Giải thích hợp đồng theo CISG và khuyến nghị cho doanh nghiệp Việt Nam

Theo khảo sát của chúng tôi, trên thế giới

các công trình nghiên cứu về CISG nói chung

và cách giải thích hợp đồng theo CISG nói

riêng khá nhiều. Một phần các kết quả này đã

được đăng tải bằng 6 ngôn ngữ (Anh, Pháp,

Nga, Trung Quốc, Tây Ban Nha và Arập) trên

website chính thức của CISG. Tại Việt Nam,

các nghiên cứu viết bằng tiếng Việt so sánh

các quy định của CISG với các quy định của

pháp luật Việt Nam về giải thích hợp đồng

chưa được quan tâm đúng mức. Các công trình

nghiên cứu hiện nay về CISG thường tập trung

vào các vấn đề như hàng hóa không phù hợp

với HĐ, vi phạm cơ bản và hủy HĐ. Ví dụ

như trang điện tử một số thành viên trong nhóm nghiên

cứu về CISG thuộc Ủy ban Tư vấn về Chính

sách Thương mại Quốc tế (Phòng Thương mại

và Công nghiệp Việt Nam - VCCI) lập ra nhằm

phổ biến CISG chỉ có các bài nghiên cứu án

lệ về phạm vi áp dụng CISG, hình thành hợp

đồng mua bán hàng hóa, soạn thảo hợp đồng

mua bán hàng hóa quốc tế nghĩa vụ các bên

và vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại

(vi phạm hợp đồng cơ bản và các trường hợp

miễn trách mà không có mục nào nghiên cứu

về giải thích hợp đồng2. Kết quả tìm kiếm từ

khóa “công ước viên” tại trang chủ của thư

viện Trường Đại học Ngoại thương cho thấy

chủ đề chính của các bài nghiên cứu (luận án,

luận văn tốt nghiệp ) thường là vi phạm hợp

đồng, chế tài khi vi phạm và tính phù hợp của

hàng hóa3.

pdf 16 trang kimcuc 3200
Bạn đang xem tài liệu "Giải thích hợp đồng theo CISG và khuyến nghị cho doanh nghiệp Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải thích hợp đồng theo CISG và khuyến nghị cho doanh nghiệp Việt Nam

