Giáo dục Đại học với cách mạng công nghiệp 4.0

Cách mạng công nghiệp 4.0 với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ

của hệ thống kết nối số hóa, vật lý, sinh học với trung tâm điều khiển và khâu đột phá là sự phát triển

của trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật, rô - bốt, công nghệ na-nô, công nghệ sinh học, đem lại

cho các quốc gia nhiều cơ hội để phát triển về mọi mặt, tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều thách thức, trước

hết, cho ngành giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Trên cơ sở phân tích sự tác động của Cách mạng

Công nghiệp 4.0, bài viết đưa ra một số khuyến nghị với giáo dục đại học trong thời đại cuộc Cách

mạng Công nghiệp 4.0.

pdf 6 trang kimcuc 6080
Bạn đang xem tài liệu "Giáo dục Đại học với cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo dục Đại học với cách mạng công nghiệp 4.0

Giáo dục Đại học với cách mạng công nghiệp 4.0
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 33-08/2019 
93 
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 
VỚI CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 
UNIVERSITY EDUCATION 
WITH THE FOURTH INDUSTRIAL REVOLUTION 
Vũ Ngọc Lanh 
Khoa Lý luận chính trị 
Tóm tắt: Cách mạng công nghiệp 4.0 với xu hướng phát triển dựa trên nền tảng tích hợp cao độ 
của hệ thống kết nối số hóa, vật lý, sinh học với trung tâm điều khiển và khâu đột phá là sự phát triển 
của trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật, rô - bốt, công nghệ na-nô, công nghệ sinh học, đem lại 
cho các quốc gia nhiều cơ hội để phát triển về mọi mặt, tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều thách thức, trước 
hết, cho ngành giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Trên cơ sở phân tích sự tác động của Cách mạng 
Công nghiệp 4.0, bài viết đưa ra một số khuyến nghị với giáo dục đại học trong thời đại cuộc Cách 
mạng Công nghiệp 4.0. 
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục, giáo dục đại học, giáo dục đào tạo 
Chỉ số phân loại: 3.3 
Abstract: Industrial Revolution 4.0 with the development trend based on high level integration of 
digital, physical, biological connection with control center and breakthrough is the development of 
artificial intelligence, the internet connects things, robots, nanotechnology, biotechnology, ... giving 
countries many opportunities to develop in all aspects, but it also poses many challenges, first of all, for 
education, especially higher education. Based on an analysis of the impact of the 4th Industrial 
Revolution, the article presents some recommendations for higher education during the era of the 
Industrial Revolution 4.0. 
Keywords: Industry 4.0, education, higher education, education and training. 
Classification number: 3.3 
1. Giới thiệu 
Cách mạng Công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) 
lặng lẽ thâm nhập vào đời sống xã hội đến 
mức tưởng như đó là điều tự nhiên. Các 
chuyên gia cho rằng, trong tương lai không xa, 
con người, máy móc và các sản phẩm công 
nghệ có thể giao tiếp được với nhau trên mạng 
xã hội. Những công nghệ này có tiềm năng kết 
nối hàng tỷ người trên thế giới, gia tăng đáng 
kể hiệu quả hoạt động cho các tổ chức, doanh 
nghiệp, tái tạo các nguồn tài nguyên thiên 
nhiên hay thậm chí là khôi phục lại những tổn 
thất mà các cuộc cách mạng công nghiệp trước 
gây ra. Thực tế Việt Nam đang đứng trước 
nguy cơ có thể tụt lại phía sau nếu không đáp 
ứng được nguồn lực để hòa mình vào guồng 
quay công nghệ. [8] 
Trong xã hội hiện nay, hầu như mọi hoạt 
động từ giao thông, sản xuất, y tế, an ninh 
đều dần sử dụng công nghệ thay thế sức người. 
Nhưng, để đạt hiệu quả tối đa thì con người 
mới là yếu tố cốt lõi mang đến thành công. Vì 
vậy, giáo dục đào tạo có vai trò rất quan trọng 
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu 
cầu của cuộc CMCN 4.0. 
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ 
thống mở, nó vạch ra chân trời bao la cho các khoa 
học phát triển, với tính chất mở của phép biện 
chứng, tính vô hạn của không gian vật chất, tính vô 
cùng tận của nhận thức con người, CMCN 4.0 có 
phát triển đến đâu, với những thành tựu mới như 
thế nào, cũng không thể vượt quá tầm định hướng 
trong Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. 
