Giáo trình Bơi lội
Giáo dục cho sinh viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tác phong tốt, có tính tổ chức kỷ luật,
có tình cảm yêu ngành yêu nghề, nắm vững những kiến thức về lý luận, kỹ năng thực hành, năng
lực giảng dạy, huấn luyện ban đầu, tổ chức thi đấu và làm trọng tài, phương pháp nghiên cứu
khoa học để đào tạo họ trở thành giáo viên TDTT có thể đảm nhận công tác giảng dạy, huấn
luyện bơi lội ở các trường phổ thông, trung cấp, dạy nghề, CĐ và ĐH cũng như các câu lạc bộ
thuộc ngành GD và ĐT.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Bơi lội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Bơi lội
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT Giáo trình Bơi Lội Biên soạn: PGS. NGUYỄN VĂN TRẠCH TS. NGUYỄN SĨ HÀ GV. PHẠM NGỌC HÂN LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2006 GIÁO TRÌNH BƠI LỘI I. MỤC ĐÍCH MÔN HỌC Giáo dục cho sinh viên có phẩm chất chính trị, đạo đức tác phong tốt, có tính tổ chức kỷ luật, có tình cảm yêu ngành yêu nghề, nắm vững những kiến thức về lý luận, kỹ năng thực hành, năng lực giảng dạy, huấn luyện ban đầu, tổ chức thi đấu và làm trọng tài, phương pháp nghiên cứu khoa học để đào tạo họ trở thành giáo viên TDTT có thể đảm nhận công tác giảng dạy, huấn luyện bơi lội ở các trường phổ thông, trung cấp, dạy nghề, CĐ và ĐH cũng như các câu lạc bộ thuộc ngành GD và ĐT. II. YÊU CẦU CỦA MÔN HỌC Chương trình giảng dạy môn học nhằm bồi dưỡng cho sinh viên đạt được những yêu cầu sau: - Hiểu biết, nắm vững những tri thức lý luận về nguyên lý kỹ thuật, tri thức giảng dạy, huấn luyện ban đầu, tổ chức thi đấu và làm trọng tài để vận dụng trong công tác sau này. - Nắm vững được kỹ năng thực hành kỹ thuật 4 kiểu bơi thể thao, xuất phát, quay vòng, đạt tương tương cấp 2 vận động viên kiểu bơi chính. - Nắm vững phương pháp huấn luyện giảng dạy, tổ chức thi đấu, trọng tài và bơi cứu đuối, có thể đảm nhận độc lập công tác giảng dạy huấn luyện nội và ngoại khóa ở các cấp nhà trường và ngành. - Nắm vững phương pháp NCK II, hoàn thiện 1 chuyên đề khoa học chuyên ngành. III. CẤU TRÚC MÔN HỌC Môn học có cấu trúc các hình thức lên lớp sau: Giờ lý thuyết, thực hành thảo luận và bồi dưỡng phương pháp - bài tập. Môn học có quy thời gian là 480 tiết được chia thành 8 học phần, 32 đơn vị học trình trong 8 học phần của 4 năm học. Yêu cầu 2 năm đầu: hoàn thiện kỹ thuật cơ bản 4 kiểu bơi thể thao, mặt bằng về lý thuyết cơ bản, chuẩn bị thể lực, kỹ năng để thi giai đoạn, sinh viên phải đạt cấp III vận động viên bơi . Yêu cầu 2 năm cuối: Hoàn thiện, nâng cao kỹ thuật 4 kiểu bơi thể thao. Xuất phát quay vòng, bơi cứu đuối. - Hoàn thành phần tri thức lý luận ở 2 năm cuối, kỹ năng thực hành và phương pháp chuyên môn ngành. Đạt trình độ tương đương vận động viên bơi cấp 2 và hoàn thành 1 luận văn KH chuyên ngành. - Kiểm tra học trình: Dùng hình thức kiểm tra sau khi học xong đơn vị học trình và sau khi kết thúc 1 học phần. - Hình thức thi kiểm tra căn cứ vào nội dung kiến thức trình độ học tập quy định có thể thi lý thuyết, thực hành hoặc cả lý thuyết thực hành. Điểm cho 10 bậc, lý thuyết tính theo hệ số 1 và thực hành tính theo hệ số 2. IV. PHÂN PHỐI CHƯƠNG TRÌNH Thời gian Học kỳ Số lượng học phần Số đơn vị học trình Tổng số tiết Lý thuyết Thảo luận Tập luyện Bài tập pp.bt 1 1 4 60 12 2 40 6 2 1 4 60 12 2 40 