Giải thích hợp đồng theo CISG và khuyến nghị cho doanh nghiệp Việt Nam
lUAÄt
136 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
1. Đặt vấn đề
Mặc dù việc áp dụng Công ước Viên năm 
1980 của Liên Hợp quốc về hợp đồng mua bán 
hàng hóa quốc tế (CISG) cho các hợp đồng 
mua bán hàng hóa quốc tế (HĐMBHHQT) có 
sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam thực tế 
đã diễn ra từ nhiều năm trở lại đây, songCông 
ước không phải là nguồn luật bắt buộc, mà chỉ 
được áp dụng khi các bên lựa chọn. Chính vì 
đây không phải là nguồn luật áp dụng bắt buộc 
nên không phải doanh nghiệp nào cũng nắm 
được các quy định của CISG. Tuy nhiên, Việt 
Nam đã chính thức trở thành quốc gia thành 
viên thứ 84 của CISG vào ngày 18/12/2015 và 
Công ước này sẽ bắt đầu có hiệu lực tại Việt 
Nam kể từ ngày 1/1/20171.
Vì vậy, việc nghiên cứu các quy định của 
CISG nói chung và về giải thích HĐnói riêng 
mang ý nghĩa thực tiễn cao. Khảo sát thực 
tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh từ các 
HĐMBHHQTmà luật áp dụng là CISG cho 
thấy yêu cầu giải thích HĐ phù hợp với các 
quy định của CISG luôn được đặt ra. Khi một 
điều khoản có thể hiểu theo nhiều cách thì đâu 
sẽ là quy tắcgiúp xác định nội dung của điều 
khoản đó? Những tình tiết, những chứng cứ 
Tóm tắt 
Bài viết làm rõ một số vấn đề liên quan đến: Nội dung của 2 cách giải thíchHĐ “chủ quan” và 
“khách quan” quy định tại điều 8(1) và 8(2) của CISG; Nội dung các tình tiết có liên quan trong 
việc giải thích HĐ quy định tại điều 8(3), điều 9 của CISG và một số vấn đề thường gặp phải trong 
thực tiễn mà cần phải áp dụng các cách giải thích của CISG.Cuối cùng, bài viết đưa ra một số 
khuyến nghị mang tính chọn lọc cho những vấn đề mà tác giả nhận thấy rằng cần thiết cho doanh 
nghiệp Việt Nam.
Từ khóa: CISG, Giải thích hợp đồng.
Mã số: 296. Ngày nhận bài: 12/08/2016. Ngày hoàn thành biên tập: . Ngày duyệt đăng: .
Abstract 
The purpose of this paper is to considersome issues relating to:Contents of two interpreting methods 
which are “subjective” and “objective” waysstated in article 8(1) and 8(2) of CISG; Substanceof 
relevant circumstances in interpreting contract stipulated in article 8(3), article 9 of CISG andthose 
frequently encountered in practices which must be applied interpreting method of CISG.Eventually, 
this article provides some selective recommendations for such issues which by the writer is deemed 
necessary for Vietnamese enterprises.
Key words: CISG, Contract interpretation. 
Paper No. 296. Date of receipt: 12/08/2016. Date of revision: . Date of approval: .
GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG THEO CISG VÀ 
KHUYẾN NGHỊ CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Ngô Quốc Chiến*
* 
1 https://cisgvn.wordpress.com/2015/12/31/viet-nam-chinh-thuc-tro-thanh-thanh-vien-thu-84-cua-cisg/ (truy cập 
ngày 20/3/2016).
lUAÄt
137Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016)
có liên quan nào sẽ có tính quyết định đối với 
các nguồn này?
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Theo khảo sát của chúng tôi, trên thế giới 
các công trình nghiên cứu về CISG nói chung 
và cách giải thích hợp đồng theo CISG nói 
riêng khá nhiều. Một phần các kết quả này đã 
được đăng tải bằng 6 ngôn ngữ (Anh, Pháp, 
Nga, Trung Quốc, Tây Ban Nha và Arập) trên 
website chính thức của CISG. Tại Việt Nam, 
các nghiên cứu viết bằng tiếng Việt so sánh 
các quy định của CISG với các quy định của 
