Giáo trình Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô -tô

Xử lý nước ngầm nhiễm phèn

Đây là giải pháp lọc nước áp dụng nguyên tắc phản ứng tạo tủa và lọc tinh

mà không dùng hóa chất. Vật liệu lọc là viên bi và hạt nhỏ có tác dụng điều chỉnh

độ pH trong nguồn nước, tạo thế oxy hóa khử cao để loại bỏ ion kim loại. Vật

liệu có dạng viên bi nén đảm bảo độ bền cơ học, bền trong nước, không nhiễm

bẩn, không gây độc hại khi cho nước đi qua. Tỷ lệ hao mòn về trọng lượng hàng

năm của vật liệu dạng viên bi từ 5% đén 7%. Thiết bị có tên gọi là “Công nghệ

4M”, quy trình xử lý gồm 3 công đoạn chính sau đây:

1, Cấp oxy và khử khí: Đối với những hệ thống xử lý trực tiếp nguồn

nước ngầm vừa khai thác, một trong các biện pháp cần thiết để khử sắt tan trong

nước là cung cấp oxy dưới dạng giàn phun mưa hoặc bơm không khí vào hệ

thống. Ngoài tác dụng cung cấp oxy, hệ thống này còn phải loại trừ các khí như

CO2, CH4, H2S tan trong nước.

2, Phản ứng tạo tủa: Nước ngầm sau khi được bơm lên tiếp xúc với không

khí qua giàn phun mưa (hoặc bằng cách bơm không khí vào), sẽ chuyển sang

công đoạn phản ứng tạo tủa, độ pH của nước thay đổi và ổn định ở môi trường

kiềm thích hợp nhờ tác dụng của vật liệu lọc. Thế oxy hóa khử trên bề mặt vật

liệu tăng lên do sự hấp thu của các ion làm tăng nồng độ của chúng. Trong môi

trường đó, cộng với tác dụng của các chất xúc tác chọn trong vật liệu lọc, quá

trình chuyển hóa các ion Fe+2 tan trong nước thành các ion Fe+3 kết tủa theo các

phản ứng hóa học trên xảy ra dễ dàng và nhanh chóng. Phần lớn các kết tủa bám

trên bề mặt hạt lọc và được loại bỏ bằng xả rửa sau mỗi chu kỳ làm việc.

3, Lọc tinh: Vật liệu dùng để lọc tinh trong công đoạn này là cát chọn lọc

chuyên dùng. Cơ chế lọc tinh bao gồm lọc hấp thu, hút tĩnh điện trên bề mặt vật

liệu, lọc cơ học và lắng trong. Quá trình loại sắt còn có thể thực hiện ở công đoạn

này, nếu nguồn nước có hàm lượng sắt cao, các hạt keo mịn lơ lửng, vẩn đục,

mang màu, mùi sẽ được giữ lại nhờ cơ chế trên.

Công nghệ này do TS. sinh học Võ Quang Tuyến, TS. công nghệ Nguyễn

Quang Thắng và TS. hóa học Nguyễn Thạc Sửu phối hợp nghiên cứu sáng chế.

Thiết bị xử lý nước ngầm nhiễm phèn 4M đáp ứng được nhu cầu nước sạch cho

dân cư vùng ven TP. Hồ Chí Minh, vùng duyên hải miền Trung và vùng đồng

bằng sông Cửu Long, nơi có nguồn nước nhiễm phèn khá lớn. Đây là giải pháp

công nghệ lọc nước đã được kiểm nghiệm trong thực tế phù hợp với khả năngđầu tư, điều kiện và trình độ sử dụng của cộng đồng dân cư. Giải pháp này có ưu

điểm là không sử dụng hóa chất trực tiếp, đa dạng hóa về công suất và đối tượng

phục vụ, dùng trong hộ gia đình hoặc sản xuất công nghiệp.

Hiện tại ở Việt Nam có sẵn nguồn nguyên liệu chế tạo hạt lọc, nhờ vậy mà

giá thiết bị thấp, phù hợp với khả năng đầu tư của người dân vùng sâu, vùng xa.

Bộ lọc 4M có nhiều loại với công suất khác nhau từ 300 lít/ngày đến 4000

lít/ngày, giá từ 600.000 đ/bộ đến 2.500.000 đ/bộ.

pdf 48 trang kimcuc 2820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô -tô", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô -tô