6 4 1 4 60 12 42 6 4 1 4 60 12 42 6 4 1 4 60 12 42 6 5 1 4 60 16 42 26 6 1 4 60 14 40 6 7 1 4 90 18 2 64 6 8 1 4 30 2 18 0 Tổng 8 32 480 96 8 328 48 (Theo quyết định số 57-1998/QĐ- BGD&ĐT ngày 01 tháng 9 năm 1998 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Chương I MỞ ĐẦU I. KHÁI NIỆM VỀ MÔN BƠI LỘI THỂ THAO Bơi lội là môn thể thao dưới nước, do tác dụng của sự vận động toàn thân, đặc biệt là sự vận động của chân, tay mà người bơi có thể vượt qua được những khoảng đường dưới nước với những tốc độ nhất định. Nhờ những yếu tố cơ bản của nước như lực đẩy từ dưới lên (lực nổi), lực cản, lực nâng nên người bơi có thể vận động trên mặt nước để tiến về phía trước bằng nhiều kiểu, cách bơi khác nhau. nước là môi trường lỏng, do đó vận động trong nước là vận động trong môi trường xa lạ đối với con người. Khi bơi, thân người lại nằm ngang bằng trên mặt nước. vì lẽ đó, bơi lội khác với các môn thể thao trên cạn. Tính chất cơ bản của bơi lội là loại vận động có chu kỳ (trừ xuất phát và quay vòng), còn lại trên cự ly người bơi thực hiện lắp đi lắp lại động tác tạo lực tiến đưa cơ thể về phía trước. Bơi lội hình thành, phát sinh và phát triển do nguồn gốc lao động của con người, do yêu cầu bức thiết của lao động sản xuất, sự khắc nghiệt trong việc chống thiên tai, địch họa, bảo vệ cuộc sống mà con người phải biết bơi. từ đó bơi lội là phương tiện phục vụ hữu ích cho cuộc sống con người. Trải qua quá trình phát triển của xã hội loài người, ở mỗi thời đại va mỗi giai cấp, con người sử dụng bơi lội với những mục đích khác nhau. giai cấp bóc lột dùng thể thao bơi lội để vui chơi, giải trí trong cảnh giàu sang của mình, hoặc mưu đồ lôi cuốn tầng lớp thanh thiếu niên vào các tổ chức bơi lội để tạo những mục đích chính trị. Nội dung của môn bơi lội ở nước ta hiện nay bao gồm: Bơi lặn thể thao Bơi thực dụng Bơi nghệ thuật Trò chơi giải trí trong nước II. LỢI ÍCH TÁC DỤNG CỦA MÔN BƠI LỘI Ý nghĩa và lợi ích tác dụng của môn bơi lội rất lớn; thông qua việc tập luyện bơi lội, con người có thể rèn luyện ý chí, lòng dũng cảm, tính cần cù chiụ khó, tinh thần tập thể, củng cố nâng cao được sức khỏe của mình. Khi tập bơi, nhất là người mới tập bơi phải cố gắng rất lớn để khắc phục những khó khăn ban đầu như cảm giác sợ nước, sợ lạnh, sợ chết đuối còn đối với vận động viên, tập luyện bơi lội là một quá trình lao động đầy gian khổ để vươn tới thành tích cao, vận động viên phải có ý chí, quyết tâm lớn để thực hiện khối lượng vận động lớn. Tập trung cao độ trí lực và sức lực như vậy trong quá trình tập luyện, vận động viên đã thực sự được rèn luyện mình trong quá trình hình thành phẩm chất ý chí. Mức độ hiệu quả giáo dục đạo đức ý chí cho vận động viên phụ thuộc vào huấn kuyện viên và giáo viên bơi lội. Bản thân họ không những là tấm gương cho học viên noi theo mà họ còn là người chủ động vận dụng mọi phương pháp để giáo dục học viên của mình về mọi mặt như: Giáo dục tính kỷ luật, tự giác, tính tương trợ, ý thức tập thể, ý thức kiên trì nhẫn nại, tình yêu lao động, dũng cảm vượt khó khăn Để hoàn thành tốt được nhiệm vụ giáo dục và giáo dưỡng, người huấn luyện viên, thầy giáo bơi lội luôn luôn tu dưỡng chính trị tư tưởng trau dồi tác phong và đạo đức của người cán bộ khoa học kỹ thuật thể dục thể thao xã hội chủ nghĩa. Có như vậy mới đạt được hiệu quả giáo dục. Tập luyện