Cuộc CMCN 4.0 với những thành tựu kỳ 
diệu không chỉ trong khám phá, mà còn cải tạo 
thế giới của con người. Vai trò của trí tuệ, tri 
thức khoa học không ngừng nâng cao. Cuộc 
cạnh tranh trong phát triển giữa các quốc gia 
chủ yếu ở trình độ tư duy, trình độ dân trí của 
dân tộc cao hay thấp. Khoa học đang từng 
bước “trở thành” lực lượng sản xuất trực tiếp, 
có sức mạnh như sức mạnh vật chất. 
Cuộc CMCN 4.0 đã chứng minh và hiện 
thực hóa tri thức, khoa học, trí tuệ có sức mạnh 
vật chất trong cải tạo thế giới. Chính quá trình 
hiện thực hóa ấy đã đưa năng suất lao động lên 
cao chưa từng thấy và càng làm sâu sắc hơn, 
 94 
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 33, Aug 2019 
đúng đắn hơn dự báo của Các Mác. Tư duy 
của Các Mác thể hiện rõ vượt tầm thời đại. 
Trong bài viết này, chúng tôi nêu ra một 
số khuyến nghị với giáo dục đào tạo đại học 
nhằm đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách 
mạng công nghiệp 4.0. 
2. Nội dung 
2.1. Các khái niệm 
"Công nghiệp 4.0" được sử dụng lần đầu 
năm 2011 tại Hannover - Hội chợ hàng đầu thế 
giới về công nghệ và công nghiệp - được tổ 
chức thường niên tại Đức. Năm 2012, thuật 
ngữ "Công nghiệp 4.0" được đề cập trong một 
tài liệu đệ trình cho Chính phủ Liên bang Đức, 
tổng hợp các khuyến nghị để triển khai sáng 
kiến chiến lược "Công nghiệp 4.0" nhằm đảm 
bảo cho tương lai ngành công nghiệp chế tạo 
của Đức, do nhóm công tác công nghiệp 4.0 
thực hiện với sự tài trợ của Bộ Giáo dục và 
Khoa học Liên bang [1]. Có thể hiểu: “Công 
nghiệp 4.0 là xu hướng hiện thời trong việc tự 
động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ 
sản xuất, bao gồm các hệ thống không gian 
mạng thực - ảo (cyber - physical system), 
Internet kết nối vạn vật, điện toán đám mây và 
điện toán nhận thức”. 
Khái niệm "Cách mạng Công nghiệp lần 
thứ tư" (hay Cách mạng công nghiệp 4.0 - 
CMCN 4.0) được đề cập lần đầu tiên và cũng 
là chủ đề của Diễn đàn Kinh tế Thế giới lần 
thứ 46 tổ chức ngày 20/01/2016 tại thành phố 
Davos, Thụy Sĩ. Theo ông Klaus Schwab, 
người sáng lập và chủ tịch điều hành Diễn đàn 
Kinh tế Thế giới mang đến cái nhìn đơn giản 
hơn về vấn đề này, như sau: "Cách mạng công 
nghiệp đầu tiên sử dụng năng lượng nước và 
hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách 
mạng lần 2 diễn ra nhờ ứng dụng điện năng 
để sản xuất hàng loạt. Cuộc cách mạng lần 3 
sử dụng điện tử và CNTT để tự động hóa sản 
xuất. Bây giờ, cuộc cách mạng công nghiệp 
thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, 
nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ 
ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học" 
[12]. 
Nhìn lại các cuộc cách mạng công nghiệp 
trước đây, có thể nhận thấy CMCN, thường là 
sự hội tụ của các công nghệ mới, khi đạt đến 
ngưỡng phát triển, sẽ tạo sức bật, nền tảng sản 
xuất mới. Tác động của cuộc CMCN 4.0 đã 
bắt đầu được "cảm nhận", đặc biệt là tại các 
nước phát triển vào những năm cuối thế kỷ 
XX và đầu thế kỷ XXI. Khác với các cuộc 
CMCN trước đây, CMCN 4.0 không gắn với 
sự ra đời của một công nghệ nào cụ thể mà là 
kết quả hội tụ của nhiều công nghệ khác nhau, 
chủ yếu như Internet kết nối vạn vật (Internet 
of Things, IoT), robot cao cấp, công nghệ in 
ấn 3D, điện toán đám mây, công nghệ di động 
không dây, trí tuệ thông minh nhân tạo, công 
nghệ nanô, khoa học về vật liệu tiên tiến, lưu 
trữ năng lượng và tin học lượng tử, v.v [3]. 