Giáo trình Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô -tô
Chế tạo "ống xả sạch" xử lý 
ô nhiễm trên ô-tô 
Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-tô 
Vừa qua, Bộ môn Cơ khí ô-tô, Trường đại học Kỹ thuật thuộc Đại học Quốc 
gia TP. Hồ Chí Minh đã bảo vệ xuất sắc đề tài "Nghiên cứu giải quyết vấn đề ô 
nhiễm môi trường trên các phương tiện giao thông đường bộ". Đề tài đã đưa ra 
giải pháp sử dụng một bộ lọc khí xả - "ống xả sạch" - để xử lý và loại bỏ các 
thành phần gây ô nhiễm trong khí xả của động cơ trước khi xả ra ngoài môi 
trường. 
Sau gần 5 năm nghiên cứu và thử nghiệm, đề tài đã đưa ra một cơ chế lọc và 
làm sạch muội than hoàn toàn mới. Với cơ chế này, diện tích thông qua của phần 
tử lọc lớn gấp 30 đến 50 lần tiết diện đường ống xả. Trong quá trình làm việc, 
muội than được làm sạch khỏi phần tử lọc một cách liên tục theo nguyên lý đẩy 
và quét bằng chính động năng của dòng khí xả. Muội than được thu hồi về đáy 
của bộ lọc dưới dạng bột. Các thử nghiệm trên bộ lọc khí xả mẫu cho thấy mức 
độ giảm độ mờ khói đạt được từ 17% đến 26% (trung bình đạt 22,4%). Phần tử 
lọc được làm sạch gần như hoàn toàn trong suốt quá trình thử nghiệm. Với nhiệt 
độ khí xả ở cuối đường ống xả khoảng 2100C, bộ lọc khí xả hoạt động bình 
thường, có kích thước nhỏ gọn (đường kính 250 x 300 mm) lắp đặt thuận lợi với 
cả các xe tải nhỏ và xe khách 12 chỗ ngồi. Thành công của đề tài làm "ống xả 
sạch" của Trường đại học Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh đã mở ra một giải pháp hữu 
hiệu, công nghệ đơn giản, ít tốn kém trong việc xử lý ô nhiễm môi trường trên 
các phương tiện giao thông đường bộ. 
Nếu được hoàn thiện và triển khai áp dụng rộng rãi, thì"ống xả sạch" sẽ đưa 
chất lượng khí xả của động cơ theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6438-1998 từ mức 1 
(85% lượng muội than) xuống mức 2 (còn 72% lượng muội than). 
Nguồn: Quân đội Nhân dân, ngày 5/1/2000 
Xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Cần Đước 
 Bệnh viện Đa khoa Cần Đước thuộc tỉnh Long An vừa xây dựng hệ thống 
xử lý nước thải bệnh viện với kinh phí 110 triệu đồng. Thiết bị do Viện Công 
nghệ hóa học TP. Hồ Chí Minh cung cấp. Hệ thống xử lý nước thải điều khiển tự 
động hoàn toàn với công suất 25 m3/ngày, bảo đảm xử lý toàn bộ khối lượng 
nước thải của bệnh viện trước khi thải ra ngoài. Đây là một trong những hệ thống 
xử lý nước thải đầu tiên được lắp đặt tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của 
Long An nhằm bảo vệ môi trường khỏi bị ô nhiễm. 
Nguồn: Nhân dân, ngày 2/1/2000 
Cần Thơ đưa vào sử dụng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện theo 
phương pháp vi sinh hiếu khí 
 Bệnh viện quân y 121, tỉnh Cần Thơ, vừa đưa vào sử dụng hệ thống xử lý 
nước thải bệnh viện theo phương pháp vi sinh hiếu khí kết hợp đông tụ hóa học 
theo công nghệ tiên tiến của Italia, do Bộ Quốc phòng đầu tư với tổng vốn 1,6 tỷ 
đồng. Đây là công trình xử lý nước thải bệnh viện có quy mô lớn nhất ở đồng 
bằng sông Cửu Long, với công suất lọc 200 m3 nước thải/ngày đêm. Công trình 
bao gồm bể chứa nước thải bệnh viện, các bồn vi sinh, bể lọc, hệ thống thải nước 
sau khi xử lý. Nước thải sau khi được xử lý sẽ được sử dụng cho trồng trọt và 
nuôi trồng thủy sản. 
Nguồn: TTXVN, ngày 8/12/1999 
Các biện pháp sinh học làm sạch môi trường đất và nước 
 Hiện nay, các phương pháp xử lý các loại nước thải đang rất được quan 
tâm. Một trong những giải pháp có nhiều triển vọng để xử lý nước thải là ứng 
dụng công nghệ sinh học về tảo trong xử lý nước thải để nuôi cá, làm phân 
bón,v.v...Xuất phát từ thực tiễn đó, Viện Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ thuộc 
Bộ KH,CN & MT, đã tiến hành ngiên cứu đề tài : “Sử dụng một số biện pháp 
sinh học để làm sạch môi trường đất và nước”. 
Trên cơ sở nghiên cưú đặc điểm hóa, ký, sinh học của nước như : Nhiệt độ, 
độ pH, tổng lượng chất rắn lơ lửng, độ đục, COD, BOD2, N-NH4+, N-NOx-, 
PO43-, CL-, H2S, Cu, Fe tổng, Zn, số vi sinh vật hiếu khí và kỵ khí, E.Coli, 
Coliform, v.v....trong nguồn nước thải ở Hà Nội, Viện đã thử nghiệm nuôi trồng 
một số loài tảo, như Cholellapyrenoidosa, bèo hoa dâu Azollapinata, vi khuẩn 
lam cố định đạm Nostoc-N3 và Glocotrichia-Cl, các chế phẩm sinh học là một số 
vi sinh vật có khả năng cố định đạm như: Klebsiella, Extrasol và Agrofil. Các kết 
quả nghiên cứu cho thấy: 