pháp luật Việt Nam về giải thích hợp đồng 
chưa được quan tâm đúng mức. Các công trình 
nghiên cứu hiện nay về CISG thường tập trung 
vào các vấn đề như hàng hóa không phù hợp 
với HĐ, vi phạm cơ bản và hủy HĐ... Ví dụ 
như trang điện tử https://cisgvn.wordpress.
com/do một số thành viên trong nhóm nghiên 
cứu về CISG thuộc Ủy ban Tư vấn về Chính 
sách Thương mại Quốc tế (Phòng Thương mại 
và Công nghiệp Việt Nam - VCCI) lập ra nhằm 
phổ biến CISG chỉ có các bài nghiên cứu án 
lệ về phạm vi áp dụng CISG, hình thành hợp 
đồng mua bán hàng hóa, soạn thảo hợp đồng 
mua bán hàng hóa quốc tế nghĩa vụ các bên 
và vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại 
(vi phạm hợp đồng cơ bản và các trường hợp 
miễn trách mà không có mục nào nghiên cứu 
về giải thích hợp đồng2. Kết quả tìm kiếm từ 
khóa “công ước viên” tại trang chủ của thư 
viện Trường Đại học Ngoại thương cho thấy 
chủ đề chính của các bài nghiên cứu (luận án, 
luận văn tốt nghiệp) thường là vi phạm hợp 
đồng, chế tài khi vi phạm và tính phù hợp của 
hàng hóa3. Trong khi đó, các quy định về giải 
thích HĐ của CISG hầu như luôn được sử dụng 
để giải thích tuyên bố, hành vi của mỗi bên và 
các từ ngữ trong HĐ, tạo cơ sở để áp dụng các 
quy định về tính phù hợp của hàng hóa, mức độ 
nghiêm trọng của vi phạm... thì lại chưa được 
đề cập, nghiên cứu một cách thấu đáo.
3. Đối tượng nghiên cứu
Bài viết này nghiên cứu quy định của CISG 
về các cách giải thích HĐ và các tình tiết có 
liên quan trong giải thích HĐ cũng như thực 
tiễn áp dụng các quy định này tại một số quốc 
gia trên thế giới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung, bài viết này nghiên cứu 
về các quy định về giải thích HĐ nêu tại điều 
8 và các quy định liên quan đến tập quán tại 
điều 9 của CISG.
Về mặt thời gian, bài viết này nghiên cứu 
các tài liệu có liên quan đến quá trình soạn 
thảo, các bài viết nghiên cứu, các bình luận và 
các án lệ của CISG tính từ ngày Công ước có 
hiệu lực đến nay.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả sẽ làm rõ các quy tắc và các 
tình tiết có liên quan trong việc giải thích 
HĐMBHHQT trong các giao dịch mà nguồn 
luật áp dụng là CISG. Tác giả cũng sẽ đưa ra 
một số ví dụ thực tiễn của thế giới từ đó đưa ra 
các khuyến nghị cho doanh nghiệp Việt Nam 
trong quá trình giao kết và thực hiện HĐ.
6. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết này sử dụng các phương pháp 
nghiên cứu chung là tổng hợp và phân tích. 
Ngoài ra, bài viết này sử dụng các phương 
pháp đặc thù của nghiên cứu luật học là so 
sánh luật và bình luận án lệ.
2 https://cisgvn.wordpress.com/gi%E1%BB%9Bi-thi%E1%BB%87u/(truy cập ngày 09/09/2016). 
3  cập ngày 09/09/2016).
lUAÄt
138 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
7. Kết quả nghiên cứu
I. Khái quát về cách giải thích HĐ theo 
CISG
Điều 8 của CISG được thừa nhận rộng rãi 
là đã đưa ra các quy tắc cần được áp dụng để 
giải thích HĐ. Thật vậy, trong phần bình luận 
của ban thư ký soạn thảo CISG, các nhà soạn 
thảo đã khẳng định rằng điều 7 của bản dự 
thảo (trở thành điều 8 của CISG ngày nay) đưa 
ra các quy tắc áp dụng khi giải thích hành vi 
đơn phương của mỗi bên (chính là các trao đổi 
qua lại liên quan đến chào hàng, chấp nhận 
chào hàng hay các thông báo). Theo đó, CISG 
coi HĐ là sự thể hiện của một chào hàng và 
một chấp nhận chào hàng và trong quá trình 
giải thích, HĐ sẽ được xem như là sự kết hợp 
của hai hành vi đơn phương của mỗi bên4. Do 
đó, việc giải thích HĐ sẽ trở thành giải thích 2 