Minh chứng sinh động cho sự hội tụ của các 
công nghệ này và những tiến bộ mang tính 
cách mạng mà chúng mang lại được thể hiện 
qua dự án đầy tham vọng có tên gọi 
NEURALINK. Dự án do tỷ phú người Mỹ 
Elon Musk tài trợ, nhằm kết nối não người với 
máy tính để tạo ra một siêu trí tuệ vượt trội so 
với trí tuệ con người. Nhà tương lai học, doanh 
nhân và tác giả người Mỹ Raymond Kurzweil 
dự báo đến năm 2030, các rô-bốt có kích 
thước nano có thể được cấy ghép vào bộ não 
người, sẽ làm cho con người có năng lực của 
Chúa. Nếu dự báo của Raymond Kurzweil là 
đúng, nếu dự án tham vọng NEURALINK của 
Elon Musk thành công thì: Viễn cảnh loài 
người "bị thống trị" bởi rô - bốt có nguy cơ trở 
thành hiện thực, đó là khi sự tiến bộ của công 
nghệ không được sử dụng đúng cách. [1] 
2.2. Giáo dục đại học Việt Nam trong 
thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 
Xu hướng số hóa đang dẫn đến thay đổi 
cơ bản trong giáo dục và đào tạo. Trong thế 
giới kỹ thuật số việc đào tạo nguồn nhân lực 
có khả năng chủ động tạo ra mạng lưới IoT 
cần có trình độ chuyên sâu và sáng tạo. Mặc 
dù đây là một thách thức, nhưng thế hệ trẻ hiện 
nay với nhiệt tình và sự đam mê học tập các 
công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ kỹ thuật 
số, điều khiển tự động và kết nối mạng 
Internet sẽ nhanh chóng tiếp thu và phát triển 
các công nghệ này. Theo xu hướng hiện nay, 
những người học về công nghệ kỹ thuật số có 
cơ hội việc làm sau khi ra trường tương đối 
cao, so với các ngành khác. Cuộc CMCN 4.0 
bản thân nó đã tạo ra áp lực cho các hệ thống 
đào tạo, thay vì, trong thời gian vừa qua, các 
ngành nghề như: Ngân hàng, quản trị kinh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 33-08/2019 
95 
doanh, kinh tế chiếm ưu thế, thì xu hướng hiện 
tại và trong tương lai gần lại tập trung vào 
khoa học công nghệ, với các lĩnh vực đào tạo 
nghề liên quan đến chuyên môn sâu như Kỹ 
thuật Cơ khí, Kỹ thuật Điện và Công nghệ 
thông tin. Những chương trình đào tạo, khóa 
tập huấn trong các lĩnh vực này đã cung cấp 
nhiều lựa chọn khác nhau cho người học, 
nhằm tìm kiếm cơ hội học tập và phát triển 
nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp. Sự hội tụ của 
nhiều công nghệ khác nhau sẽ mang tính liên 
ngành sâu rộng, có sức mạnh tiếp cận và xử lý 
số lượng lớn các yêu cầu từ khách hàng tại 
cùng một thời điểm, dung lượng lưu trữ dữ 
liệu không giới hạn. Những bước tiến ấn 
tượng trong lĩnh vực tương tác giữa máy móc 
và thế giới sinh học, trí tuệ nhân tạo là nền 
tảng xuất hiện các mô hình kinh doanh mới. 
Vì thế, phát triển nguồn nhân lực khoa học 
công nghệ chất lượng cao, đáp ứng được đòi 
hỏi của cuộc CMCN 4.0 là bước đầu tiên ở tất 
cả các quốc gia trên thế giới. Vấn đề đặt ra là, 
liệu chương trình đào tạo và phương thức đào 
tạo hiện nay ở các trường đại học đã đáp ứng 
được xu hướng này chưa? Trong xu hướng xã 
hội hóa và hiện đại hóa các mặt hiện nay thì 
giáo dục và đào tạo ở tất cả các nước, đặc biệt 
là đào tạo bậc đại học không thể tách biệt, độc 
lập mà bắt buộc phải có tương tác với các 
thành phần kinh tế xã hội. Giáo dục đại học là 
một trong những lĩnh vực chịu sự tác động của 
CMCN 4.0 nhanh hơn cả, bởi chính giáo dục 
đại học cũng sẽ tạo ra những phiên bản mới 
của các cuộc CMCN tiếp theo. Cuộc cách 
mạng công nghiệp 4.0 hứa hẹn những bước 
đột phá mới trong hoạt động đào tạo, thay đổi 
mục tiêu đào tạo, mô hình đào tạo truyền 
thống bằng cách chuyển tải và đào tạo kiến 
thức hoàn toàn mới. Sự phát triển công nghệ 
thông tin, công cụ kỹ thuật số, hệ thống mạng 
kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những công cụ, 
phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức, 
quản lý và phương pháp giảng dạy [1]. 