-Nước thải đổ vào hồ của Hà Nội tại một số điểm nghiên cứu khá bẩn: BOD 
cao gấp 2-5 lần, COD cao gấp 2-7 lần, N-NH4+ cao gấp 4-14 lần so với tiêu 
chuẩn nước mặt của Việt Nam (TCVN), vi sinh vật Clostridium Welchi có nhiều 
(3,7x103 tb/100ml). 
-Nước thải bệnh viện và sinh hoạt chưa được xử lý đổ thẳng ra các kênh, 
mương hòa với nước thải công nghiệp, tạo thành dòng thải ô nhiễm nặng, với 
hàm lượng lớn các chất hữu cơ và vi sinh vật gây bệnh: COD cao gấp 10-20 lần, 
BOD cao gấp 4-12 lần, Coliform cao gấp 10-104 lần, N-NH4+ cao gấp 25-50 lần 
so với TCVN 5942-1995). 
Qua nghiên cứu, đề tài đã đi đến kết luận như sau: 
1, Tảo Chlorella sinh trưởng tốt trong các nguồn nước thải nghiên cứu với 
giải trị số COD dao động từ 200-700 mg/l. Tảo này phát triển tốt nhất trong nước 
thải sinh hoạt với giải trị số COD từ 200-400 mg/l, sinh khối đạt 400-1000mg tảo 
khô/l sau 5-6 ngày; 
2, Tảo Chlorella có khả năng phân hủy COD và BOD rất cao đối với nước 
thải sinh hoạt trong điều kiện nuôi phòng thí nghiệm: COD giảm 84%, BOD 
giảm 90%; 
3, Tảo Chlorella có khả năng loại bỏ N-NH4+, P043- rất cao trong nước thải 
sinh hoạt. Giá trị các chỉ số này trong nước thải sau khi xử lý phòng thí nghiệm 
đạt TCVN 5942-1995 : N-NH4+ giảm 99%, PO43- giảm 98%; 
4, Tảo Chlorella có khả năng hấp thụ Cu và Zn trong nước thải hỗn hợp với 
hiệu suất loại bỏ Cu đạt 94-95% sau 20 ngày và hiệu suất loại bỏ Zn đạt 97% sau 
16 ngày; 
5, Bèo hoa dâu Azollapinata có khả năng hấp thụ Co và Eu ở nông độ từ 5-
20 ppm và khả năng hấp thụ cao nhất khoảng 24 giờ sau khi nuôi bèo. Hầu như 
toàn bộ lượng Co và Eu được hấp thụ đều nằm ở phần lá bèo; 
6, Vi khuẩn lam cố định đạm Nostc và Glocotrichia bón cho rau có tác dụng 
làm tăng sinh khối rau muống trong khi hàm lượng đạm tổng số ở mẫu thí 
nghiệm tương tự đối chứng, các tảo này còn làm tăng năng suất rau cải trồng 
trong dung dịch lên 10%; 
7, Các chế phẩm vi sinh vật cố định đạm Klebsiella, Extrasol và Agrofil có 
thể đem sử dụng thay thế đạm urê vô cơ, để bón cho rau diếp và rau cải mà vẫn 
bảo đảm chỉ tiêu năng suất, hàm lượng đạm tổng số và không làm tăng hàm 
lượng N-NO3- trong rau; 
8, Nghiên cứu đề ra được mô hình vừa đơn giản, vừa gọn nhẹ trong phòng 
thí nghiệm sử dụng tảo để xử lý nước thải sinh hoạt, nhưng có hiệu quả làm giảm 
BOD tới 90%, COD tơi 84%, N-NH4+ tới 99%, PO43- tới 98% và E.Coli tới 50%. 
Nguồn: Trungtâm Thông tin KH-CN Quốc gia, 17/1/2000 
Nước uống lấy từ biển 
Các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Bhabha (BARC), ấn Độ 
đã triển khai một công nghệ hạt nhân, có thể tách nước biển thành nước uống. Công 
nghệ này là kết quả của hơn 10 năm nghiên cứu và triển khai công nghệ nội sinh của 
BARC và có thể chiết tách lượng muối dư thừa trong nước lợ. Công nghệ có thể tạo 
ra một giải pháp lâu dài đối với vấn đề khan hiếm nước quanh năm ở các bang, như 
Tamil Nadu và Gujarat, một số vùng nội địa ở Andhra Pradesh và các sa mạc của 
Rajastthan. 
Trên cơ sở kết hợp giữa các trạm khử muối với các nhà máy điện hạt nhân ven 
biển, công nghệ sẽ không cần dùng nhiên liệu hoá thạch khan hiếm hay các kênh dẫn 
hoặc đập. Công nghệ sử dụng quy trình đốt nhiều giai đoạn (MSF) kết hợp với quy 
trình màng lọc ngược để khử muối, đảm bảo thu được nước ngọt với độ tinh khiết 
cao, như khai thác từ các nguồn nước truyền thống. 
Với hàng loạt thực nghiệm tiến hành ở các vùng nông thôn, công nghệ đã chứng 
minh ý tưởng cấp nước uống an toàn từ các nguồn nước lợ. Các thực nghiệm đã được 
tiến hành tại các trạm trình diễn cũng chứng minh được khả năng thực thị về kỹ thuật- 
kinh tế của công nghệ nội sinh này đối với các nhà máy quy mô lớn, vừa và nhỏ. Hiện 
nay, BARC có thể cung cấp know-how để lắp đặt các trạm khử nước mặn và nước lợ 
thương mại. Hiện nay một trạm khử nước mặn trình diễn đốt năng lược hạt nhân 
nhiều giai đoạn có màng lọc ngược, công suất 6300m3/ ngày đang được xây dựng tại 
nhà máy điện nguyên tử Madras ở Kalpakkam. 
Nguồn:Techmonitor vol16, No6, Nov-Dec 1999 
Xử lý dòng thải công nghiệp phức hợp 
Ngành nghiệp hoá chất tạo ra nhiều dòng thải có các nồng độ cao các loại chất 
vô cơ giá trị (các axit, các bazơ, các muối kim loại), nhưng bị nhiễm bẩn với các mức 
thấp các phân tử hữu cơ độc tính cao. Phương thức xử lý hiện tại các dòng thải này 
chủ yếu là phương thức xử lý và chôn lấp tại bãi thải rất tốn kém. 
Nhiều phân tử hữu cơ trong các dòng thải có thể được phân huỷ nhờ các vi sinh 