hành vi đơn phương mà cách giải thích được 
nêu ra tại điều 8 của CISG. Nhận định này 
cũng đã được nhắc lại trong các bản án của tòa 
án5 và quyết định của trọng tài6 sau này. Điều 
8 của CISG quy định như sau:
“1. Phục vụ cho mục đích của Công ước 
này,các tuyên bố và cách xử sự khác của một 
bên được giải thích theođúng ý định của bên 
đó khi bên kia đã biết hoặc không thể không 
biết ý định ấy.
2. Nếu đoạn trên không thể áp dụng thì các 
tuyên bố và xử sự khác của một bên được giải 
thích theo nghĩa mà một người hợp lý, nếu 
người đó được đặt vào vị trí của phía bên kia 
trong những hoàn cảnh tương tự cũng sẽ hiểu 
như thế.
3. Khi xác định ý định của một bên hoặc 
cách hiểu mà một người hợp lý sẽ có, cần phải 
tính đến mọi tình tiết liên quan, kể cả các cuộc 
đàm phán, mọi thực tế mà các bên đã có trong 
mối quan hệ tương hỗ của họ, các tập quán và 
mọi hành vi sau đó của hai bên.”
Bên cạnh các quy định và án lệ áp dụng 
CISG, các quy định tương ứng về giải thích 
HĐ tại chương 47 của Bộ nguyên tắc Unidroit 
về HĐ thương mại quốc tế (PICC) cũng sẽ 
được sử dụng như một nguồn bổ sung nhằm 
làm rõ các cách giải thích HĐ của CISG. Mặc 
dù PICC ra đời muộn hơn CISG (khoảng 14 
năm) nhưng các học giả trên thế giới và thực 
tiễn án lệ đã cho thấy, các quy tắc về giải thích 
HĐ của PICC là một nguồn thích hợp để bổ 
sung và làm rõ các quy định về giải thích HĐ 
của CISG. Có quan điểm cho rằng các quy tắc 
giải thích HĐ nêu tại điều 4 của PICC chính là 
một sự chi tiết hóa các quy định ngắn gọn tại 
điều 8 của CISG8. Bản thân PICC cũng được 
nhìn nhận như một tập quán thương mại quốc 
4 United Nations, United Nations Conference on Contracts for the International Sale of Goods, Vienna, 10 
March-11 April 1980, Official Records, Documents of the Conference and Summary Records of the Plenary 
Meetings and of the Meetings of the Main Committee, United Nations, 1991, trang 18.. 
5 Tòa phúc thẩm của Phần Lan trong vụ Crudex Chemicals Oy v. Landmark Chemicals S.A. đã trích dẫn lại nội 
dung này trong phần bình luận của các nhà soạn thảo như là căn cứ để áp dụng điều 8 của CISG khi giải thích 
HĐ. Có thể xem bản án tại:  (truy cập ngày 1/4/2016).
6 Một hội đồng trọng tài của ICC trong vụ Cowhides cũng đã trích dẫn nội dung nói trên để làm căn cứ áp dụng 
điều 8 trong giải thích HĐ. Có thể xem tóm tắt phán quyết tại  
(truy cập ngày 1/4/2016) .
7 Chương 4 của Bộ nguyên tắc Unidroit về HĐ thương mại quốc tế bao gồm 8 điều từ 4.1 đến 4.8 quy định về 
cách giải thích HĐ, tuyên bố và hành vi của các bên, các tình tiết liên quan trong giải thích HĐ và các nguyên 
tắc khác áp dụng trong giải thích HĐ.
8 Jacob S. Ziegel, Presentation at a seminar on the UNIDROIT Principles at Valencia, Venezuela (6-9 November 
1996): The UNIDROIT Contract Principles, CISG and National Law. Có tại: 
biblio/ziegel2.html (truy cập tháng 5/2016).
lUAÄt
139Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016)
tế được biết đến rộng rãi nên hoàn toàn có thể 
được áp dụng theo quy định tại điều 9(2) của 
CISG để giải thích HĐ. Ngoài ra, PICC cũng 
đưa ra các quy tắc minh thị khác dành cho giải 
thích HĐ nên nó còn bao trùm những vấn đề 
chưa được quy định trong CISG9.
a) Giải thích HĐ dựa trên ý định của một 
bên khi bên kia đã biết hoặc không thể không 
biết ý định ấy
Cách giải thích HĐ dựa trên ý định của một 
bên được quy định tại điều 8(1) của CISG.
Theo đó, ý định riêng của một bên sẽ chỉ 