Đối với giáo dục đại học, nơi trực tiếp đào 
tạo nguồn nhân lực phục vụ nền kinh tế - xã 
hội, các trường đã nhận thức được vai trò then 
chốt của khoa học công nghệ trong quá trình 
quản trị, quản lý cũng như kiến thức và kỹ 
năng về khoa học công nghệ của lao động sẽ 
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của thời 
kỳ hội nhập và toàn cầu hóa. Chính vì vậy, đa 
số các trường đại học ở Việt Nam đã và đang 
bứt tốc phát triển theo chiều rộng, chiều sâu 
trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực khoa 
học công nghệ nói chung, ngành công nghệ 
thông tin (CNTT) nói riêng. 
2.2.1. Những thách thức cần giải quyết 
của Việt Nam trong giáo dục đào tạo trước 
tác động của CMCN 4.0 
- Tư tưởng lạc hậu trong việc hoạch định chiến 
lược và chính sách giáo dục. 
Đặc thù của cuộc CMCN 4.0 là xuất hiện 
trí tuệ nhân tạo, công nghệ tự động hóa, vật 
liệu mới và CNTT trong phân tích dữ liệu (big 
data). Với đặc thù đó, cơ cấu ngành nghề sẽ 
thay đổi rất nhanh. Hầu hết các thiết bị trong 
thời đại CMCN 4.0 đều là thiết bị đa ngành, 
đơn cử như chiếc điện thoại thông minh đã kết 
hợp rất nhiều chức năng chứ không chỉ là công 
cụ để nghe, nói. Để làm ra sản phẩm này, cần 
có sự tích hợp của nhiều khoa học, nhiều 
ngành nghề. Trong khi đó, Bộ Giáo dục và 
Đào tạo (Bộ GD & ĐT) hiện nay vẫn đang áp 
dụng việc đưa ra danh mục ngành nghề và yêu 
cầu các trường đại học chọn đúng những 
ngành đó. Trong thời gian tới, theo PGS.TS 
Đỗ Văn Dũng, hiệu trưởng Trường đại học Sư 
phạm kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 
(TP.HCM), danh mục ngành nghề này sẽ lạc 
hậu nhanh chóng, vì ngành nghề không còn là 
đơn ngành nữa [4]. Bên cạnh đó, tư tưởng bảo 
thủ, coi việc phát triển theo CMCN 4.0 là một 
quá trình lâu dài đã khiến cho việc đổi mới đào 
tạo đại học nói chung, diễn ra chậm chạp một 
cách đáng lo ngại. Cụ thể về ngành CNTT, 
ngoại trừ một số trường đại học lớn, đã áp 
dụng những chương trình mới tiên tiến như: 
Đại học quốc gia (ĐHQG) TP.HCM (UIT), 
Đại học Bách khoa Hà nội, Đại học Công nghệ 
- ĐHQG Hà Nội (VNU-UET), Học viện Bưu 
chính viễn thông, Học viện kỹ thuật quân sự, 
Đại học FPT, thì các trường đại học khác vẫn 
đào tạo theo các chương trình cũ thuộc thế hệ 
3.0 thậm chí còn cũ hơn, nhất là ở các môn cơ 
bản tạo nền tảng cho sự phát triển CNTT (ví 
dụ như Toán). Rất may mắn là Chính phủ đã 
nhận ra vấn đề này nên đã có các biện pháp 
quyết liệt hỗ trợ thay đổi. Cụ thể, theo Thủ 
tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu trong 
 96 
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 33, Aug 2019 
Diễn đàn cấp cao CNTT – Truyền thông 2016, 
Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, các Nghị 
quyết 26, 36a của Chính phủ đã xác định mục 
tiêu đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về 
CNTT. Để làm được điều đó, thì phát triển 
nguồn nhân lực số, biến lợi thế "dân số vàng" 
thành lợi thế về năng lực số trong hội nhập và 
phân công lao động quốc tế. Chú trọng đào tạo 
nguồn nhân lực công nghệ, tăng nhanh về số 
lượng và chất lượng đạt chuẩn quốc tế bắt kịp 
các xu hướng công nghệ. Việt Nam phải trở 
thành một trung tâm cung cấp nguồn nhân lực 
chất lượng cao cho nền kinh tế số thế giới [7]. 