bơi lội còn có lợi cho việc củng cố và nâng cao sức khỏe, phát triển toàn diện con người. Vận động trong môi trường nước có ảnh hưởng tốt tới việc nâng cao chức năng một số bộ phận của cơ thể như hệ tim mạch, hô hấp, tăng quá trình trao đổi chất. Ta biết rằng nước có khả năng hấp thụ nhiệt gấp 4 lần không khí. Nước lại có áp suất lớn vào bề mặt cơ thể, mặt khác khi bơi con người phải chịu một lực cản rất lớn của nước, đặc biệt khi bơi nhanh, phải chịu đựng các tác động “dòng chảy” của nước. do vậy trong tập luyện bơi lội, con người sẽ thích ứng dần, làm cho các chức năng vận động cơ thể được hoàn thiện nâng cao. Khi bơi, các nhóm cơ của toàn thân cùng tham gia hoạt động. Do đó vận động viên bơi lội cơ bắp phát triển cân đối, nở nang, hài hòa. Bơi lội lại là phương tiện để rèn luyện cơ thể làm cho cơ thể thích nghi với sự thay đổi của khí hậu bên ngoài, do đó có thể ngăn ngừa được những bệnh cảm lạnh. Người ta còn dùng bơi lội để chữa một số bệnh về hình thể như gù lưng, cong chữ “C” thuận và ngược của trẻ em. Ngoài ra, các cố tật cứng khớp do bị gẫy xương gây nên, bơi lộ cũng là phương tiện chữa có hiệu quả. Luyện tập bơi lội có tác dụng lớn đến sự phát triển của hệ thống thần kinh trung ương, làm cho hệ thống tiền đình phát triển tốt. Luyện tập bơi lội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của hệ tuần hoàn và hô hấp. Những vận động viên tập luyện bơi lội thường xuyên tim co bóp mạnh hơn người bình thường, cung lượng tim tăng, do vậy tần số đập của tim lúc yên tĩnh chỉ ở mức từ 60 đến 46 lần/phút.trong khi đó người không tập luyện bơi lội tim đập từ 70 – 75 lần trong một phút. Lưu lượng máu trong một phút có thể tăng từ 4,5 lít lúc bình thường lên 35 – 40 lít lúc vận động. Tập luyện bơi lội còn có lợi cho việc phát triển khả năng hoạt động của hệ thống hô hấp, vì khi bơi vận động viên thở theo nhịp điệu của động tác tay, mỗi chu kỳ bơi thực hiện một lần thở ra và hít vào. Khi bơi có thể tiêu hao nhiều năng lượng, vì vậy nhu cầu đòi hỏi về Oxy rất lớn. Do đó người bơi phải thở sâu. Mặt khác áp suất của nước vào vòng ngực, khi thở ra phải mạnh, tích cực. Vì thế các cơ hô hấp của vận động viên rất phát triển, dung tích sống của họ rất lớn (từ 6- 7lít), trong khi đó dung tích sống của người không luyện tập bơi là 3,4 lít (của nam) và 2,4 lít(của nữ). Vận động viên trẻ bơi lội nước ta sau 2 năm tập luyện bơi, dung tích sống đạt tới 4,5 lít (của nam) và 3,8 lít (của nữ). Tập luyện bơi lội còn có tác dụng phát triển thể lực toàn diện như: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, linh hoạt, khéo léo và khả năng phối hợp vận động Bản thân bơi lội là một môn thể thao phát triển toàn thân. Tham gia tập luyện bơi lội không những tạo cho mình thói quen hoạt động trong nước mà còn để phát triển cân đối cơ thể. Thường xuyên tập luyện bơi lội, các tố chất sức mạnh, sức nhanh, sức bền, linh hoạt, khéo léo được phát triển, do đó nâng cao được khả năng vận động, tạo điều kiện tốt để sản xuất, phục vụ quốc phòng. Bơi lội là một môn thể thao có ý nghĩa thực dụng rất lớn trong đời sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta. Do yêu cầu cơ động trên chiến trường, do yêu cầu xây dựng hạ tầng, mạng lưới giao thông vận tải, sự đòi hỏi về nâng cao năng suất, đưa khoa học kỹ thuật vào mặt trận nông, lâm nghiệp v..v mà mỗi người dân nước