được sử dụng cho việc giải thích HĐ trong hai 
trường hợp.
Thứ nhất,khi bên kia đã biết về ý định đó. 
Tình huống này được xem như đã có một “sự 
gặp gỡ về ý chí”10 giữa các bên. Khi đó, vì các 
bên có cùng một ý định nên dù cho từ ngữ diễn 
đạt có không chính xác với ý định đó đi chăng 
nữa thì ý định của các bên vẫn phải được ưu 
tiên áp dụng11. Ngoài ra, rõ ràng trường hợp 
này luôn được thỏa mãn khi bên kia biết được 
ý định của bên đưa ra xử sự bất kể bên kia 
biết được ý định đó bằng cách nào, dù là trực 
tiếp thông qua xử sự của bên kia hay bằng một 
cách gián tiếp nào khác12. 
Thứ hai, khi bên kia không thể không biết 
về ý định đó. Về mức độ hiểu biết của một 
bên đối với ý định của bên kia, CISG đã đưa 
ra ba quy định tổng quát: (1) biết (know) hay 
nhận thức được (aware); (2) không thể không 
biết (could not have been unaware)13; và (3) 
đáng ra đã biết (ought to have known)14. Mức 
độ thứ nhất, như đã phân tích ở trên, thể hiện 
việc bên tiếp nhận xử sự đã hiểu rõ ý định của 
bên kia. Mức độ thứ ba yêu cầu bên tiếp nhận 
ý định phải có những tìm hiểu nhất định (mà 
bên đó đáng ra nên làm) để hiểu được ý định 
của bên kia. Trong khi đó, mức độ thứ hai (quy 
định tại điều 8(1) của CISG) không yêu cầu 
bên tiếp nhận xử sự phải có một sự tìm hiểu 
nào bởi lẽ ý định của bên kia là đủ rõ ràng và 
ai cũng có thể nhận thấy15. Chính vì vậy, theo 
một tác giả, khái niệm “không thể không biết” 
ở đây mang nghĩa “bất cẩn nghiêm trọng”16 
(tức bất cẩn đến mức không nhận thấy ý định 
đã rõ ràng của bên kia). Ngoài ra, khái niệm 
“biết” và “không thể không biết” còn có thể 
hiểu là ngầm định mang ý nghĩa rằng hoặc cả 
hai bên đều đã có một mối quan hệ làm ăn 
bền chặt và hiểu rõ lẫn nhau hoặc tuyên bố và 
hành vi của một bên có thể được hiểu hay giải 
thích bởi bên kia17.
9 Joseph M. Perillo, Editorial remarks on the manner in which the UNIDROIT Principles may be used to interpret 
or supplement CISG Article 8. Có tại:  (truy cập tháng 
5/2016). 
10 Khái niệm này là gần gũi với khái niệm “ý chí chung của các bên” mà theo khoản 1 điều 409 Bộ luật dân sự 2005 
quy định là phải được ưu tiên áp dụng khi giải thích HĐ (tương ứng với khoản 1 điều 404 Bộ luật dân sự 2015).
11 Peter Huber và Alastair Mullis, The CISG A new textbook for students and practitioners, Sellier, 2007, trang 12.
12 Peter Schlechtriem, Uniform Sales Law - The UN-Convention on Contracts for the International Sale of Goods, 
Manz, 1986, trang 39.
13 Cụm từ này đã được sử dụng tại các điều 8, 35, 40 và 42 của CISG.
14 Cụm từ này đã được sử dụng tại các điều 2, 9, 38, 39, 43, 49, 64, 68, 74, 79 và 82 của CISG.
15 John O. Honnold, Article 9 Usages and Practices Applicable to Contract trong Uniform Law for International 
Sales tái bản lần thứ 3, Kluwer, 1999, trang 260.
16 Từ gốc tiếng Anh là “gross negligence” (Peter Huber và Alastair Mullis, The CISG A new textbook for students 
and practitioners, Sellier, 2007, trang 12).
17 Theo nhận định của hội đồng trọng tài trong vụ Magnesium. Có thể xem phán quyết tại 
edu/cases/958324i1.html (truy cập ngày 1/4/2016)
lUAÄt
140 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
Ngoài ra, để ý định của một bên được áp 
dụng cho giải thích HĐ, ý định đó phải được 
thể hiện ra bên ngoài dưới những hình thức có 
thể nhận biết được18. Bởi lẽ nếu như ý định đó 
được bộc lộ dưới một hình thức không thể nhận 
thức được, bên kia sẽ không thể rơi vào hoàn 
cảnh không thể không biết. Theo đó, một tòa 
