Giáo trình Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô -tô
Xử lý nước ngầm nhiễm phèn
Đây là giải pháp lọc nước áp dụng nguyên tắc phản ứng tạo tủa và lọc tinh
mà không dùng hóa chất. Vật liệu lọc là viên bi và hạt nhỏ có tác dụng điều chỉnh
độ pH trong nguồn nước, tạo thế oxy hóa khử cao để loại bỏ ion kim loại. Vật
liệu có dạng viên bi nén đảm bảo độ bền cơ học, bền trong nước, không nhiễm
bẩn, không gây độc hại khi cho nước đi qua. Tỷ lệ hao mòn về trọng lượng hàng
năm của vật liệu dạng viên bi từ 5% đén 7%. Thiết bị có tên gọi là “Công nghệ
4M”, quy trình xử lý gồm 3 công đoạn chính sau đây:
1, Cấp oxy và khử khí: Đối với những hệ thống xử lý trực tiếp nguồn
nước ngầm vừa khai thác, một trong các biện pháp cần thiết để khử sắt tan trong
nước là cung cấp oxy dưới dạng giàn phun mưa hoặc bơm không khí vào hệ
thống. Ngoài tác dụng cung cấp oxy, hệ thống này còn phải loại trừ các khí như
CO2, CH4, H2S tan trong nước.
2, Phản ứng tạo tủa: Nước ngầm sau khi được bơm lên tiếp xúc với không
khí qua giàn phun mưa (hoặc bằng cách bơm không khí vào), sẽ chuyển sang
công đoạn phản ứng tạo tủa, độ pH của nước thay đổi và ổn định ở môi trường
kiềm thích hợp nhờ tác dụng của vật liệu lọc. Thế oxy hóa khử trên bề mặt vật
liệu tăng lên do sự hấp thu của các ion làm tăng nồng độ của chúng. Trong môi
trường đó, cộng với tác dụng của các chất xúc tác chọn trong vật liệu lọc, quá
trình chuyển hóa các ion Fe+2 tan trong nước thành các ion Fe+3 kết tủa theo các
phản ứng hóa học trên xảy ra dễ dàng và nhanh chóng. Phần lớn các kết tủa bám
trên bề mặt hạt lọc và được loại bỏ bằng xả rửa sau mỗi chu kỳ làm việc.
3, Lọc tinh: Vật liệu dùng để lọc tinh trong công đoạn này là cát chọn lọc
chuyên dùng. Cơ chế lọc tinh bao gồm lọc hấp thu, hút tĩnh điện trên bề mặt vật
liệu, lọc cơ học và lắng trong. Quá trình loại sắt còn có thể thực hiện ở công đoạn
này, nếu nguồn nước có hàm lượng sắt cao, các hạt keo mịn lơ lửng, vẩn đục,
mang màu, mùi sẽ được giữ lại nhờ cơ chế trên.
Công nghệ này do TS. sinh học Võ Quang Tuyến, TS. công nghệ Nguyễn
Quang Thắng và TS. hóa học Nguyễn Thạc Sửu phối hợp nghiên cứu sáng chế.
Thiết bị xử lý nước ngầm nhiễm phèn 4M đáp ứng được nhu cầu nước sạch cho
dân cư vùng ven TP. Hồ Chí Minh, vùng duyên hải miền Trung và vùng đồng
bằng sông Cửu Long, nơi có nguồn nước nhiễm phèn khá lớn. Đây là giải pháp
công nghệ lọc nước đã được kiểm nghiệm trong thực tế phù hợp với khả năngđầu tư, điều kiện và trình độ sử dụng của cộng đồng dân cư. Giải pháp này có ưu
điểm là không sử dụng hóa chất trực tiếp, đa dạng hóa về công suất và đối tượng
phục vụ, dùng trong hộ gia đình hoặc sản xuất công nghiệp.
Hiện tại ở Việt Nam có sẵn nguồn nguyên liệu chế tạo hạt lọc, nhờ vậy mà
giá thiết bị thấp, phù hợp với khả năng đầu tư của người dân vùng sâu, vùng xa.