ta sống trong một đất nước nhiệt đới, nhiều sông ngòi ao hồ và biển bao quanh, đặc biệt thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt, hàng năm mưa bão lũ lụt thường xảy ra đòi hỏi phải biết bơi lội. Bơi lội không những có ý nghĩa thực dụng rất lớn mà còn có ý nghĩa thể thao quan trọng. Môn bơi lội nước ta hiện nay đã được xác định là một trong những môn thể thao trọng điểm thuộc nhóm I. Phong trào bơi lội đang có nhiều triển vọng, những trung tâm bơi lội được hình thành, nhiều câu lạc bộ bơi lặn phát triển, nhiều tỉnh, thành, ngành đã được giao đào tạo vận động viên trẻ theo chương trình mục tiêu, những trung tâm huấn luyện bơi thể thao quốc gia được xác lập, ở những trung tâm này tập trung các chuyên gia huấn luyện giỏi của quốc gia và các chuyên gia nước ngoài được mời giúp cho công tác huấn luyện. Qua các cuộc thi đấu trong nước và quốc tế, nhiều kỷ lục bơi lặn đã được phá. Lực lượng vận động viên trẻ đã ngày một trưởng thành, hy vọng trong một thời gian ngắn, nền bơi lội của Việt Nam chúng ta sẽ tiếp cận được khu vực và châu lục. Chính vì ý nghĩa trên mà bơi lội đã trở thành môn học chính thức trong các trường chuyên nghiệp thể dục thể thao, các trường chuyên nghiệp hàng hải, thủy sản, giao thông vận tải, các trường đại học (thuộc quân đội), và các trường khác III. LỊCH SỬ BƠI LỘI CỦA THẾ GIỚI 1. Khái quát lịch sử phát sinh và phát triển môn bơi lội trên thế giới Lịch sử phát triển môn bơi lội gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Do quá trình lao động sản xuất và đấu tranh sinh tồn, con người dần dần tạo được những thói quen vận động đơn giản như leo, trèo. Chạy. Nhảy. Ném, bơi, lặnBiển, sông, hồ, ao, lạch, suối cũng được quen thuộc dần với cuộc sống của họ. Từ đó mà phát sinh môn bơi lội, cũng từ đó bơi lội gắn liền với cuộc sống của con người và thực sự cần thiết cho sự sinh tồn của họ. Do vậy, bơi lội có lịch sử lâu đời và trở thành môn thể thao thi đấu sớm hơn nhiều môn thể thao khác. Qua các tài liệu đã công bố, ta thấy nhiều nhà khoa học đã dựa vào những cứ liệu lịch sử: Tư liệu khảo cổ học. Tư liệu lịch sử. Địa vật lý Đồng thời với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nhà khoa học đã đưa ra các cứ liệu khảo cổ như: các bình gốm, sứ, các bức tranh tạc trên đá ở các ngôi mộ cổ đã chạm trổ hình người bơi, lặn dưới nước. Những di vật khảo cổ này được tìm thấy ở Hy Lạp, La Mã và Ai Cập. Các nhà khảo cổ cũng đã xác định niên đại các báu vật đó có cách đây khoảng 5000 năm và hiện đang được lưu giữ tại Viện bảo tàng Luân Đôn (Anh) và ở Tua (Pháp). Từ những di vật trên, các nhà nghiên cứu khẳng định: Bơi lội đã hình thành cùng thời, hoặc sớm hơn với sự xuất hiện các bức chạm trổ trên đá, đồ gốm sứ đó- Bơi lội đã ra đời cách đây khoảng 5000 năm. 2. Lịch sử bơi lội qua các chế độ xã hội của loài người 1.1. Chế độ cộng sản nguyên thủy Đặc điểm phát triển môn bơi lội: Bơi lội được phát triển theo khu vực, vùng, miền(địa lý) và điều kiện tự nhiên, ở nơi nào có biển, sông, hồ ao, kênh, lạch, nơi đó phát triển, còn nơi nào không có thì bơi lội chậm phát triển. Kỹ thuật bơi lội được hình thành và phát triển theo cách truyền thụ trực tiếp thông qua hình thức bắt chước. Tính chất, mục đích của bơi lội thời kỳ này nhằm phục vụ cho đi lại, kiếm sống, bảo vệ tính mạng và vui chơi giải trí. Nó không mang tính chất