vật, song các vi sinh vật đó không thể hoạt động trong các dòng thải có nồng độ 
kiềm/axit cao. 
Công ty công nghệ chiết lọc màng (MET)-một chi nhánh của khoa Hoá Kỹ 
thuật, đại học tổng hợp London, Vương quốc Anh đã phát triển hệ thống bể phản ứng 
sinh học, chiết kiểu màng lọc (EMB), dựa theo phương pháp tách chất hữu cơ từ các 
loại chất vô cơ, cho phép các phân tử hữu cơ được phân huỷ một cách có kiểm soát và 
xử lý riêng dòng thải vô cơ. 
Công ty hoá chất ICI thử nghiệm công nghệ này đầu tiên, và sau các đợt thử 
nghiệm, ICI đã lắp đặt một trạm thực nghiệm. Từ các thực nghiệm, MET không chỉ 
thu được kinh nghiệm thực tế về công nghệ, hiệu quả xử lý và chi phí của công nghệ 
dưới các điều kiện hiện trường, mà còn nhận được các yêu cầu hợp đồng của một 
công ty hoá chất lớn. 
Sau thành công tại công ty ICI, Công ty MET còn thắng thầu một dự án nữa với 
EIf Atochem. Công ty MET đang phải giải quyết một vấn đề xử lý của Eif Atochem, 
là xử lý các dòng thải chứa các chất hữu cơ có khả năng phân huỷ sinh học và các 
dung dịch axit aluminium chloride (AlCl3). 
Loại dòng thải này thường thấy trong quy trình sản xuất của ngành công nghiệp 
hoá chất. Công ty MET đã thành công trong việc tách và phân huỷ sinh học các chất 
hữu cơ, cho phép EIf Atochem tái chế được AlCl3 tinh khiết và bán lại làm sản phẩm 
xử lý nước. 
Như vậy, việc sử dụng công nghệ sinh học này đã giúp Eif Atochem có khả 
năng thay đổi những gì mà EIf phải chi phí tốn kém thành nguồn thu cho công ty, cho 
phép cải thiện đáng kể mặt kinh tế cho nhà máy. 
Nguồn: Techmonitor, vol16, No6, Nov-Dec 1999 
Quy trình mới tiền xử lý bùn 
Các chuyên gia khử nước bùn của công ty Simon-Hartley và các kỹ sư nhiệt 
Cambi, Na Uy đã triển khai một quy trình mới xử lý bùn tại Anh. Hiện quy trình đang 
được lắp đặt tại các công trình xử lý nước của công ty Thames Water's Chartsey, ở 
Surey, dùng phương pháp nhiệt thuỷ phân để tiệt trùng bùn trước khi đem đổ ra đất 
nông nghiệp. Quy trình xử lý nhiệt thuỷ phân Cambi được coi là hiệu quả hơn phương 
pháp thuỷ phân sinh học để phân huỷ dưới điều kiện bình thường. 
Thuỷ phân sẽ tiệt trùng bùn và nhờ đó các vi khuẩn tạo ra khí mê tan hoạt động 
trong các chất thối rữa, sẽ không bị xáo trộn do lượng bùn mới đưa vào có hàm lượng 
khuẩn khác nhau. Kỹ thuật mới được cấp patent này sử dụng biện pháp phun dòng hơi 
nóng trực tiếp để đốt nóng bùn tới 1300C trong thời gian lưu nhiệt là 30 phút. 
Bằng việc tạo ra các nhiệt độ và áp suất không đổi trong quy trình xử lý, hệ 
thống này được coi đã tạo ra bùn cấp lý tưởng cho quá trình phân huỷ kỵ khí. Kết quả 
là có thể tăng được sản lượng sinh khí của các hệ thống phân huỷ tới mức quy trình 
xử lý Cambi có thể hoạt động hoàn toàn bằng năng lượng tái tạo từ hệ thống xử lý 
nhiệt thuỷ phân Cambi (CHP) được cấp điện bằng khí sinh học. Quy trình xử lý 
Cambi đang được lắp đặt tại Chertsey, là trung tâm xử lý tập trung bùn cặn từ 6 trạm 
xử lý nước. 
Nguồn:Techmonitor vol16, No6, Nov-Dec 1999 
Xử lý đất bị ô nhiễm bằng thực vật 
 Một cơ quan trực thuộc Chính phủ Anh có tên là "National Urban Forestry 
Unit" đã bắt đầu thực hiện một dự án trồng thử nghiệm một số loại cây có tác 
dụng ăn kim loại nặng tại vùng có nhiều nhà máy công nghiệp nặng ở xung 
quanh Birmingham của nước Anh. Cuộc thử nghiệm này nhằm tìm ra loại cây có 
khả năng lọc chất độc cao nhất trong số các loại cây: Cây liễu (willow), cây 
dương (poplar), cây cơm cháy (elder). Các loại cây này đã được các nhà nông 
học Anh dùng để làm sạch đất nhiễm bẩn vì sử dụng cho mục đích công nghiệp. 
Chúng được dùng tái tạo lại đất bị nhiễm các kim loại nặng như chì (lead), 
cađimi (cadmium), thủy ngân (mercury), đồng (copper), kẽm (zinc) và bo 
(boron). Sau khi hút các "chất độc" đối với đất và cây trồng trên, những loại cây 
đó sẽ bị biến dạng, và người ta sẽ chặt chúng hạ chúng - trả lại đất đã được làm 
sạch cho việc trồng trọt bình thường. 
Nguồn : Lao động , ngày 17/7/1999 
Chương trình EC-ASEAN về Công nghệ thân thiện về sinh thái 
Chương trình cộng tác giữa Cộng đồng châu Âu (EC) và ASEAN đã xác 
định tiềm năng đáng kể -trong việc chuyển giao các công nghệ năng lượng sinh 
khối đã được kiểm chứng. EC đã tài trợ một phần cho một số dự án trình diễn 
quy mô đầy đủ tiến hành ở Đông Nam á trong khuôn khổ của chương trình hợp 
tác EC-ASEAN. Một số chức năng quan trọng của chương trình này là: 
• Cung cấp cho các công ty ASEAN và châu Âu các thông tin cập nhật 