Bộ lọc 4M có nhiều loại với công suất khác nhau từ 300 lít/ngày đến 4000
lít/ngày, giá từ 600.000 đ/bộ đến 2.500.000 đ/bộ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô -tô
Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-tô Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-tô Vừa qua, Bộ môn Cơ khí ô-tô, Trường đại học Kỹ thuật thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã bảo vệ xuất sắc đề tài "Nghiên cứu giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trên các phương tiện giao thông đường bộ". Đề tài đã đưa ra giải pháp sử dụng một bộ lọc khí xả - "ống xả sạch" - để xử lý và loại bỏ các thành phần gây ô nhiễm trong khí xả của động cơ trước khi xả ra ngoài môi trường. Sau gần 5 năm nghiên cứu và thử nghiệm, đề tài đã đưa ra một cơ chế lọc và làm sạch muội than hoàn toàn mới. Với cơ chế này, diện tích thông qua của phần tử lọc lớn gấp 30 đến 50 lần tiết diện đường ống xả. Trong quá trình làm việc, muội than được làm sạch khỏi phần tử lọc một cách liên tục theo nguyên lý đẩy và quét bằng chính động năng của dòng khí xả. Muội than được thu hồi về đáy của bộ lọc dưới dạng bột. Các thử nghiệm trên bộ lọc khí xả mẫu cho thấy mức độ giảm độ mờ khói đạt được từ 17% đến 26% (trung bình đạt 22,4%). Phần tử lọc được làm sạch gần như hoàn toàn trong suốt quá trình thử nghiệm. Với nhiệt độ khí xả ở cuối đường ống xả khoảng 2100C, bộ lọc khí xả hoạt động bình thường, có kích thước nhỏ gọn (đường kính 250 x 300 mm) lắp đặt thuận lợi với cả các xe tải nhỏ và xe khách 12 chỗ ngồi. Thành công của đề tài làm "ống xả sạch" của Trường đại học Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh đã mở ra một giải pháp hữu hiệu, công nghệ đơn giản, ít tốn kém trong việc xử lý ô nhiễm môi trường trên các phương tiện giao thông đường bộ. Nếu được hoàn thiện và triển khai áp dụng rộng rãi, thì"ống xả sạch" sẽ đưa chất lượng khí xả của động cơ theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6438-1998 từ mức 1 (85% lượng muội than) xuống mức 2 (còn 72% lượng muội than). Nguồn: Quân đội Nhân dân, ngày 5/1/2000 Xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Cần Đước Bệnh viện Đa khoa Cần Đước thuộc tỉnh Long An vừa xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện với kinh phí 110 triệu đồng. Thiết bị do Viện Công nghệ hóa học TP. Hồ Chí Minh cung cấp. Hệ thống xử lý nước thải điều khiển tự động hoàn toàn với công suất 25 m3/ngày, bảo đảm xử lý toàn bộ khối lượng nước thải của bệnh viện trước khi thải ra ngoài. Đây là một trong những hệ thống xử lý nước thải đầu tiên được lắp đặt tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của Long An nhằm bảo vệ môi trường khỏi bị ô nhiễm. Nguồn: Nhân dân, ngày 2/1/2000 Cần Thơ đưa vào sử dụng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện theo phương pháp vi sinh hiếu khí Bệnh viện quân y 121, tỉnh Cần Thơ, vừa đưa vào sử dụng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện theo phương pháp vi sinh hiếu khí kết hợp đông tụ hóa học theo công nghệ tiên tiến của Italia, do Bộ Quốc phòng đầu tư với tổng vốn 1,6 tỷ đồng. Đây là công trình xử lý nước thải bệnh viện có quy mô lớn nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, với công suất lọc 200 m3 nước thải/ngày đêm. Công trình bao gồm bể chứa nước thải bệnh viện, các bồn vi sinh, bể lọc, hệ thống thải nước sau khi xử lý. Nước thải sau khi được xử lý sẽ được sử dụng cho trồng trọt và nuôi trồng thủy sản. Nguồn: TTXVN, ngày 8/12/1999 Các biện pháp sinh học làm sạch môi trường đất và nước Hiện nay, các phương pháp xử lý các loại nước thải đang rất được quan tâm. Một trong những giải pháp có nhiều triển vọng để xử lý nước thải là ứng dụng công nghệ sinh học về tảo trong xử lý nước thải để nuôi cá, làm phân bón,v.v...Xuất phát từ thực tiễn đó, Viện Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ thuộc Bộ KH,CN & MT, đã tiến hành ngiên cứu đề tài : “Sử dụng một số biện pháp sinh học để làm sạch môi trường đất và nước”. Trên cơ sở nghiên cưú đặc điểm hóa, ký, sinh học của nước như : Nhiệt độ, độ pH, tổng lượng chất rắn lơ lửng, độ đục, COD, BOD2, N-NH4+, N-NOx-, PO43-, CL-, H2S, Cu, Fe tổng, Zn, số vi sinh vật hiếu khí và kỵ khí, E.Coli, Coliform, v.v....trong nguồn nước thải ở Hà Nội, Viện đã thử nghiệm nuôi trồng một số loài tảo, như Cholellapyrenoidosa, bèo hoa dâu Azollapinata, vi khuẩn lam cố định đạm Nostoc-N3 và