giai cấp. 2.2. Chế độ nô lệ – phong kiến, bơi lội phát triển mạnh ờ Hy Lạp, La Mã Lúc đó bơi lội đã được sử dụng trong chiến đấu để tranh giành quyền lợi giữa các bộ tộc, bộ lạc, giữa các nhà nước phong kiến. Vì vậy từ xưa người Hy Lạp cổ cho rằng người không biết đọc và không biết bơi là “dốt nát” Đặc điể ... ùc thì co chân trên ra phía trước và co chân dưới ra phía sau. khi hoàn thành động tác co chân, bàn chân của chân trên cong hình bàn cuốc, bàn chân của chân sau duỗi thẳng, tay dưới duỗi thẳng phía trước, tay trên duỗi thẳng cạnh thân (hình 208). Bơi nghiêng có tính thực dụng tương đối lớn, thường được sử dụng để mang đồ đạc qua sông hồ và cứu đuối. 3. Bơi ếch ngửa Bơi ếch ngửa là kiểu bơi ếch ở tư thế thân người nằm ngửa, mặt nhô lên khỏi mặt nước, cằm hơi áp sát ngực. Động tác chân gần giống trong bơi ếch, chủ yếu là co đạp cẳng chân. Động tác hai tay cùng lúc quạt nước- từ phía trước đầu, qua cạnh thân đến tận đùi. Sau đó cùng lúc vung tay trên không và lăng ra phía trước đầu. Vào nước và tiếp tục làm chu kỳ động tác sau. Khi quạt nước, hai tay hơi cong, bàn tay và cẳng tay cần đối diện với phương hướng quạt nước. kết thúc quạt nước, cần để thời gian lướt nước hợp lý. Phối hợp độn gtác tay- chân- thở là: Động tác tay- chân tiến hành luân phiên; động tác đạp nước của chân phải tách rời vớ động tác quạt nước của tay (cũng có thể tiến hành đồng thời). Lúc hai tay quạt nước, thân người và đùi duỗi thẳng tự nhiên thành hình thoi lướt nước. tay rút khỏi nước, vung lên không về phía đầu; khi tay vung đến đầu thì co chân; tay vung quá nửa đầu (sắp vào nước) thì bắt đầu đạp chân. Động tác thở (hít vào) lúc hai tay quạt nước kết thúc. Khi hai tay đang quạt nước thì thở ra. Bơi ếch ngửa thường dùng trong vận chuyển đồ đạc hoặc cứu đuối v.v.. (hình 209). III. NỘI DUNG Bơi thực dụng gồm 3 nội dung chính: 1. Bơi vũ trang Bơi vũ trang được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống, đặc biệt trong chiến tranh, những lúc cần mang, vận chuyển vũ khí đạn dược hoặc truy kích địch. Trường hợp này người bơi để cả quần áo và dùng dây buộc ống quần áo vào sát cẳng chân. Nếu có thời gian chuẩn bị, mặc quần áo theo quy định, buộc khí tài, các vật dụng cần thiết một cách hợp lý để khi bơi được thuận tiện. 1.1. Cách mặc quần áo Đặc điểm: Khi bơi sẽ có một dòng nước chảy ngược chiều với hướng tiến của cơ thể, tác dụng mạnh vào quần áo. Vì vậy, nếu mặc và xắn quần áo không hợp lý sẽ ảnh hưởng đến tốc độ và kỹ thuật, thậm chí có thể gây nguy hiểm. Có hai cách mặc và xắn quần áo: - Mặc áo như thường, có thể cho vào trong hoặc ngoài quần. Quần lộn trái, hai chân xỏ từ ống quần lên. Khi ống quần đã kéo lên hết đùi thì cầm cạp quần kéo lên. Mặc xong lộn túi ra ngoài (hình 210) - Mặc áo như thường, quần gấp từng nếp cẩn thận từ gấu quần lên. Khi gấp chặt thì dùng kim băng hoặc dây chun buộc lại. 1.2. Cách mang vũ khí - Cách đeo súng: Bơi vũ trang có thể bơi trườn sấp, bơi ếch và bơi nghiêng. Nếu bơi trườn sấp thì đeo súng dọc phía trước ngực. Súng đeo phải có hai dây, một dây quàng sang bên trái, một dây quàng sang bên phải, báng súng nằm phía trước. nếu bơi ếch thì súng đeo chéo ở trên lưng, nòng súng hướng về phía trước. - Đeo lựu đạn trong bơi vũ trang thường ở bên sườn phải. Ngoài ra, trong bơi vũ trang có thể sử dụng vật nổi hoặc không có vật nổi (hình 211 và 212). 