liên quan đến thị trường năng lượng đang thay đổi rất nhanh ở các nước 
ASEAN; 
• Giám sát hiệu quả thực hiện về mặt kỹ thuật, kinh tế và môi trường 
của các dự án phát sinh khối đồng hành hiện có và các dự án mới; 
• Triển khai các dự án trình diễn quy mô đầy đủ để khuyến khích các 
công nghệ năng lượng sinh khối đã kiểm chứng trong các cơ sở công nghiệp 
gỗ và nông nghiệp ở ĐNA; và 
• Hỗ trợ các dịch vụ tư vấn kỹ thuật và kinh doanh trong khuôn khổ 
chương trình cho các công ty để lựa chọn những công nghệ thích hợp. 
Kết quả đạt được của chương trình thông qua các dự án đã được EU phê 
duyệt giai đoạn tiếp theo của chương trình. Trong giai đoạn này, ngoài việc chất 
thải của công nghiệp gỗ và nông nghiệp được sử dụng làm nhiên liệu, chương 
trình còn triển khai các dự án phát năng lượng đồng hành đốt bằng than và khí. 
 Nguồn: VAT S UPDATE: Waste Technology, Nov-Dec 1999 I
Các mức tiết kiệm do công nghệ sạch mang lại 
Công ty Bangkok Springs Industrial, Thái Lan đã chứng minh các mức tiết 
kiệm có thể đạt được thông qua việc áp dụng các công nghệ sạch. Công ty này 
sản xuất mỗi tháng 1500 tấn lá nhíp ô tô -sử dụng chủ yếu cho xe tải con và lớn. 
Trước đây công ty sử dụng phương pháp sơn phun truyền thống cho nên thải ra 
một lượng sơn thải lớn. Bằng cách áp dụng kỹ thuật sơn "kết tủa điện" (Electro 
deposit paint - EDP) do Viện Công nghệ Môi trường Khu vực (RIET) cung cấp, 
công ty đã có khả năng hạ thấp lượng sơn thải phát sinh. Với phương pháp sơn 
EDP, sơn được làm nhiễm từ tính và do vậy, các lá nhíp kim loại hút trực tiếp 
sơn từ tính. Theo Công ty Bangkok Springs Industrial, quy trình sơn mới này rẻ 
tiền hơn và an toàn hơn cho công nhân. Thời hạn hoàn trả vốn đầu tư của công ty 
khoảng 2 năm. 
Nguồn: ASIA INVEST News, VATIS UPDATE: Waste Technology, 
Nov-Dec 1999 
Xử lý nước ngầm nhiễm phèn 
 Đây là giải pháp lọc nước áp dụng nguyên tắc phản ứng tạo tủa và lọc tinh 
mà không dùng hóa chất. Vật liệu lọc là viên bi và hạt nhỏ có tác dụng điều chỉnh 
độ pH trong nguồn nước, tạo thế oxy hóa khử cao để loại bỏ ion kim loại. Vật 
liệu có dạng viên bi nén đảm bảo độ bền  ... hải đưa công nghệ 
tiên tiến vào khâu khai thác nguồn nước dưới đất, đó là công nghệ khai thác nước bằng 
giếng khoan khai thác có đường kính lớn từ 1,5 m - 2 m hoặc hành lang lấy nước. 
 Nước dưới đất khác với khoáng sản ở chỗ nếu kết cấu và bố trí giếng khai thác 
hợp lý thì ta thu được lượng nước ổn định trong suốt quá trình khai thác và tận dụng 
được tối đa tài nguyên nước. 
Kết quả điều tra nghiên cứu nguồn nước dưới đất ở Hà Nội trong tầng cuội sỏi, 
chúng ta thấy nổi lên một số đặc điểm là giữa nước dưới đất và sông Hồng có mối 
quan hệ thủy lực trực tiếp với nhau. Cụ thể là ở các dải ven sông Hồng cách sông từ 3 
đến 5 km, khi mực nước sông lên thì mực nước trong các lỗ khoan khai thác nước 
cũng lên theo. Càng gần sông chúng có biên độ đồng pha. Tại những dải sát sông, biên 
độ dao động của chúng gần như trùng nhau và đạt từ 5 m - 7 m. 
Ngoài ra, qua một số mặt cắt địa chất qua sông chúng ta đã phát hiện được lòng 
sông Hồng cắt qua tầng cát sạn ở phía trên và tầng cát sạn này lại thấm trực tiếp xuống 
tầng cuội sỏi ở phía dưới không bị lớp bùn sét nào ngăn cách. Điển hình như mặt cắt 
địa chất đoạn qua bến Phà Đen - Hà Nội. Trữ lượng khai thác nước dưới đất của Hà 
Nội được hình thành chủ yếu là trữ lượng lôi cuốn từ sông Hồng. Trữ lượng lôi cuốn 
này theo tính toán kiểm tra bằng phương pháp mô hình tương tự cũng như phương 
pháp mô hình số đều cho kết quả là chúng chiếm từ 80% đến 85% trữ lượng nước khai 
thác. 
Điều này đã lý giải cho chúng ta về sự ổn định cả về lưu lượng cũng như mức 
nước của hai bãi giếng bố trí gần sông Hồng của Nhà máy nước Yên Phụ (80.000 
m3/ngày) và bãi giếng của Nhà máy nước Lương Yên (52.000 m3/ngày). Như vậy có 
thể khẳng định rằng khai thác nước dưới đất ở tầng cuội sỏi ở Hà Nội thực chất là lấy 
nước từ sông Hồng qua sự thấm lọc tự nhiên của nước sông lọc qua tầng cuội sỏi khi 
các giếng khoan khai thác hoạt động. Vì thế các nhà máy nước nên bố trí gần sông và 
phải áp dụng công nghệ mới để mở rộng đường kính của lỗ khoan khai thác để tăng 
diện tích thấm lọc. 
Bằng phương pháp giải tích dựa vào các thông số địa chất thủy văn thu thập được 
đã tính toán kiểm tra cho thấy nếu sử dụng giếng khai thác có đường kính 1,2 m bố trí 
