan trọng là phải từng bước xây 
dựng các đối tác mạnh (về vốn, công nghệ, năng lực quản lý, phong cách giao tiếp quốc 
tế...) có tầm cỡ quốc tế đóng vai trò đầu tàu trong quan hệ. 
Đối với đối tác nước ngoài: việc lựa chọn đối tác thích hợp luôn là vấn đề quan 
trọng đối với bên Việt Nam. Song trong tương lai và về lâu dài cần quan tâm hơn đối 
với các công ty xuyên quốc gia vì đó là nguồn quốc tế lớn về vốn, công nghệ, kinh 
nghiệm quản lý mà chúng ta rất cần khai thác. 
Trên đây là 5 giải pháp chủ yếu trong hệ thống các giải pháp. Mỗi giải pháp có vị 
trí khác nhau và sự phân định cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Để mở rộng và nâng cao 
hiệu quả kinh tế đối ngoại cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên. 
Câu hỏi ôn tập 
1. Kinh tế đối ngoại? Vai trò của nó? Phân tích cơ sở khách quan của việc hình 
thành và phát triển kinh tế đối ngoại. 
2. Phân tích các hình thức kinh tế đối ngoại chủ yếu ở nước ta hiện nay. 
3. Phân tích mục tiêu, phương hướng và nguyên tắc mở rộng quan hệ kinh tế đối 
ngoại. 
4. Trình bày các giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối 
ngoại ở nước ta hiện nay. 
Mục lục 
Phần mở đầu 
Chương I: Đối tượng, phương pháp và chức năng của kinh tế chính trị Mác-
Lênin 
Chương II: Tái sản xuất xã hội và tăng trưởng kinh tế 
Chương III: Hàng hoá và tiền tệ 
Phần thứ nhất 
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa 
Chương IV: Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư 
bản 
Chương V: Tuần hoàn và chu chuyển tư bản 
Chương VI: Tái sản xuất tư bản xã hội 
Chương VII: Các hình thái tư bản và các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư 
Chương VIII: Chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà 
nước 
Phần thứ hai 
Những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Chương IX: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 
Chương X: Sở hữu tư liệu sản xuất và nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Chương XI: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Chương XII: Kinh tế nông thôn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt 
Nam 
Chương XIII: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 
Chương XIV: Tài chính, tín dụng, ngân hàng và lưu thông tiền tệ trong thời kỳ quá 
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Chương XV: Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên chủ 
nghĩa xã hội ở Việt Nam 
Chương XVI: Kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt 
Nam 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_chinh_tri_mac_lenin_dung_cho_khoi_nganh_k.pdf