Glocotrichia-Cl, các chế phẩm sinh học là một số vi sinh vật có khả năng cố định đạm như: Klebsiella, Extrasol và Agrofil. Các kết quả nghiên cứu cho thấy: -Nước thải đổ vào hồ của Hà Nội tại một số điểm nghiên cứu khá bẩn: BOD cao gấp 2-5 lần, COD cao gấp 2-7 lần, N-NH4+ cao gấp 4-14 lần so với tiêu chuẩn nước mặt của Việt Nam (TCVN), vi sinh vật Clostridium Welchi có nhiều (3,7x103 tb/100ml). -Nước thải bệnh viện và sinh hoạt chưa được xử lý đổ thẳng ra các kênh, mương hòa với nước thải công nghiệp, tạo thành dòng thải ô nhiễm nặng, với hàm lượng lớn các chất hữu cơ và vi sinh vật gây bệnh: COD cao gấp 10-20 lần, BOD cao gấp 4-12 lần, Coliform cao gấp 10-104 lần, N-NH4+ cao gấp 25-50 lần so với TCVN 5942-1995). Qua nghiên cứu, đề tài đã đi đến kết luận như sau: 1, Tảo Chlorella sinh trưởng tốt trong các nguồn nước thải nghiên cứu với giải trị số COD dao động từ 200-700 mg/l. Tảo này phát triển tốt nhất trong nước thải sinh hoạt với giải trị số COD từ 200-400 mg/l, sinh khối đạt 400-1000mg tảo khô/l sau 5-6 ngày; 2, Tảo Chlorella có khả năng phân hủy COD và BOD rất cao đối với nước thải sinh hoạt trong điều kiện nuôi phòng thí nghiệm: COD giảm 84%, BOD giảm 90%; 3, Tảo Chlorella có khả năng loại bỏ N-NH4+, P043- rất cao trong nước thải sinh hoạt. Giá trị các chỉ số này trong nước thải sau khi xử lý phòng thí nghiệm đạt TCVN 5942-1995 : N-NH4+ giảm 99%, PO43- giảm 98%; 4, Tảo Chlorella có khả năng hấp thụ Cu và Zn trong nước thải hỗn hợp với hiệu suất loại bỏ Cu đạt 94-95% sau 20 ngày và hiệu suất loại bỏ Zn đạt 97% sau 16 ngày; 5, Bèo hoa dâu Azollapinata có khả năng hấp thụ Co và Eu ở nông độ từ 5- 20 ppm và khả năng hấp thụ cao nhất khoảng 24 giờ sau khi nuôi bèo. Hầu như toàn bộ lượng Co và Eu được hấp thụ đều nằm ở phần lá bèo; 6, Vi khuẩn lam cố định đạm Nostc và Glocotrichia bón cho rau có tác dụng làm tăng sinh khối rau muống trong khi hàm lượng đạm tổng số ở mẫu thí nghiệm tương tự đối chứng, các tảo này còn làm tăng năng suất rau cải trồng trong dung dịch lên 10%; 7, Các chế phẩm vi sinh vật cố định đạm Klebsiella, Extrasol và Agrofil có thể đem sử dụng thay thế đạm urê vô cơ, để bón cho rau diếp và rau cải mà vẫn bảo đảm chỉ tiêu năng suất, hàm lượng đạm tổng số và không làm tăng hàm lượng N-NO3- trong rau; 8, Nghiên cứu đề ra được mô hình vừa đơn giản, vừa gọn nhẹ trong phòng thí nghiệm sử dụng tảo để xử lý nước thải sinh hoạt, nhưng có hiệu quả làm giảm BOD tới 90%, COD tơi 84%, N-NH4+ tới 99%, PO43- tới 98% và E.Coli tới 50%. Nguồn: Trungtâm Thông tin KH-CN Quốc gia, 17/1/2000 Nước uống lấy từ biển Các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Bhabha (BARC), ấn Độ đã triển khai một công nghệ hạt nhân, có thể tách nước biển thành nước uống. Công nghệ này là kết quả của hơn 10 năm nghiên cứu và triển khai công nghệ nội sinh của BARC và có thể chiết tách lượng muối dư thừa trong nước lợ. Công nghệ có thể tạo ra một giải pháp lâu dài đối với vấn đề khan hiếm nước quanh năm ở các bang, như Tamil Nadu và Gujarat, một số vùng nội địa ở Andhra Pradesh và các sa mạc của Rajastthan. Trên cơ sở kết hợp giữa các trạm khử muối với các nhà máy điện hạt nhân ven biển, công nghệ sẽ không cần dùng nhiên liệu hoá thạch khan hiếm hay các kênh dẫn hoặc đập. Công nghệ sử dụng quy trình đốt nhiều giai đoạn (MSF) kết hợp với quy trình màng lọc ngược để khử muối, đảm bảo thu được nước ngọt với độ tinh khiết cao, như khai thác từ các nguồn nước truyền thống. Với hàng loạt thực nghiệm tiến hành ở các vùng nông thôn, công nghệ đã chứng minh ý tưởng cấp nước uống an toàn từ các nguồn nước lợ. Các thực nghiệm đã được tiến hành tại các trạm trình diễn cũng chứng minh được khả năng thực thị về kỹ thuật- kinh tế của công nghệ nội sinh này đối với các nhà máy quy mô lớn, vừa và nhỏ. Hiện nay, BARC có thể cung cấp know-how để lắp đặt các trạm khử nước mặn và nước lợ thương mại. Hiện nay một trạm khử nước mặn trình diễn đốt năng lược hạt nhân nhiều giai đoạn có màng lọc ngược, công suất 6300m3/ ngày đang được xây dựng tại nhà máy điện nguyên tử Madras ở Kalpakkam. Nguồn:Techmonitor vol16, No6, Nov-Dec 1999 Xử lý dòng thải công nghiệp phức hợp Ngành nghiệp hoá chất tạo ra nhiều dòng thải có các nồng độ cao các loại chất vô cơ giá trị (các axit, các bazơ, các muối kim loại), nhưng bị nhiễm bẩn với các mức thấp các phân tử hữu cơ độc tính cao. Phương thức xử lý hiện tại các dòng