gần sông Hồng (cách sông khoảng từ 1 km đến 2 km) thì ở khu vực phía bắc Thăng 
Long -Vân Trì mỗi giếng cũng cho ta khối lượng đến 8.000 m3/ngày mà mực nước chỉ 
hạ thấp từ 7 m đến 8 m và ở khu vực Yên Phụ trở xuống phía nam Hà Nội mỗi giếng 
có thể lấy được 10.000 m3/ngày đến 12.000 m3/ngày. Như vậy là khối lượng nước của 
giếng có đường kính lớn tăng gấp 2 đến 3 lần khối lượng nước các giếng của các nhà 
máy nước hiện nay. 
Hiện nay, ở nước ta đã có những thiết bị tạo các giếng khoan có đường kính đến 
2,5 m và sâu đến 50 - 70 m và chúng ta đã nắm được công nghệ làm giếng đường kính 
lớn. Nếu chúng ta áp dụng công nghệ khai thác nước bằng giếng khoan có đường kính 
lớn sẽ có một số ưu điểm nổi bật là: 
 - Đưa công suất của các nhà máy nước lên rất cao, công suất của mỗi giếng khai 
thác tăng lên mà mực nước hạ thấp trong giếng giảm so với giếng có đường kính như 
hiện nay, tạo điều kiện khắc phục suy thoái giếng. 
 - Tiết kiệm diện tích phân bố bãi giếng khai thác, phạm vi phân bố nhà máy nước 
và các điểm khai thác được thu hẹp nên hạn chế được sự nhiễm bẩn do môi trường 
xung quanh khu vực lấy nước gây nên. 
- Tiết kiệm hệ thống đường ống, đường điện, khâu quản lý và điều hành. 
- Tận dụng tối đa trữ lượng nước khai thác của tầng chứa nước do tăng trữ lượng 
lôi cuốn từ nước sông Hồng chảy vào. 
Thành công của việc áp dụng công nghệ khai thác nước dưới đất bằng giếng có 
đường kính lớn sẽ mở ra triển vọng tốt đẹp cho việc cung cấp nước của thủ đô Hà Nội. 
Qua kết quả nghiên cứu, ứng dụng này sẽ được áp dụng rộng rãi cho những vùng có 
điều kiện địa chất thủy văn tương tự. Điều đó mang lại hiệu quả kinh tế và kỹ thuật to 
lớn khi chúng ta xây dựng các cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp và đô thị hiện 
nay. 
Nguồn: Tiến sĩ Tô Văn Nhụ, Quân đội Nhân dân, N.D,1/11/2000 
Chế biến bột màu từ bùn phế thải 
Các nhà khoa học thuộc Khoa Môi trường, Trường đại học kỹ thuật Tp. HCM đã 
chế biến bột màu từ bùn phế thải của nhà máy hóa chất Tân Bình, thành phố Hồ Chí 
Minh (Tp. HCM) với mục đích vừa tận dụng được phế thải vừa giải quyết được vấn đề 
chất thải để bảo vệ môi trường. 
Nhà máy hóa chất Tân Bình sản xuất các sản phẩm axít sunfuric 60 tấn/ngày, 
hyđroxit nhôm 20 tấn/ngày, phèn và một số hoá chất khác, trong đó, xưởng sản xuất 
hyđroxit nhôm là nguồn tạo ra chất thải bùn đỏ. 
Quy trình sản xuất hyđroxit nhôm được tiến hành qua 4 giai đoạn: nghiền mịn 
quặng bôxít để hỗn hợp bôxit đạt yêu cầu chảy xuống bồn chứa rồi bơm vào các bồn 
phế liệu, giai đoạn tiếp theo là tạo ra phản ứng khi trộn bùn đỏ và xút, lắng tách bã 
thủy phân, thu hồi nước cái và cuối cùng là tách hyđroxit nhôm tinh thể và cô đặc 
nước cái tuần hoàn tái sử dụng rồi đóng gói sản phẩm. Lượng thải bùn đỏ ở nhà máy 
hóa chất Tân Bình khoảng 30 m3/ngày tương đương 17 tấn chất khô/ngày. 
Từ lâu chất phế thải bùn đỏ của nhà máy này không được tận dụng mà đổ đi, 
người dân lấy bùn về phơi đem nung, nghiền thành bột làm bột màu quét tường, chất 
độn cao su, làm gạch,v.v... mà chưa có hướng giải quyết bài bản mang lại hiệu quả 
kinh tế. 
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành lấy mẫu, thiêu kết trong phòng thí nghiệm. Quy 
trình sản xuất bột màu từ bùn đỏ là: Từ bùn đỏ được đãi, sấy khô, trộn, thiêu kết, 
nghiền, hòa tan, lắng, lọc, rửa rồi chuyển qua sấy, nung, nghiền để cho ra sản phẩm 
cuối cùng là bột màu. Nếu hàm lượng sắt càng cao trong sản phẩm sau thiêu kết thì 
màu sắc sản phẩm càng đẹp, loại bột màu này thường được dùng trong công nghệ sản 
xuất gốm, sứ, sơn,v.v... 
Bùn đỏ có khối lượng thải lớn như ở nhà máy hóa chất Tân Bình là chất thải độc 
hại, cần phải tốn kinh phí để chuyển ra bãi tiêu hủy, việc xử lý và tận dụng bùn đỏ có ý 
nghĩa lớn về mặt kinh tế cũng như môi trường. Các nhà khoa học còn cho biết bùn đỏ 
có hàm lượng sắt và nhôm cao, do đó có thể chuyển chúng thành dung dịch hỗn hợp 
các chất trợ lắng dùng cho xử lý nước thải và nước cấp. Quy trình công nghệ đơn giản, 
chi phí chế biến và đầu tư sản xuất thấp, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng rãi. 
Quy trình sản xuất bột màu từ chất phế thải bùn đỏ có nhiều triển vọng do công 
nghệ đơn giản, sản phẩm thu được có chất lượng cao, có thể áp dụng triển khai rộng 
rãi cho các cơ sở sản xuất hóa chất để tăng hiệu quả kinh tế và bảo vệ tốt môi trường. 
Nguồn: KHĐS, Số 155/2000 
Nghiên cứu tạo ra dầu nhớt dễ phân hủy 