2. Lặn Bơi lặn là kỹ thuật được thực hiện dưới mặt nước, nó có tác dụng rất lớn trong việc cứu người bị đuối, mò vớt các vật dưới nước hoặc nghiên cứu những bí mật về đại dương. Trong quân sự thường dùng lặn để trinh sát địch, hoạt động tình báo, liên lạc v.v Ngoài ra, lặn còn là phương tiện rèn luyện về ý chí, phẩm chất, tinh thần dũng cảm. Lặn được chia ra lặn sâu, lặn xa. Khi lặn có thể sử dụng khí tài hoặc không có khí tài. Thường trong bơi thực dụng, lặn được tiến hành trong điều kiện tăng áp suất của nước đối với cơ thể, nín thở dài và hoạt động cơ bắp mạnh mẽ. Thực nghiệm khoa học chứng minh rằng cứ sâu xuống nước 10m thì áp suất nước tăng lên 1 átmốtphe, đồng thời khi hít vào, nín thở sẽ làm tăng áp suất trong cơ thể, làm cho máu lưu thông ở phổi gặp khó khăn. Vì vậy, máu ở tim giảm đi, do đó lặn trong điều kiện không có khí tài để cung cấp ôxy thì không dừng ở độ sâu quá lâu. Nếu không sẽ dẫn đến hệ thống thần kinh mất thăng bằng, đau đầu, thậm chí mất tri giác, nguy hiểm đến tính mạng. Có nhiều kiểu bơi lặn, nhưng kiểu bơi ếch lặn thường được sử dụng. Kỹ thuật bơi ếch lặn khác với kỹ thuật bơi ếch bình thjường trên mặt nước. khi bơi ếch lặn, yêu cầu tư thế thân người và đầu luôn giữ ngang bằng, nhưng khi hai tay bắt đầu quạt nước thì đầu hơi cúi xuống để giữ cho cơ thể không nổi lên. Động tác quạt nước bắt đầu khi hai tay duỗi thẳng về phía trước tách ra, đồng thời nâng khuỷu, quạt nước xuống phía dưới và sang bên cạnh, tiếp đó tăng tốc độ quạt nước ra sau đến ngang đùi thì kết thúc. Khi đưa tay về phía trước thì gập cổ tay, co khuỷu, lòng bàn tay úp xuống dưới, làm cho bàn tay và cẳng tay men theo phía dưới cơ thể, đi qua phần bụng, ngực, đầu và duỗi thẳng ra phía trước. động tác co chân ít hơn, hai chân tách ra cũng nhỏ hơn. Động tác phối hợp tay, chân là co chân và duỗi tay hầu như bắt đầu cùng một lúc. Sau khi đạp chân và quạt tay kết thúc, thân người thành một đường thẳng để lướt về trước. sau đó mới thực hiện tiếp chu kỳ động tác sau. trước khi thực hiện chu kỳ động tác tiếp theo cần chú ý phải giữ cho cơ thể di động ở độ sâu nhất định (hình 213). Có hai phương pháp vào nước khi lặn: - Một là, hai chân xuống nước trước: Trước khi vào nước, hai tay duỗi thẳng phía trước, co gối, gông, sau đó dùng hai tay ấn đè nước xuống, đồng thời làm động tác đạp chân ếch xuống phía dưới để cho thân người không vọt lên mặt nước. lợi dụng trọng lượng của cơ thể để chìm xuống giống như động tác nhảy cầu vào nước tư thế đứng. Sau khi vào nước, tay làm động tác quạt nước từ dưới lên trên để tăng tốc độ chìm sâu (hình 214). - Hai là, đầu vào nước trước: tư thế chuẩn bị giống động tác trên, chỉ khác là hai tay duỗi thẳng phía dưới quạt nước từ dưới hất ra phía sau và lên trên, đầu cúi xuống, nâng mông, giơ chân, hai tay làm động tác duỗi kiểu bơi ếch, đưa thẳng xuống dưới. Do tác dụng trọng lực của chân, cơ thể sẽ chìm sâu xuống nước. sau khi vào nước, hai chân đạp ếch theo hướng lên trên để tăng nhanh tốc độ chìm xuống (hình 215). 