thải này chủ yếu là phương thức xử lý và chôn lấp tại bãi thải rất tốn kém. Nhiều phân tử hữu cơ trong các dòng thải có thể được phân huỷ nhờ các vi sinh vật, song các vi sinh vật đó không thể hoạt động trong các dòng thải có nồng độ kiềm/axit cao. Công ty công nghệ chiết lọc màng (MET)-một chi nhánh của khoa Hoá Kỹ thuật, đại học tổng hợp London, Vương quốc Anh đã phát triển hệ thống bể phản ứng sinh học, chiết kiểu màng lọc (EMB), dựa theo phương pháp tách chất hữu cơ từ các loại chất vô cơ, cho phép các phân tử hữu cơ được phân huỷ một cách có kiểm soát và xử lý riêng dòng thải vô cơ. Công ty hoá chất ICI thử nghiệm công nghệ này đầu tiên, và sau các đợt thử nghiệm, ICI đã lắp đặt một trạm thực nghiệm. Từ các thực nghiệm, MET không chỉ thu được kinh nghiệm thực tế về công nghệ, hiệu quả xử lý và chi phí của công nghệ dưới các điều kiện hiện trường, mà còn nhận được các yêu cầu hợp đồng của một công ty hoá chất lớn. Sau thành công tại công ty ICI, Công ty MET còn thắng thầu một dự án nữa với EIf Atochem. Công ty MET đang phải giải quyết một vấn đề xử lý của Eif Atochem, là xử lý các dòng thải chứa các chất hữu cơ có khả năng phân huỷ sinh học và các dung dịch axit aluminium chloride (AlCl3). Loại dòng thải này thường thấy trong quy trình sản xuất của ngành công nghiệp hoá chất. Công ty MET đã thành công trong việc tách và phân huỷ sinh học các chất hữu cơ, cho phép EIf Atochem tái chế được AlCl3 tinh khiết và bán lại làm sản phẩm xử lý nước. Như vậy, việc sử dụng công nghệ sinh học này đã giúp Eif Atochem có khả năng thay đổi những gì mà EIf phải chi phí tốn kém thành nguồn thu cho công ty, cho phép cải thiện đáng kể mặt kinh tế cho nhà máy. Nguồn: Techmonitor, vol16, No6, Nov-Dec 1999 Quy trình mới tiền xử lý bùn Các chuyên gia khử nước bùn của công ty Simon-Hartley và các kỹ sư nhiệt Cambi, Na Uy đã triển khai một quy trình mới xử lý bùn tại Anh. Hiện quy trình đang được lắp đặt tại các công trình xử lý nước của công ty Thames Water's Chartsey, ở Surey, dùng phương pháp nhiệt thuỷ phân để tiệt trùng bùn trước khi đem đổ ra đất nông nghiệp. Quy trình xử lý nhiệt thuỷ phân Cambi được coi là hiệu quả hơn phương pháp thuỷ phân sinh học để phân huỷ dưới điều kiện bình thường. Thuỷ phân sẽ tiệt trùng bùn và nhờ đó các vi khuẩn tạo ra khí mê tan hoạt động trong các chất thối rữa, sẽ không bị xáo trộn do lượng bùn mới đưa vào có hàm lượng khuẩn khác nhau. Kỹ thuật mới được cấp patent này sử dụng biện pháp phun dòng hơi nóng trực tiếp để đốt nóng bùn tới 1300C trong thời gian lưu nhiệt là 30 phút. Bằng việc tạo ra các nhiệt độ và áp suất không đổi trong quy trình xử lý, hệ thống này được coi đã tạo ra bùn cấp lý tưởng cho quá trình phân huỷ kỵ khí. Kết quả là có thể tăng được sản lượng sinh khí của các hệ thống phân huỷ tới mức quy trình xử lý Cambi có thể hoạt động hoàn toàn bằng năng lượng tái tạo từ hệ thống xử lý nhiệt thuỷ phân Cambi (CHP) được cấp điện bằng khí sinh học. Quy trình xử lý Cambi đang được lắp đặt tại Chertsey, là trung tâm xử lý tập trung bùn cặn từ 6 trạm xử lý nước. Nguồn:Techmonitor vol16, No6, Nov-Dec 1999 Xử lý đất bị ô nhiễm bằng thực vật Một cơ quan trực thuộc Chính phủ Anh có tên là "National Urban Forestry Unit" đã bắt đầu thực hiện một dự án trồng thử nghiệm một số loại cây có tác dụng ăn kim loại nặng tại vùng có nhiều nhà máy công nghiệp nặng ở xung quanh Birmingham của nước Anh. Cuộc thử nghiệm này nhằm tìm ra loại cây có khả năng lọc chất độc cao nhất trong số các loại cây: Cây liễu (willow), cây dương (poplar), cây cơm cháy (elder). Các loại cây này đã được các nhà nông học Anh dùng để làm sạch đất nhiễm bẩn vì sử dụng cho mục đích công nghiệp. Chúng được dùng tái tạo lại đất bị nhiễm các kim loại nặng như chì (lead), cađimi (cadmium), thủy ngân (mercury), đồng (copper), kẽm (zinc) và bo (boron). Sau khi hút các "chất độc" đối với đất và cây trồng trên, những loại cây đó sẽ bị biến dạng, và người ta sẽ chặt chúng hạ chúng - trả lại đất đã được làm sạch cho việc trồng trọt bình thường. Nguồn : Lao động , ngày 17/7/1999 Chương trình EC-ASEAN về Công nghệ thân thiện về sinh thái Chương trình cộng tác giữa Cộng đồng châu Âu (EC) và ASEAN đã xác định tiềm năng đáng kể -trong việc chuyển giao các công nghệ năng lượng sinh khối đã được kiểm chứng. EC đã tài trợ một phần cho một số dự án trình diễn quy mô đầy đủ tiến hành ở Đông Nam á trong