Các nhà khoa học ở trường Đại học Quốc gia Hà Nội vừa nghiên cứu, sử dụng 
dầu thực vật để sản xuất chất bôi trơn tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy có ba 
loại: dầu lạc, dầu sở và thầu dầu có thể đáp ứng các yêu cầu về độ ôxy hóa, độ nhớt 
tương đương với dầu khoáng. Việc nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới này sẽ mang lại 
giá trị kinh tế cao cho các loại cây lấy dầu nguyên liệu ở nước ta. Các loại dầu nhớt 
hiện nay rất khó phân hủy sinh học, đe dọa nghiêm trọng ô nhiễm đất và các nguồn 
nước, nhất là ở đô thị và các khu công nghiệp. 
Nguồn: Nhân dân, 13/11/2000 
Chế phẩm Mazzee xử lý ô nhiễm môi trường 
Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tp. Hồ Chí Minh phối hợp Trung tâm 
ứng dụng Công nghệ Tin học & Điều khiển (CATIC) và Tập đoàn Mazzei (Mỹ) giới 
thiệu chế phẩm Mazzee. Đây là một chế phẩm vi sinh hữu cơ dùng làm chất xúc tác để 
xử lý mùi hôi, cải thiện môi trường nước thải bị ô nhiễm trong các ngành công nghiệp 
dệt, nhuộm, caosu,v.v... và các ngành nông nghiệp. Chế phẩm Mazzee có khả năng 
hóa giải các chất độc, BOD, Coliform, Solid,v.v...; làm tăng lượng DO giúp tiêu diệt 
sự phát sinh của vi khuẩn làm ô nhiễm môi trường nước. Ngoài ra, chế phẩm Mazzee 
không độc hại cho con người và động, thực vật; tự hủy sau 8-10 ngày. Giải pháp xử lý 
ô nhiễm môi trường bằng chế phẩm Mazzee đã được thử nghiệm thành công tại Nhà 
máy đường La Ngà và Nhà máy cao su ở Bà Rịa-Vũng Tàu. 
Nguồn: Lao động, 21/11/2000 
Bếp than không khói 
Vấn đề sử dụng nguồn năng lượng nào để vừa tiết kiệm vừa không gây ô 
nhiễm đang được rất nhiều người quan tâm. Nếu không có gì thay đổi trong tháng 
12/2000, bếp than tổ ong cao cấp có tên "Vĩnh Cửu" thực hiện theo công nghệ 
không khói sẽ được bán ra trên thị trường. Theo yêu cầu của nhiều bạn đọc, chúng 
tôi sẽ cung cấp những thông tin cần thiết nhất về loại bếp này qua cuộc trao đổi 
với kỹ sư Trần Thanh Uyên, người thiết kế loại bếp này. 
 Người Hà Nội và nhiều địa phương khác hiện vẫn phải dùng loại bếp than tổ ong 
hoặc bếp than thông thường để đun nấu. Theo thống kê thì ở Hà Nội vẫn có tới 
65% số hộ vẫn phải dùng các phương tiện đun nấu thủ công như bếp than, củi, dầu 
hỏa. Bếp gas, bếp điện vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn trong các gia đình do giá 
thành cao. Bếp than sắp đưa ra thị trường được gọi là bếp than không khói do khi 
đun nấu không bị khói như các loại bếp than khác. Các bếp than có khói do các 
nguyên nhân: Chất lượng than có nhiều bùn, chưa qua công nghệ xử lý. Than đốt 
từ dưới lên, nên nhiệt đang đốt phần dưới đã tạo nên các thành phần chưa cháy hết 
phía trên và tạo thành khói gây ô nhiễm. Bếp than không khói có đặc điểm riêng 
là: những viên than đã được công nghệ xử lý để không độc hại, đốt viên than từ 
trên xuống chứ không phải từ dưới lên như các bếp than đang dùng hiện nay. Đó 
là cái quan trọng nhất của bếp than không khói. 
Cách sử dụng 
Đặt viên than vào lòng bếp. Thấy mặt trên của viên than có chấm đỏ ở giữa. 
Châm lửa vào chấm đỏ. Khi lửa cháy thì đặt kiềng (có 10 lỗ) lên trên mặt lò. Có 
cửa lò để điều chỉnh nhiệt. Khi than cháy không cần phải canh chừng. Sử dụng 
hoàn toàn như một bếp nấu ăn bình thường. 
Ưu điểm 
 Thứ nhất là dùng loại bếp than không khói này tiện lợi hơn rất nhiều bếp 
than tổ ong, cũng như tiện lợi hơn đun bằng củi, than. Bếp được làm bằng i-nox 
nên độ bền cao. Mỗi viên than có giá khoảng 800 đồng. Mỗi ngày sử dụng hết từ 
1-2 viên. 
 Một số người dùng thử cho biết: Ưu việt hơn hẳn các loại bếp khácTrong 
tháng 12/2000 đã có nhiều đại lý đến đặt hàng. hy vọng sử dụng bếp than không 
khói sẽ góp phần vào việc tiết kiệm năng lượng và chống ô nhiễm môi trường hiện 
nay. 
Nguồn: Lao động, 6/12/2000 
Dự án xây dựng bể khí sinh học được triển khai ở Phù Đổng, Hà Nội 
Nhằm hỗ trợ cho bà con nông dân hai xã Phù Đổng và Trung Mầu thuộc 
huyện Gia Lâm, Hà Nội khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải 
chăn nuôi nói chung và bò sữa nói riêng gây ra, bắt đầu từ tháng 8/2000, Trung 
tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (viết tắt tiếng Anh là 
RESCARD) cùng với Trung tâm Quốc tế về Năng lượng Mặt trời (CASE) của 
Chính phủ Australia đã ký kết trợ giúp triển khai dự án xây dựng bể khí sinh học 
(biogas) tại đây. 
Gần chục năm qua, nghề chăn nuôi bò sữa ở xã Phù Đổng phát triển rất mạnh 
và ồ ạt nên đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường rất nặng nề. Mặc dù đường 