Bên cạnh đó, Bộ GD & ĐT cũng đã ban hành 
đề án áp dụng cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực 
CNTT trình độ đại học trong giai đoạn 2017 - 
2020 nhằm thúc đẩy các trường đại học đổi 
mới chương trình đào tạo CNTT [2]. 
- Sự tụt hậu của giáo dục - đào tạo Việt Nam 
ngày càng xa hơn, so với phần còn lại của thế giới. 
Theo nhiều chuyên gia, dường như, 
chúng ta đã bỏ lỡ tất cả các cuộc cách mạng 
công nghiệp trước và hiện tại có thể nói: Về 
công nghệ chúng ta chưa đến mức 3.0. Trong 
lịch sử, Việt Nam thường không kịp "chuẩn 
bị" cho giai đoạn nổi lên của các cuộc cách 
mạng công nghiệp, do đó chỉ "hứng" thành 
quả của cách mạng công nghiệp với vai trò là 
"người tiêu dùng vĩ đại" thay vì trở thành một 
"nhà cung ứng" chứ chưa nói đến "người mở 
đường". Ông Doãn Mậu Diệp, Thứ trưởng Bộ 
Lao động- Thương binh và Xã hội, cho rằng: 
“Việt Nam đang thiếu hụt lao động có trình độ 
cao, công nhân lành nghề, cũng như nhân lực 
trình độ cao trong các ngành, các lĩnh vực có 
tác động mạnh tới tốc độ tăng trưởng cao và 
bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc 
tế. Vì vậy, chúng ta phải đào tạo nhân lực 
trang bị những kiến thức, kỹ năng mới thích 
ứng được những biến đổi trong kỷ nguyên số”. 
Với sự phát triển của cuộc cách mạng 
công nghệ, nền giáo dục truyền thống sẽ bị 
thay đổi hoàn toàn trong mười năm tới. 
“Thung lũng Silicon đang phát triển loại rô – 
bốt thông minh có thể nhận biết được biểu cảm 
của học sinh và có khả năng giao tiếp”, thầy 
Anthony Seldon, Phó Hiệu trưởng trường Đại 
học Buckingham (Anh) còn cho biết: Trong 
tương lai, nền giáo dục tự động hóa sẽ đóng 
vai trò chủ chốt, rô – bốt sẽ thay thế giáo viên 
truyền đạt kiến thức, giáo viên sẽ chỉ làm trợ 
giảng, hỗ trợ chuẩn bị dụng cụ cho buổi học 
hay giữ trật tự lớp mà thôi [10].Trước đây 
công tác đào tạo ở Việt Nam thường theo quy 
trình: Thiết lập chương trình đào tạo, cung cấp 
chương trình đào tạo và học sinh tốt nghiệp, đi 
làm, trong đó đào tạo đại học chỉ dừng lại ở 
khâu tốt nghiệp. Nhưng, trong bối cảnh mới, 
các đại học sẽ phải thay đổi mục tiêu đào tạo, 
nghiên cứu quá trình sinh viên tìm việc làm 
sau khi tốt nghiệp, cũng như những đóng góp 
của họ làm tăng hiệu quả sản xuất cho công ty, 
từ đó xem xét thiết kế lại chương trình đào tạo. 
Ví dụ, cách làm của APEC là thuê một công 
ty làm dữ liệu tìm 350.000 thông tin niêm yết 
về việc làm ở Mỹ, sau đó tính toán trung bình 
một nghề cụ thể kiếm được bao nhiêu tiền, cần 
quan tâm tới bao nhiêu kỹ năng cần thiết, để 
từ đó đưa ra một bộ kỹ năng về khoa học dữ 
liệu cho người học phù hợp nhất với thị 
trường. Việt Nam cũng có thể thống kê nhân 
lực như vậy [9]. Làm thế nào để thay đổi được 
những vấn đề này? Đó cũng là vấn đề đặt ra 
cho giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo 
khoa học công nghệ nói riêng. 
- Từ khái niệm của người đứng đầu Diễn đàn 
Kinh tế Thế giới Klaus Schwab, Cách mạng Công 
nghiệp 4.0 sẽ diễn ra trên ba lĩnh vực chính gồm: 
Công nghệ sinh học, Kỹ thuật số và Vật lý. 