3. Cứu đuối Nước ta có nhiều ao hồ, sông ngòi, để tránh nhũng trường hợp đáng tiếc xảy ra do các sự cố về sông nước, việc cứu đuối cần căn cứ vào điều kiện cụ thể mà quyết định sử dụng phương pháp nào là thích hợp. Thông thường có hai phương pháp chính: - Cứu đuối gián tiếp: là người cứu đuối lợi dụng các dụng cụ cứu đuối sẵn có để cứu người bị đuối nước khi họ vẫn còn đang tỉnh. Ví dụ: quăng phao, ván hoặc sào để kịp thời ứng cứu (hình 216). - Cứu đuối trực tiếp: là khi không có dụng cụ cứu đuối hoặc người bị đuối nước đã ở vào trạng thái hôn mê thì dùng kỹ thuật cứu người bị đuối trực tiếp. Khi cứu người trực tiếp cần chú ý: Người cứu đuối trước khi vào nước cần quan sát vị trí của người bị đuối nước, tình trạng người bị đuối nước (bị chìm, bị hôn mê hay còn tỉnh). Nếu người bị đuối nước trong điều kiện nơi nước tương đối tĩnh, thì người cứu có thể trực tiếp vào nước và bơi thẳng đến chỗ người bị đuối để cứu. Trường hợp người bị đuối ở chỗ nước chảy, thì người cứu chạy trên bờ bơi đón đầu để cứu. Nếu người cứu không biết rõ địa hình khu vực nước có người bị đuối thì tuyệt đối không nên nhảy cắm đầu xuống nước mà nên nhảy xoạc chân trước sau, hai tay dang sang hai bên về phía trước nhảy vào nước hoặc lội nhanh từ bờ ra (hình 217, 218, 219). Khi tiếp cận với người bị đuối nên dùng bơi ếch để tiện quan sát tình trạng người bị đuối: nếu người đó còn đang sung sức, giẫy dụa thì người cứu không nên vội vã tiếp cận trực tiếp mà thận trọng tiếp cận từ phía sau lưng để tránh bị người đuối nước ôm ghì nguy hiểm. Khi đã tiếp cận phía sau lưng thì nâng, đẩy họ lên mặt nước. tiếp đó dùng bơi nghiêng hoặc bơi ếch ngửa để dìu họ vào bờ và tiến hành cấp cứu. Ngoài ra người cứu đuối phải biết cách giải thoát trong những tình huống bất ngờ. 3.1. Phương pháp giải thoát khi bị túm tay Tâm lý người bị đuới nước thường rất hoảng sợ. Họ thường giẫy dụa, hoảng loạn tìm chỗ để bám và thường bám rất chặt. Vì vậy, nếu người cứu đuối bị bám hoặc ôm phải hết sức bình tĩnh, tìm cách giải thoát bằng biện pháp lợi dụng nguyên lý đòn bẩy hoạt động trái khớp Nếu người đuối nước túm hai tay từ phía dưới hoặc phía trên, người cứu đuối phải nắm chặt hai nắm tay để xoay trong hoặc ngoài về phía ngón cái của người bị đuối nước để giải thoát (hình 220). Nếu người bị đuối nước dùng hai tay túm chặt một tay của người đến cứu thì người cứu nắm chặt nắm đấm của tay bị túm, tay kia cài vào giữa hai tay của người bị đuối, nắm lấy nắm đấm của tay bị túm kéo xuống để giải thoát. 3.2. Phương pháp giải thoát khi bị ôm ghì phía sau gáy Trước hết cầm chặt cổ tay người bị đuối nước, tay kia đưa xuống dưới đẩy khuỷu từ dưới lên, làm cho người bị đuối nước phải quay người. Sau đó cúi đầu luồn qua nách và quay người lại để kéo cổ tay của họ ra sau và dìu vào bờ (hình 221). 3.3. Phương pháp giải thoát khi bị ôm cổ từ phía trước Dùng tay trái (hoặc phải) đẩy khuỷu tay bên phải (hoặc trái). tay phải (hoặc trái) nắm chặt lấy cổ tay của người bị đuối nước kéo xuống dưới, rồi đột ngột chui qua vòng tay của người bị đuối, dùng tay cầm cổ tay của người bị đuối nước xoay về phía dưới, ra sau để tiến hành dìu họ vào bờ (hình 222). 3.3. Phương pháp giải thoát khi bị ôm ngang lưng ở phía trước Một tay giữ chặt lấy phía sau đầu người bị đuối, một tay đỡ chặt lấy cằm, xoay đầu họ ra ngoài, làm cho lưng của người bị đuối xoay vào mình và theo đó dìu vào bờ (hình 223-1) 3.4. Phương pháp giải thoát khi bị ôm ngang từ phía sau Dùng hai tay túm lấy một ngón tay ở cả hai bàn tay của người bị đuối nước, sau đó kéo dãn sang hai bên. Tiếp đó buông một tay của người bị đuối nước ra rồi quay người ra sau lưng người bị đuối nước và dìu họ vào bờ (hình 223-2). 