thôn, ngõ, xóm đều được lát gạch rất kiên cố nhưng hàng chục kilômét hệ thống 
cống, rãnh thoát nước dọc mỗi lối đi trong các thôn đều bốc lên mùi xú uế khó 
chịu do ứ đọng quá nhiều chất thải từ chăn nuôi. 
Dự án bể khí sinh học được xem như một giải pháp để khắc phục vấn đề ô 
nhiễm môi trường và mang lại hiệu quả thiết thực cho bà con nông dân địa 
phương. 
Theo Giám đốc điều hành dự án, đây là dự án quy mô nhỏ với mục tiêu là 
xây dựng khoảng 100 bể khí sinh học. Các bể khí sinh học này là sự triển khai ứng 
dụng thành quả công nghệ sinh học tiên tiến của một số nước trên thế giới và sự 
sáng tạo nhiều năm của các nhà khoa học Việt Nam. Ngay từ khi khảo sát, điều tra 
số liệu đến khi tiến hành xây dựng thí điểm 10 bể khí sinh học đầu tiên, dự án 
được bà con nông dân, lãnh đạo chính quyền các cấp rất ủng hộ. 
Theo đánh giá sơ kết triển khai xây dựng 10 bể khí sinh học đầu tiên tại một 
hội nghị được tổ chức ngày 15/11/2000 vừa qua, tổng chi phí để xây loại bể 5 m3 
là 2.893.000 đồng/bể, loại bể 10 m3 là 3.422.000 đồng/bể (bao gồm cả tiền thuê 
chuyên gia kỹ thuật, tập huấn, vật liệu, nhân công). Trong quá trình triển khai 10 
bể thí điểm ban đầu, do điều kiện kinh tế, diện tích khu vực xây dựng bể, số lượng 
chất thải của từng gia đình nên dung tích các bể được điều chỉnh. Đối với loại bể 5 
m3, mỗi gia đình được hỗ trợ 1,2 triệu đồng, loại bể 10 m3, mỗi gia đình được hỗ 
trợ 1,4 triệu đồng. 
Qua khảo sát nguyện vọng của gần 300 hộ chăn nuôi bò sữa nơi đây, số gia 
đình xin đăng ký xây dựng bể khí sinh vật đã lên tới 154 hộ (chưa kể những hộ có 
điều kiện khó khăn về kinh tế, cần đến sự hỗ trợ ban đầu của dự án). Trong khi đó, 
mục tiêu mà dự án đặt ra là chỉ đầu tư xây 100 bể khí sinh học, từ đó chuyển giao 
công nghệ xây bể khí sinh học để bà con nông dân có thể tự xây được. 
Một điển hình chăn nuôi bò sữa ở xã Phù Đổng, là một trong số 10 hộ được 
chọn làm thí điểm cho biết: năm 1994, một số hộ dân ở đây cũng đã sử dụng bể 
khí sinh học nhưng do nguyên liệu vỏ bể làm bằng túi nilon nên sử dụng chưa đầy 
một năm là hỏng, không có gas. Nay theo thiết kế mới của dự án, vật liệu, nhân 
công thuận tiện hơn, dễ làm hơn và hiệu quả cũng cao hơn hẳn. 
10 hộ gia đình có bể xây thí điểm đều thừa nhận tính ưu việt của bể khí sinh 
học mới này. Hầu hết các hộ có bể khí sinh học đều phá bỏ công trình phụ cũ và 
xây mới theo mô hình hố xí tự hoại (WC), ốp gạch men trắng. Chuồng trại, bếp và 
công trình phụ của các gia đình sau khi có bể khí sinh học trở nên rất sạch sẽ. Điều 
đáng nói là bể khí và bể điều áp đều được đào và xây ngay dưới chuồng trại nên 
rất tiết kiệm diện tích, thuận tiện cho việc vệ sinh, tắm rửa cho bò trước khi lấy 
sữa. 
Xây bể khí sinh học có cái lợi thấy ngay là không phải mất công, mất diện 
tích cho việc tích trữ nhiên liệu (rơm, rạ, củi,v.v...) như trước đây, đun nấu giờ đây 
cũng thuận tiện hơn do không mất thời gian nhen lửa". Ông còn cho biết, nhiều hộ 
đã nghĩ đến việc lắp thùng nước nóng cho buồng tắm về mùa lạnh bởi lượng gas 
sử dụng không hết. Trưởng ban dự án cho rằng nếu mỗi hộ nông dân nuôi 5 con 
lợn và có một công trình WC thì có thể xây được một bể khí sinh học với dung 
tích khoảng 5 m3, cung cấp đủ nhiên liệu cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của một 
gia đình từ 4-5 người. 
Tất nhiên, ý kiến của các chuyên gia đều thống nhất rằng trong khi nhiều hộ 
dân ở thành thị vẫn còn sử dụng bếp than tổ ong thì việc bà con nông dân có bể khí 
sinh học "dùng gas không mất tiền mua" này là một mô hình cần được nhân rộng. 
Tuy nhiên, các chuyên gia và các nhà khoa học còn băn khoăn nhiều về vấn đề 
chất lượng, làm sao để bể xây phải kín và khí gas phải mạnh. Việc này đòi hỏi 
phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật ngay từ khâu thiết kế, thi công cho 
đến tỷ lệ chất thải và nước được nạp vào bể. Nếu bể bị hở do cẩu thả trong kỹ 
thuật xây, lượng nước sẽ nhiều hơn chất thải do không đủ tỷ lệ theo dung tích quy 
định thì chắc chắn gas sẽ yếu. 
Theo tiến độ dự án, 90 bể khí sinh học còn lại sẽ được triển khai xây dựng từ 
nay đến tháng 4 năm 2001. Tuy nhiên, tốc độ có thể đẩy nhanh hơn nếu phần vốn 
còn lại của phía các hộ gia đình được đáp ứng kịp cùng khoản kinh phí hỗ trợ của 
dự án. 
Nguồn: TBKTVN, 29/11/2000 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_che_tao_ong_xa_sach_xu_ly_o_nhiem_tren_o_to.pdf