Riêng trong lĩnh vực Kỹ thuật số, nó bao 
gồm những thành tố: Cảm biến, Internet, 
Clould computing (điện toán đám mây) và Big 
Data Analytics (phân tích dữ liệu lớn). Những 
yếu tố này ở Việt Nam đã hội tụ gần như đầy 
đủ [5]. Với việc được trang bị công nghệ trên, 
sinh viên Việt Nam sẽ sớm hòa nhập vào đội 
ngũ nhân lực công nghệ cao trên toàn cầu đang 
được các tập đoàn đa quốc gia săn đón. Sự 
xuất hiện của các công nghệ được tích hợp 
trong CMCN 4.0, đã làm thay đổi nền tảng sản 
xuất và dịch vụ, nó đặt ra những yêu cầu mới 
về năng lực nhân sự. Từ đó đòi hỏi các trường 
đại học phải thay đổi chương trình đào tạo để 
đáp ứng được yêu cầu của CMCN 4.0. Hiện 
nay chương trình đào tạo xây dựng vẫn chưa 
được linh hoạt, nội dung chưa phù hợp với nhu 
cầu và xu thế thị trường lao động CMCN 4.0. 
Điều này dẫn đến hệ quả là khoảng cách giữa 
đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng với 
thực tế nhu cầu sử dụng nhân lực tại doanh 
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 33-08/2019 
97 
nghiệp là quá xa. Đa số sinh viên sau khi tốt 
nghiệp chưa giỏi kiến thức, kỹ năng và ngoại 
ngữ. Số sinh viên ra trường làm việc được 
ngay chỉ chiếm khoảng 30%, còn lại phải đào 
tạo lại (bổ sung). Chẳng hạn, theo thống kê 
của Viện Chiến lược CNTT và Truyền thông, 
hiện nay 72% sinh viên ngành CNTT không 
có kinh nghiệm thực hành, 42% thiếu kỹ năng 
làm việc nhóm [6]. Để thay đổi điều này, 
chúng ta cần tham khảo ý kiến của GS 
Gottfried Vossen (Đại học Münster, Đức) 
[11], về mô hình đào tạo đại học 4.0, bao gồm: 
- Dạy học 4.0: Với tình hình thay đổi công 
nghệ không ngừng trong CMCN 4.0 đòi hỏi 
các trường đại học phải xây dựng chương trình 
dạy học linh hoạt, có nhiều sự lựa chọn cho 
người học dễ dàng chuyển đổi giữa các ngành 
học phù hợp với nhu cầu học tập suốt đời của 
xã hội theo chủ trương của Chính phủ; có 
nhiều hình thức học tập mới, thời gian và địa 
điểm học tập không bị ràng buộc, có sự thay 
đổi phù hợp với đối tượng học, cung cấp nhiều 
kỹ năng phù hợp hơn. Các hình thức đào tạo 
online, đào tạo ảo, mô phỏng, số hóa bài 
giảng... sẽ là xu hướng đào tạo nghề nghiệp 
trong tương lai. Việc tuyển sinh cũng cần linh 
động chứ không phải chỉ 1 - 2 lần/năm như 
hiện nay, dễ tạo sức ép và tiêu tốn tiền của xã 
hội. Ngoài ra, xu hướng liên kết ngành CNTT 
với các ngành khác như CNTT- Sinh học, 
CNTT - Vật lý, Hệ thống thông tin kinh kế, 
Thương mại điện tử đã và đang diễn ra phổ 
biến vì CMCN 4.0 là sự kết hợp của các công 
nghệ trên nền tảng kỹ thuật số và Internet. 
Sinh viên CNTT ngoài việc trang bị các kiến 
thức cốt lõi của công nghệ kỹ thuật số như Big 
data, IoT, Cyber security, Cloud computing, 
Ethical hacking, Lập trình Di động và Lập 
trình Nhúng theo các chuẩn công nghệ quốc tế 
thì cần được đào tạo các kỹ năng "mềm" như 
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc đội nhóm, 
kỹ năng sáng tạo, kỹ năng xử lý vấn đề... 
những kỹ năng sẽ khó thay thế bởi rô – bốt. 
Bên cạnh những kiến thức công nghệ kỹ 
thuật số của CMCN 4.0 thì những kiến thức 
nền tảng của CNTT cần được đổi mới cho phù 
hợp với tình hình thực tế cũng như phù hợp 
với từng ngành học. Không thể lấy một 
chương trình Toán cao cấp cách đây cả mười 
năm mà trang bị cho tất cả các ngành học như 
hiện nay. 