án dân sự của Thụy Sỹ đã nhận định rằng: “Để 
giải thích hợp đồng, trước hết phải quan tâm 
đến ý định có thể nhận biết được của cả hai 
bên”19. Một tòa án khác của Thụy Sỹ cũng có 
nhận định tương tự khi cho rằng: “Bước đầu 
tiên trong việc giải thích các tuyên bố đưa ra 
bởi các bên chính là ý định riêng của bên đưa 
ra tuyên bố, như đã được thể hiện ra bên ngoài 
dưới một hình thức có thể nhận biết được”20. 
Tóm lại, cách giải thích HĐ dựa trên ý định 
của một bên theo quy định tại điều 8(1) của 
CISG được áp dụng khi bên có ý định chứng 
minh được rằng hoặc (1) bên kia đã biết ý định 
của mình (bất kể bằng cách thức gì) hoặc (2) 
bên kia không thể không biết ý định của mình 
(với điều kiện là ý định đó đã được thể hiện 
ra bên ngoài dưới một hình thức có thể nhận 
biết được).
b) Giải thích HĐ dựa trên cách hiểu mà 
một người hợp lý có cùng năng lực như bên 
kia sẽ có trong những hoàn cảnh tương tự
Cách giải thích HĐ dựa trên cách hiểu 
của một người hợp lý được quy định tại điều 
8(2) của CISG. Nhìn chung, cách giải thích 
này được thừa nhận là được áp dụng rộng rãi 
hơn cách giải thích dựa trên ý định của một 
bên21 bởi trong thực tiễn kinh doanhquốc tế, 
tình tiết của các vụ tranh chấp hầu như đều 
cho thấy rằng cả hai bên đã không biết đến 
ý định của nhau22. Một hội đồng trọng tài đã 
đưa ra nhận định rằng điều 8(1) của CISG 
sẽ được áp dụng chủ yếu khi mà các bên có 
một mối quan hệ gần gũi và hiểu rõ lẫn nhau 
hoặc khi cách xử sự của các bên là rõ ràng 
 ... the Meetings of the Main Committee, United Nations, 1991, trang 19.
64 Có thể xem bản án tại  (truy cập ngày 21/4/2016).
65 Peter Huber và Alastair Mullis, The CISG A new textbook for students and practitioners, Sellier, 2007, trang 17; 
Một học giả khác cũng có quan điểm tương tự khi cho rằng, tập quán của điều 9(2) ràng buộc các bên khi các 
bên chỉ cần tham gia vào hoạt động thương mại có liên quan và hoạt động tại khu vực địa lý mà tập quán được 
biết đến rộng rãi (Gregory C. Walker, Trade Usages and the CISG: Defending the Appropriateness of Journal of 
Law and Commerce trong Journal of Law and Commerce, Tập 24, 2005, trang 271).
66 United Nations, United Nations Conference on Contracts for the International Sale of Goods, Vienna, 10 
March-11 April 1980, Official Records, Documents of the Conference and Summary Records of the Plenary 
Meetings and of the Meetings of the Main Committee, United Nations, 1991, trang 19.
lUAÄt
148 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
nhất66. Đối với yếu tố thứ hai, một học giả đã 
chỉ ra rằng đây là một yếu tố khách quan. Yếu 
tố thứ hai yêu cầu một tập quán phải thường 
xuyên được áp dụng trong lĩnh vực mà các 
bên tham gia (ví dụ như mua bán lúa mì hay 
mua bán một loại máy móc nào đó) và phải áp 
dụng trong loại HĐ mà các bên giao kết (ví 
dụ như HĐ của các giai đoạn khác nhau trong 
quá trình vận chuyển hay HĐ mua bán lúa mì 
cứng hay mềm). Tập quán thỏa mãn yếu tố 
thứ hai cũng phải được biết đến rộng rãi trong 
thương mại quốc tế, theo đó, một tập quán dù 
có được chấp nhận rộng rãi trong nước nhưng 
cũng sẽ không thể được áp dụng nếu như nó 
không thỏa mãn yếu tố quốc tế, thậm chí ngay 
cả khi trong thị trường nội địa, nó được áp 
dụng rộng rãi tới mức bên nước ngoài trong 
HĐ đã biết hoặc ít nhất cần phải biết đến nó. 
Tuy nhiên, nếu như một doanh nghiệp nước 
ngoài thường xuyên giao kết các HĐ áp dụng 
một tập quán quốc nội thì cũng có thể sẽ bị 
ràng buộc bởi tập quán đó67. Theo phán quyết 