khuôn khổ của chương trình hợp tác EC-ASEAN. Một số chức năng quan trọng của chương trình này là: • Cung cấp cho các công ty ASEAN và châu Âu các thông tin cập nhật liên quan đến thị trường năng lượng đang thay đổi rất nhanh ở các nước ASEAN; • Giám sát hiệu quả thực hiện về mặt kỹ thuật, kinh tế và môi trường của các dự án phát sinh khối đồng hành hiện có và các dự án mới; • Triển khai các dự án trình diễn quy mô đầy đủ để khuyến khích các công nghệ năng lượng sinh khối đã kiểm chứng trong các cơ sở công nghiệp gỗ và nông nghiệp ở ĐNA; và • Hỗ trợ các dịch vụ tư vấn kỹ thuật và kinh doanh trong khuôn khổ chương trình cho các công ty để lựa chọn những công nghệ thích hợp. Kết quả đạt được của chương trình thông qua các dự án đã được EU phê duyệt giai đoạn tiếp theo của chương trình. Trong giai đoạn này, ngoài việc chất thải của công nghiệp gỗ và nông nghiệp được sử dụng làm nhiên liệu, chương trình còn triển khai các dự án phát năng lượng đồng hành đốt bằng than và khí. Nguồn: VAT S UPDATE: Waste Technology, Nov-Dec 1999 I Các mức tiết kiệm do công nghệ sạch mang lại Công ty Bangkok Springs Industrial, Thái Lan đã chứng minh các mức tiết kiệm có thể đạt được thông qua việc áp dụng các công nghệ sạch. Công ty này sản xuất mỗi tháng 1500 tấn lá nhíp ô tô -sử dụng chủ yếu cho xe tải con và lớn. Trước đây công ty sử dụng phương pháp sơn phun truyền thống cho nên thải ra một lượng sơn thải lớn. Bằng cách áp dụng kỹ thuật sơn "kết tủa điện" (Electro deposit paint - EDP) do Viện Công nghệ Môi trường Khu vực (RIET) cung cấp, công ty đã có khả năng hạ thấp lượng sơn thải phát sinh. Với phương pháp sơn EDP, sơn được làm nhiễm từ tính và do vậy, các lá nhíp kim loại hút trực tiếp sơn từ tính. Theo Công ty Bangkok Springs Industrial, quy trình sơn mới này rẻ tiền hơn và an toàn hơn cho công nhân. Thời hạn hoàn trả vốn đầu tư của công ty khoảng 2 năm. Nguồn: ASIA INVEST News, VATIS UPDATE: Waste Technology, Nov-Dec 1999 Xử lý nước ngầm nhiễm phèn Đây là giải pháp lọc nước áp dụng nguyên tắc phản ứng tạo tủa và lọc tinh mà không dùng hóa chất. Vật liệu lọc là viên bi và hạt nhỏ có tác dụng điều chỉnh độ pH trong nguồn nước, tạo thế oxy hóa khử cao để loại bỏ ion kim loại. Vật liệu có dạng viên bi nén đảm bảo độ bền ... hải đưa công nghệ tiên tiến vào khâu khai thác nguồn nước dưới đất, đó là công nghệ khai thác nước bằng giếng khoan khai thác có đường kính lớn từ 1,5 m - 2 m hoặc hành lang lấy nước. Nước dưới đất khác với khoáng sản ở chỗ nếu kết cấu và bố trí giếng khai thác hợp lý thì ta thu được lượng nước ổn định trong suốt quá trình khai thác và tận dụng được tối đa tài nguyên nước. Kết quả điều tra nghiên cứu nguồn nước dưới đất ở Hà Nội trong tầng cuội sỏi, chúng ta thấy nổi lên một số đặc điểm là giữa nước dưới đất và sông Hồng có mối quan hệ thủy lực trực tiếp với nhau. Cụ thể là ở các dải ven sông Hồng cách sông từ 3 đến 5 km, khi mực nước sông lên thì mực nước trong các lỗ khoan khai thác nước cũng lên theo. Càng gần sông chúng có biên độ đồng pha. Tại những dải sát sông, biên độ dao động của chúng gần như trùng nhau và đạt từ 5 m - 7 m. Ngoài ra, qua một số mặt cắt địa chất qua sông chúng ta đã phát hiện được lòng sông Hồng cắt qua tầng cát sạn ở phía trên và tầng cát sạn này lại thấm trực tiếp xuống tầng cuội sỏi ở phía dưới không bị lớp bùn sét nào ngăn cách. Điển hình như mặt cắt địa chất đoạn qua bến Phà Đen - Hà Nội. Trữ lượng khai thác nước dưới đất của Hà Nội được hình thành chủ yếu là trữ lượng lôi cuốn từ sông Hồng. Trữ lượng lôi cuốn này theo tính toán kiểm tra bằng phương pháp mô hình tương tự cũng như phương pháp mô hình số đều cho kết quả là chúng chiếm từ 80% đến 85% trữ lượng nước khai thác. Điều này đã lý giải cho chúng ta về sự ổn định cả về lưu lượng cũng như mức nước của hai bãi giếng bố trí gần sông Hồng của Nhà máy nước Yên Phụ (80.000 m3/ngày) và bãi giếng của Nhà máy nước Lương Yên (52.000 m3/ngày). Như vậy có thể khẳng định rằng khai thác nước dưới đất ở tầng cuội sỏi ở Hà Nội thực chất là lấy nước từ sông Hồng qua sự thấm lọc tự nhiên của nước sông lọc qua tầng cuội sỏi khi các giếng khoan khai thác hoạt động. Vì thế các nhà máy nước nên bố trí gần sông và phải áp dụng công nghệ mới để mở rộng đường kính của lỗ khoan khai thác để tăng diện tích thấm lọc. Bằng phương pháp giải tích dựa vào các thông số địa chất thủy văn thu thập được đã