- Nghiên cứu 4.0: Bao gồm hình thức 
nghiên cứu mới, hệ thống dữ liệu quy mô lớn 
hơn và đa đạng nguồn hơn. Khuyến khích cả 
giảng viên và người học cùng tham gia phát 
triển nguồn tài nguyên số, tạo điều kiện cho 
mọi người tham gia vào việc phát triển tri 
thức, đặc biệt là các tri thức liên ngành, phi 
truyền thống với những trợ giúp của những 
phương thức và công cụ thông tin truyền 
thông mới, thúc đẩy phát triển tri thức của cá 
nhân, của cộng đồng và xã hội. Hiện tại, chúng 
ta đã dần hình thành Hệ tri thức Việt, được số 
hóa tại địa chỉ https://itrithuc.vn/, góp phần 
thúc đẩy, tạo điều kiện để mọi người dân học 
tập, làm chủ tri thức, tăng cường nghiên cứu 
sáng tạo, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ 
Bên cạnh đó việc nghiên cứu 4.0 đòi hỏi phải 
gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp, đưa kết quả 
nghiên cứu vào sản xuất, chuyển giao công 
nghệ nhằm góp phần xây dựng một nền sản 
xuất thông minh trong CMCN 4.0 
- Quản lý 4.0: Hình thành các hệ thống 
quản trị giảng dạy, nghiên cứu khoa học, quản 
lý cơ sở đào tạo, bộ phận hỗ trợ tài chính thống 
nhất trong các hệ thống phần mềm qua mạng 
máy tính đa mục đích (cổng thông tin điện tử). 
Việc quản lý, tổ chức trường đại học theo mô 
hình doanh nghiệp đòi hỏi sự đóng góp của 
mọi giới năng động, tự chủ, tự chịu trách 
nhiệm. Tự chủ ở đây không chỉ có nghĩa về tài 
chính mà còn là tự chủ về chương trình đào 
tạo, nhân sự và tuyển sinh dưới sự quản lý 
chính sách vĩ mô của Nhà nước. 
Vấn đề là làm thế nào để đào tạo nguồn 
nhân lực ở lĩnh vực khoa học công nghệ một 
cách có hiệu quả, có chất lượng để đáp ứng 
được yêu cầu mới của xã hội. Đó cũng chính 
là bài toán đang đặt ra cho các trường đại học 
của chúng ta hiện nay. 
2.2.2. Một số khuyến nghị nhằm đáp 
ứng được yêu cầu mới của CMCN 4.0 
Một là, các trường đại học phải kiện toàn 
đội ngũ chuyên gia, giảng viên trực tiếp giảng 
dạy, phải quy tụ được nhiều thế hệ giảng viên 
có trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực, 
đó là những tiến sĩ, thạc sĩ trẻ, năng động, tràn 
đầy tâm huyết được đào tạo, tu nghiệp trong 
 98 
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 33, Aug 2019 
nước và nước ngoài như ở: Nhật Bản, Nga, 
Đức, Ấn Độ... 
Hai là, phải đổi mới nội dung, chương 
trình đào tạo theo hướng cập nhật và ứng dụng 
thực tiễn cao, vừa bảo đảm giảm thiểu khối 
kiến thức hàn lâm và tập trung nhiều vào kiến 
thức ứng dụng thực tế. Chương trình đào tạo 
phải chú trọng vào sáng tạo và kỹ năng làm 
việc theo nhóm. Qua đó, giúp người học có 
nhiều lựa chọn trong việc bổ sung, cập nhật và 
nâng cao kiến thức chuyên môn sâu trong lĩnh 
vực khoa học công nghệ. Bên cạnh đó, để có 
các điều kiện nhằm thực hiện đào tạo đạt chất 
lượng, các trung tâm, các trường đại học cũng 
phải tập trung đầu tư các trang thiết bị, máy 
móc để phục vụ cho quá trình giảng dạy. 
Ba là, để có thể thay đổi cơ cấu ngành 
nghề linh hoạt, nên chăng, các nhà quản lý 
giáo dục, chính phủ chỉ cần đưa ra các lĩnh vực 
cần đào tạo, còn các trường có thể tự do thiết 
kế chương trình, danh mục ngành nghề đào 
tạo. 
Bốn là, trong công tác giáo dục đào tạo 
nói chung, đào tạo khoa học công nghệ nói 
riêng, phải tăng cường kết nối giữa đào tạo và 
sử dụng, liên kết, hợp tác quốc tế, đặc biệt là 
với các công ty, tập đoàn công nghệ hàng đầu 
thế giới; xây dựng thể chế tạo điều kiện và môi 
trường thuận lợi cho liên kết, mở rộng quyền 
tự chủ cho một số lĩnh vực nghiên cứu ứng 
dụng, phối hợp đào tạo, thương mại hóa kết 
quả nghiên cứu. 