3.6. Phương pháp giải thoát khi bị ôm chặt cả thân và hai tay từ phía sau lưng Hai chân dùng sức đạp mạnh xuống dưới, làm cho vị trí cả hai người đều nổi cao. Lúc nhô đầu lên khỏi mặt nước, hít vào một hơi thật sâu, đồng thời hai tay dùng sức khuỳnh ra ngoài, đột ngột chìm xuống và thoát ra giữa hai tay của người bị đuối nước. Tiếp đó, quay lưng người bị đuối nước về phía mặt mình để dìu họ vào bờ (hình 223-3). Ngoài ra có rất nhiều tình huống có thể xẩy ra như người bị đuối nước giữ chặt cả hai tay người cứu, ôm chặt cổ, giữ chặt chân mà người bị đuối lại khỏe hơn thì phải kêu cứu hoặc dùng những thế võ có thể để tự giải thoát và tìm phương pháp cứu người bị đuối. 3.7. Cách dìu người bị đuối nước Đây là phương pháp sử dụng bơi để kéo người bị đuối vào bờ, thường dùng bơi nghiêng hoặc bơi ếch ngửa (hình 224). Sau khi dìu đưa người đuối nước vào bờ thì nhanh chóng mang hoặc vác người đó vào nơi cấp cứu cần thiết. Nếu có nhiều người cứu thì hai người cứu luồn qua tay người bị đuối và giữ chặt lấy tay họ, một người cứu khác đứng vào giữa hai chân và giữ chặt đùi người bị đuối và khênh đi. Hoặc nếu là một người vác để người đuối nước nằm sấp qua vai, một tay luôn giữ hai đùi, một tay giữ người bị đuối nước và vác đi. 3.8. Hô hấp nhân tạo Trước hết đưa người bị đuối vào chỗ không có gió lạnh, ít người, thoáng khí, sau đó cởi hết quần áo, lau khô người, dùng ngón tay cuốn băng hoặc khăn bông móc sạch bùn đất, đờm ở trong miệng và mũi. Nếu miệng ngậm chặt quá phải cậy miệng, dùng hai ngón tay cái đẩy từ sau ra trước cùng lúc đó hai ngón trỏ và ngón giữa đẩy cằm dưới để mở rộng hai hàm răng của người bị đuối. Sau khi xử lý những việc trên, tiến hành xốc nước. người cứu đuối một chân chống, một chân quỳ để người đuối nước nằm áp bụng lên đầu gối người cứu, đầu hơi chúc xuống, người cứu dùng tay vỗ hoặc ấn mạnh vào lưng cho nước chảy ra. Sau đó đặt người bị đuối lên chiếu hoặc chăn khô để tiến hành hô hấp nhân tạo (hình 225-226). - Để người bị đuối nằm sấp hai tay duỗi trước đầu, mặt quay sang một bên, người cứu quỳ hai bên hông người bị đuối, hai bàn tay để vào hông, hai ngón tay cái đặt hai bên cột sống và hai ngón tay út đặt vào xương sườn cuối cùng của người bị đuối. Người cứu sẽ theo nhịp thở của mình, làm hô hấp nhân tạo cho người bị đuối. Khi thở ra dùng sức ấn mạnh và từ từ hai tay xuống hông người bị đuối. Khi hít vào lại từ từ nới tay ra cho đến khi người bị đuối thở được. - Đặt người bị đuối nằm ngửa, dưới lưng (vùng ngang hông) lót một chiếc chăn để nâng cao bụng, chân người bị đuối hơi cong, tay duỗi thẳng trước đầu, dùng chăn cuốn nửa người cho ấm. Kéo lưỡi làm cho đầu lưỡi thò ra ngoài miệng hoặc dùng một miếng gỗ đặt giữa hai hàm răng cho miệng há rộng. Người cứu quỳ bên cạnh người đuối nước, hai tay cầm tay người đuối đưa từ từ xuống khép vào ngực, rồi dùng sức ấn xuống theo nhịp thở, sau đó từ từ đưa về tư thế ban đầu (hình 227-228-229). Có rất nhiều phương pháp hô hấp nhân tạo, song phương pháp hà hơi thổi ngạt tương đối có hiệu quả hơn. Phương pháp này người cứu hít vào sâu rồi áp môi vào miệng của người bị đuối nước thổi mạnh để đẩy không khí vào phổi người bị đuối nước. Nếu những trường hợp trên không có hiệu quả, cần nhanh chóng đưa nạn nhân vào viện để kịp thời cứu chữa.
File đính kèm:
- giao_trinh_boi_loi.pdf