tính toán kiểm tra cho thấy nếu sử dụng giếng khai thác có đường kính 1,2 m bố trí gần sông Hồng (cách sông khoảng từ 1 km đến 2 km) thì ở khu vực phía bắc Thăng Long -Vân Trì mỗi giếng cũng cho ta khối lượng đến 8.000 m3/ngày mà mực nước chỉ hạ thấp từ 7 m đến 8 m và ở khu vực Yên Phụ trở xuống phía nam Hà Nội mỗi giếng có thể lấy được 10.000 m3/ngày đến 12.000 m3/ngày. Như vậy là khối lượng nước của giếng có đường kính lớn tăng gấp 2 đến 3 lần khối lượng nước các giếng của các nhà máy nước hiện nay. Hiện nay, ở nước ta đã có những thiết bị tạo các giếng khoan có đường kính đến 2,5 m và sâu đến 50 - 70 m và chúng ta đã nắm được công nghệ làm giếng đường kính lớn. Nếu chúng ta áp dụng công nghệ khai thác nước bằng giếng khoan có đường kính lớn sẽ có một số ưu điểm nổi bật là: - Đưa công suất của các nhà máy nước lên rất cao, công suất của mỗi giếng khai thác tăng lên mà mực nước hạ thấp trong giếng giảm so với giếng có đường kính như hiện nay, tạo điều kiện khắc phục suy thoái giếng. - Tiết kiệm diện tích phân bố bãi giếng khai thác, phạm vi phân bố nhà máy nước và các điểm khai thác được thu hẹp nên hạn chế được sự nhiễm bẩn do môi trường xung quanh khu vực lấy nước gây nên. - Tiết kiệm hệ thống đường ống, đường điện, khâu quản lý và điều hành. - Tận dụng tối đa trữ lượng nước khai thác của tầng chứa nước do tăng trữ lượng lôi cuốn từ nước sông Hồng chảy vào. Thành công của việc áp dụng công nghệ khai thác nước dưới đất bằng giếng có đường kính lớn sẽ mở ra triển vọng tốt đẹp cho việc cung cấp nước của thủ đô Hà Nội. Qua kết quả nghiên cứu, ứng dụng này sẽ được áp dụng rộng rãi cho những vùng có điều kiện địa chất thủy văn tương tự. Điều đó mang lại hiệu quả kinh tế và kỹ thuật to lớn khi chúng ta xây dựng các cơ sở hạ tầng cho các khu công nghiệp và đô thị hiện nay. Nguồn: Tiến sĩ Tô Văn Nhụ, Quân đội Nhân dân, N.D,1/11/2000 Chế biến bột màu từ bùn phế thải Các nhà khoa học thuộc Khoa Môi trường, Trường đại học kỹ thuật Tp. HCM đã chế biến bột màu từ bùn phế thải của nhà máy hóa chất Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh (Tp. HCM) với mục đích vừa tận dụng được phế thải vừa giải quyết được vấn đề chất thải để bảo vệ môi trường. Nhà máy hóa chất Tân Bình sản xuất các sản phẩm axít sunfuric 60 tấn/ngày, hyđroxit nhôm 20 tấn/ngày, phèn và một số hoá chất khác, trong đó, xưởng sản xuất hyđroxit nhôm là nguồn tạo ra chất thải bùn đỏ. Quy trình sản xuất hyđroxit nhôm được tiến hành qua 4 giai đoạn: nghiền mịn quặng bôxít để hỗn hợp bôxit đạt yêu cầu chảy xuống bồn chứa rồi bơm vào các bồn phế liệu, giai đoạn tiếp theo là tạo ra phản ứng khi trộn bùn đỏ và xút, lắng tách bã thủy phân, thu hồi nước cái và cuối cùng là tách hyđroxit nhôm tinh thể và cô đặc nước cái tuần hoàn tái sử dụng rồi đóng gói sản phẩm. Lượng thải bùn đỏ ở nhà máy hóa chất Tân Bình khoảng 30 m3/ngày tương đương 17 tấn chất khô/ngày. Từ lâu chất phế thải bùn đỏ của nhà máy này không được tận dụng mà đổ đi, người dân lấy bùn về phơi đem nung, nghiền thành bột làm bột màu quét tường, chất độn cao su, làm gạch,v.v... mà chưa có hướng giải quyết bài bản mang lại hiệu quả kinh tế. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành lấy mẫu, thiêu kết trong phòng thí nghiệm. Quy trình sản xuất bột màu từ bùn đỏ là: Từ bùn đỏ được đãi, sấy khô, trộn, thiêu kết, nghiền, hòa tan, lắng, lọc, rửa rồi chuyển qua sấy, nung, nghiền để cho ra sản phẩm cuối cùng là bột màu. Nếu hàm lượng sắt càng cao trong sản phẩm sau thiêu kết thì màu sắc sản phẩm càng đẹp, loại bột màu này thường được dùng trong công nghệ sản xuất gốm, sứ, sơn,v.v... Bùn đỏ có khối lượng thải lớn như ở nhà máy hóa chất Tân Bình là chất thải độc hại, cần phải tốn kinh phí để chuyển ra bãi tiêu hủy, việc xử lý và tận dụng bùn đỏ có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế cũng như môi trường. Các nhà khoa học còn cho biết bùn đỏ có hàm lượng sắt và nhôm cao, do đó có thể chuyển chúng thành dung dịch hỗn hợp các chất trợ lắng dùng cho xử lý nước thải và nước cấp. Quy trình công nghệ đơn giản, chi phí chế biến và đầu tư sản xuất thấp, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng rãi. Quy trình sản xuất bột màu từ chất phế thải bùn đỏ có nhiều triển vọng do công nghệ đơn giản, sản phẩm thu được có chất lượng cao, có thể áp dụng triển khai rộng rãi cho các cơ sở sản xuất hóa chất để tăng hiệu quả kinh tế và