3. Kết luận 
Trong cuộc Cách mạng 4.0, nhiều ngành 
nghề sẽ biến mất nhưng lại có những công 
việc mới ra đời. Trước xu thế máy móc tự 
động hóa thay thế con người, nguồn nhân lực 
phải được trang bị kiến thức, kỹ năng phù hợp, 
đặc biệt là các kiến thức về khoa học công 
nghệ và kỹ năng mềm, để đáp ứng yêu cầu 
công việc trong tình hình mới. Do đó, nhu cầu 
đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ 
nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện 
nay trở nên vô cùng cấp bách. Vì vậy, việc 
nghiên cứu, xây dựng và đổi mới chương trình 
đào tạo, nghiên cứu khoa học, quản lý, tăng 
cường hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, nhà 
khoa học và doanh nghiệp nhằm đào tạo 
nguồn nhân lực chất lượng cao, đón đầu yêu 
cầu của cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 
trong tình hình còn tụt hậu của Việt Nam là 
việc làm đòi hỏi sự quyết tâm cao của mỗi cơ 
sở đào tạo về khoa học công nghệ 
Tài liệu tham khảo 
[1] PGS.TS Đinh Đức Anh (2017), Hội thảo thích 
ứng công tác đào tạo của ĐHQG-HCM 
[2] Bộ GD-ĐT (2017), Đề án áp dụng cơ chế đặc thù 
đào tạo nhân lực CNTT trình độ ĐH trong giai 
đoạn 2017-2020. 
[3] Bùi Thế Duy - chánh văn phòng Bộ Khoa học và 
Công nghệ (2017), CNTT là cốt lõi của cách mạng 
công nghiệp 4.0, vtv.vn. 
[4] Trần Huỳnh (2017), Cách mạng công nghiệp 4.0: 
ĐH phải thay đổi, ttps://tuoitre.vn/cach-mang-
cong-nghiep-4-0-dai-hoc-phai-thay-doi-
20171211084243511.htm 
[5] Nguyễn Bá Ngọc (2017), Việt Nam có đón được 
làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0?, 
https://news.zing.vn/viet-nam-co-don-duoc-lan-
song-cach-mang-cong-nghiep-40-
post750346.html 
[6] Công Nhật, Quang Phương (2016), Nhân lực 
ngành công nghệ thông tin: sẽ còn “khát” dài 
dài..., https://congnghe.tuoitre.vn/nhip-song-
so/nhan-luc-nganh-cong-nghe-thong-tin-se-con-
khat-dai-dai-1149487.htm 
[7] Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (2016), Diễn đàn 
cấp cao CNTT– truyền thông 2016, 
502-dien-dan-cap-cao-cong-nghe-thong-tin-
truyen-thong-viet-nam-2016.html 
[8] Đức Thành, “Cuộc chiến nhân lực ngành CNTT,”, 
https://baomoi.com/cuoc-chien-nhan-luc-nganh-
cntt-nguoi-thieu-chuyen-mon-lai-yeu-ky-1-nhu-
cau-tang-nhan-luc-nho-giot/c/22636757.epi. 
[9] Nguyễn Thế Trung (2017), Cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư: Ưu tiên cải cách thể chế và đổi 
mới giáo dục, 
sang-tao/Cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-Uu-
tien-cai-cach-the-che-va-doi-moi-giao-duc-
10772 
[10] Anthony Seldon, https://news.zing.vn/robort-se-
thay-the-giao-vien-dung-lop-trong-10-nam-toi-
post779720.html 
[11] GS Gottfried Vossen (2017), ĐH tìm cách thích 
ứng mới cách mạng công nghiệp 4.0, 
https://congnghe.tuoitre.vn/nhip-song-so/dh-tim-
cach-thich-ung-moi-cach-mang-cong-nghiep-40-
1355638.htm. 
[12] Klaus Schwab (2016), Cách mạng công nghiệp 
lần thứ 4, NXB Chính trị quốc gia. 
 Ngày nhận bài: 14/6/2019 
 Ngày chuyển phản biện: 17/6/2019 
 Ngày hoàn thành sửa bài: 8/7/2019 
 Ngày chấp nhận đăng: 15/7/2019 

File đính kèm:

  • pdfgiao_duc_dai_hoc_voi_cach_mang_cong_nghiep_4_0.pdf