bảo vệ tốt môi trường. Nguồn: KHĐS, Số 155/2000 Nghiên cứu tạo ra dầu nhớt dễ phân hủy Các nhà khoa học ở trường Đại học Quốc gia Hà Nội vừa nghiên cứu, sử dụng dầu thực vật để sản xuất chất bôi trơn tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy có ba loại: dầu lạc, dầu sở và thầu dầu có thể đáp ứng các yêu cầu về độ ôxy hóa, độ nhớt tương đương với dầu khoáng. Việc nghiên cứu tạo ra sản phẩm mới này sẽ mang lại giá trị kinh tế cao cho các loại cây lấy dầu nguyên liệu ở nước ta. Các loại dầu nhớt hiện nay rất khó phân hủy sinh học, đe dọa nghiêm trọng ô nhiễm đất và các nguồn nước, nhất là ở đô thị và các khu công nghiệp. Nguồn: Nhân dân, 13/11/2000 Chế phẩm Mazzee xử lý ô nhiễm môi trường Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Tp. Hồ Chí Minh phối hợp Trung tâm ứng dụng Công nghệ Tin học & Điều khiển (CATIC) và Tập đoàn Mazzei (Mỹ) giới thiệu chế phẩm Mazzee. Đây là một chế phẩm vi sinh hữu cơ dùng làm chất xúc tác để xử lý mùi hôi, cải thiện môi trường nước thải bị ô nhiễm trong các ngành công nghiệp dệt, nhuộm, caosu,v.v... và các ngành nông nghiệp. Chế phẩm Mazzee có khả năng hóa giải các chất độc, BOD, Coliform, Solid,v.v...; làm tăng lượng DO giúp tiêu diệt sự phát sinh của vi khuẩn làm ô nhiễm môi trường nước. Ngoài ra, chế phẩm Mazzee không độc hại cho con người và động, thực vật; tự hủy sau 8-10 ngày. Giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường bằng chế phẩm Mazzee đã được thử nghiệm thành công tại Nhà máy đường La Ngà và Nhà máy cao su ở Bà Rịa-Vũng Tàu. Nguồn: Lao động, 21/11/2000 Bếp than không khói Vấn đề sử dụng nguồn năng lượng nào để vừa tiết kiệm vừa không gây ô nhiễm đang được rất nhiều người quan tâm. Nếu không có gì thay đổi trong tháng 12/2000, bếp than tổ ong cao cấp có tên "Vĩnh Cửu" thực hiện theo công nghệ không khói sẽ được bán ra trên thị trường. Theo yêu cầu của nhiều bạn đọc, chúng tôi sẽ cung cấp những thông tin cần thiết nhất về loại bếp này qua cuộc trao đổi với kỹ sư Trần Thanh Uyên, người thiết kế loại bếp này. Người Hà Nội và nhiều địa phương khác hiện vẫn phải dùng loại bếp than tổ ong hoặc bếp than thông thường để đun nấu. Theo thống kê thì ở Hà Nội vẫn có tới 65% số hộ vẫn phải dùng các phương tiện đun nấu thủ công như bếp than, củi, dầu hỏa. Bếp gas, bếp điện vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn trong các gia đình do giá thành cao. Bếp than sắp đưa ra thị trường được gọi là bếp than không khói do khi đun nấu không bị khói như các loại bếp than khác. Các bếp than có khói do các nguyên nhân: Chất lượng than có nhiều bùn, chưa qua công nghệ xử lý. Than đốt từ dưới lên, nên nhiệt đang đốt phần dưới đã tạo nên các thành phần chưa cháy hết phía trên và tạo thành khói gây ô nhiễm. Bếp than không khói có đặc điểm riêng là: những viên than đã được công nghệ xử lý để không độc hại, đốt viên than từ trên xuống chứ không phải từ dưới lên như các bếp than đang dùng hiện nay. Đó là cái quan trọng nhất của bếp than không khói. Cách sử dụng Đặt viên than vào lòng bếp. Thấy mặt trên của viên than có chấm đỏ ở giữa. Châm lửa vào chấm đỏ. Khi lửa cháy thì đặt kiềng (có 10 lỗ) lên trên mặt lò. Có cửa lò để điều chỉnh nhiệt. Khi than cháy không cần phải canh chừng. Sử dụng hoàn toàn như một bếp nấu ăn bình thường. Ưu điểm Thứ nhất là dùng loại bếp than không khói này tiện lợi hơn rất nhiều bếp than tổ ong, cũng như tiện lợi hơn đun bằng củi, than. Bếp được làm bằng i-nox nên độ bền cao. Mỗi viên than có giá khoảng 800 đồng. Mỗi ngày sử dụng hết từ 1-2 viên. Một số người dùng thử cho biết: Ưu việt hơn hẳn các loại bếp khácTrong tháng 12/2000 đã có nhiều đại lý đến đặt hàng. hy vọng sử dụng bếp than không khói sẽ góp phần vào việc tiết kiệm năng lượng và chống ô nhiễm môi trường hiện nay. Nguồn: Lao động, 6/12/2000 Dự án xây dựng bể khí sinh học được triển khai ở Phù Đổng, Hà Nội Nhằm hỗ trợ cho bà con nông dân hai xã Phù Đổng và Trung Mầu thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải chăn nuôi nói chung và bò sữa nói riêng gây ra, bắt đầu từ tháng 8/2000, Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (viết tắt tiếng Anh là RESCARD) cùng với Trung tâm Quốc tế về Năng lượng Mặt trời (CASE) của Chính phủ Australia đã ký kết trợ giúp triển khai dự án xây dựng bể khí sinh học (biogas) tại đây. Gần chục năm qua, nghề chăn nuôi bò sữa ở xã Phù Đổng phát triển rất mạnh và ồ ạt nên đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường rất nặng nề. Mặc dù đường thôn, ngõ, xóm đều được lát gạch rất kiên cố nhưng hàng chục kilômét hệ thống cống, rãnh thoát nước dọc mỗi lối đi trong các thôn đều bốc lên mùi xú uế khó chịu do ứ đọng quá nhiều chất thải từ chăn nuôi. Dự án bể khí sinh học được xem như một giải pháp để khắc phục vấn đề ô nhiễm môi trường và mang lại hiệu quả thiết thực cho bà con nông dân địa phương. Theo Giám đốc điều hành dự án, đây là dự án quy mô nhỏ với mục tiêu là xây dựng khoảng 100 bể khí sinh học. Các bể khí sinh học này là sự triển khai ứng dụng thành quả công nghệ sinh học tiên tiến của một số nước trên thế giới và sự sáng tạo nhiều năm của các nhà khoa học Việt Nam. Ngay từ khi khảo sát, điều tra số liệu đến khi tiến hành xây dựng thí điểm 10 bể khí sinh học đầu tiên, dự án được bà con nông dân, lãnh đạo chính quyền các cấp rất ủng hộ. Theo đánh giá sơ kết triển khai xây dựng 10 bể khí sinh học đầu tiên tại một hội nghị được tổ chức ngày 15/11/2000 vừa qua, tổng chi phí để xây loại bể 5 m3 là 2.893.000 đồng/bể, loại bể 10 m3 là 3.422.000 đồng/bể (bao gồm cả tiền thuê chuyên gia kỹ thuật, tập huấn, vật liệu, nhân công). Trong quá trình triển khai 10 bể thí điểm ban đầu, do điều kiện kinh tế, diện tích khu vực xây dựng bể, số lượng chất thải của từng gia đình nên dung tích các bể được điều chỉnh. Đối với loại bể 5 m3, mỗi gia đình được hỗ trợ 1,2 triệu đồng, loại bể 10 m3, mỗi gia đình được hỗ trợ 1,4 triệu đồng. Qua khảo sát nguyện vọng của gần 300 hộ chăn nuôi bò sữa nơi đây, số gia đình xin đăng ký xây dựng bể khí sinh vật đã lên tới 154 hộ (chưa kể những hộ có điều kiện khó khăn về kinh tế, cần đến sự hỗ trợ ban đầu của dự án). Trong khi đó, mục tiêu mà dự án đặt ra là chỉ đầu tư xây 100 bể khí sinh học, từ đó chuyển giao công nghệ xây bể khí sinh học để bà con nông dân có thể tự xây được. Một điển hình chăn nuôi bò sữa ở xã Phù Đổng, là một trong số 10 hộ được chọn làm thí điểm cho biết: năm 1994, một số hộ dân ở đây cũng đã sử dụng bể khí sinh học nhưng do nguyên liệu vỏ bể làm bằng túi nilon nên sử dụng chưa đầy một năm là hỏng, không có gas. Nay theo thiết kế mới của dự án, vật liệu, nhân công thuận tiện hơn, dễ làm hơn và hiệu quả cũng cao hơn hẳn. 10 hộ gia đình có bể xây thí điểm đều thừa nhận tính ưu việt của bể khí sinh học mới này. Hầu hết các hộ có bể khí sinh học đều phá bỏ công trình phụ cũ và xây mới theo mô hình hố xí tự hoại (WC), ốp gạch men trắng. Chuồng trại, bếp và công trình phụ của các gia đình sau khi có bể khí sinh học trở nên rất sạch sẽ. Điều đáng nói là bể khí và bể điều áp đều được đào và xây ngay dưới chuồng trại nên rất tiết kiệm diện tích, thuận tiện cho việc vệ sinh, tắm rửa cho bò trước khi lấy sữa. Xây bể khí sinh học có cái lợi thấy ngay là không phải mất công, mất diện tích cho việc tích trữ nhiên liệu (rơm, rạ, củi,v.v...) như trước đây, đun nấu giờ đây cũng thuận tiện hơn do không mất thời gian nhen lửa". Ông còn cho biết, nhiều hộ đã nghĩ đến việc lắp thùng nước nóng cho buồng tắm về mùa lạnh bởi lượng gas sử dụng không hết. Trưởng ban dự án cho rằng nếu mỗi hộ nông dân nuôi 5 con lợn và có một công trình WC thì có thể xây được một bể khí sinh học với dung tích khoảng 5 m3, cung cấp đủ nhiên liệu cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của một gia đình từ 4-5 người. Tất nhiên, ý kiến của các chuyên gia đều thống nhất rằng trong khi nhiều hộ dân ở thành thị vẫn còn sử dụng bếp than tổ ong thì việc bà con nông dân có bể khí sinh học "dùng gas không mất tiền mua" này là một mô hình cần được nhân rộng. Tuy nhiên, các chuyên gia và các nhà khoa học còn băn khoăn nhiều về vấn đề chất lượng, làm sao để bể xây phải kín và khí gas phải mạnh. Việc này đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật ngay từ khâu thiết kế, thi công cho đến tỷ lệ chất thải và nước được nạp vào bể. Nếu bể bị hở do cẩu thả trong kỹ thuật xây, lượng nước sẽ nhiều hơn chất thải do không đủ tỷ lệ theo dung tích quy định thì chắc chắn gas sẽ yếu. Theo tiến độ dự án, 90 bể khí sinh học còn lại sẽ được triển khai xây dựng từ nay đến tháng 4 năm 2001. Tuy nhiên, tốc độ có thể đẩy nhanh hơn nếu phần vốn còn lại của phía các hộ gia đình được đáp ứng kịp cùng khoản kinh phí hỗ trợ của dự án. Nguồn: TBKTVN, 29/11/2000
File đính kèm:
- giao_trinh_che_tao_ong_xa_sach_xu_ly_o_nhiem_tren_o_to.pdf