của một hội đồng trọng tài, tập quán thương 
mại nhìn chung có tác dụng xác định cách 
hiểu của một người hợp lý đối với các câu chữ 
của HĐ68.
Tóm lại, tập quán trong CISG khi sử dụng 
để giải thích HĐ là mọi tập quán có liên quan, 
bất kể mang tính khu vực, quốc gia hay quốc 
tế. Trong đó có bao gồm các tập quán quy định 
tại điều 9 của CISG. Đó là các tập quán thương 
mại được các bên thỏa thuận áp dụng (minh thị 
hoặc ngầm định). Ngoài ra, nếu một tập quán 
thỏa mãn các yếu tố đó là được các bên đã biết 
hoặc các bên cần phải biết, được biết đến rộng 
rãi trong thương mại quốc tế và thường xuyên 
được tuân theo bởi các bên trong các HĐ cùng 
loại, tập quán đó được xem là được các bên 
ngầm định thỏa thuận áp dụng.
d) Xử sự sau khi giao kết HĐ của các bên
Xử sự sau khi giao kết HĐ giữa các bên 
là tình tiết cuối trong danh sách mở các tình 
tiết quy định tại điều 8(3) của CISG. Một cách 
chung nhất, xử sự sau khi giao kết HĐ của các 
bên chính là mọi hành động và không hành 
động của các bên liên quan đến việc thực hiện 
HĐ sau khi giao kết. Nhìn chung, nội dung 
của mỗi tuyên bố phải được xác định tại thời 
điểm tuyên bố đó có hiệu lực, do đó, xử sự của 
các bên sau khi giao kết HĐ chỉ có thể sử dụng 
để làm rõ các tình tiết vào thời điểm giao kết 
HĐ. Ngoài ra, việc sửa đổi HĐ chỉ bằng xử sự 
sau khi giao kết chưa được xác định rõ ràng là 
có thể thực sự sửa đổi HĐ và ràng buộc các 
bên hay không69. Thực tiễn xét xử cho thấy, xử 
sự của các bên sau khi giao kết HĐ có thể cho 
biết ý chí muốn bị ràng buộc bởi các bên hoặc 
giải thích cho các điều khoản không được rõ 
ràng trong HĐ. Một tòa án Thụy Sỹ đã kết 
luận rằng bên mua mong muốn bị ràng buộc 
bởi HĐ do bên mua đã yêu cầu bên bán xuất 
hóa đơn cho hàng hóa cho một bên thứ ba chỉ 
67 Michael Joachim Bonell, Article 9 trong Bianca-Bonell Commentary on the International Sales Law, Giuffrè, 
1987, trang 108-109.
68 Bruno Zeller, The Parol Evidence rule and the CISG - a comparative analysis. Có tại: 
edu/cisg/biblio/zeller6.html#1 (truy cập ngày 8/4/2016).
69 Felix Lautenschlager, Current Problems Regarding the Interpretation of Statements and Party Conduct under 
the CISG - The Reasonable Third Person, Language Problems and Standard Terms and Conditions trong Vindo-
bona Journal of International Commercial Law & Arbitration, tập 11, 2007, trang 265.
70 Có thể xem bản án tại:  cập ngày 30/3/2016).
71 Peter Huber và Alastair Mullis, The CISG A new textbook for students and practitioners, Sellier, 2007, trang 14.
lUAÄt
149Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016)
định bởi bên mua70. Một ví dụ khác là khi điều 
khoản vận chuyển hàng không nêu rõ bên nào 
chịu rủi ro đối với hàng hóa trong quá trình 
vận chuyển, việc bên bán ký kết HĐ bảo hiểm 
với người thụ hưởng là bên bán cho thấy bên 
bán đã chấp nhận rủi ro này71.
Tóm lại, xử sự sau khi giao kết HĐ của các 
bên thường giúp xác định ý chí mong muốn bị 
ràng buộc bởi HĐ và giúp giải thích các điều 
khoản không rõ ràng. Xử sự sau khi giao kết 
là mọi hành động hoặc bất tác vi của các bên 
liên quan đến việc thực hiện HĐ, có thể lặp lại 
nhiều lần hoặc không lặp lại nhiều lần.
e) Các tình tiết khác
Bên cạnh các tình tiết được nêu ở trên, các 
tình tiết khác như nguyên tắc thiện chí, bản 
chất và mục đích của HĐ, cách hiểu thông 
dụng về các điều khoản và từ ngữ trong lĩnh 
vực thương mại có liên quan cũng có thể được 
áp dụng trong giải thích HĐ. Các tình tiết này 
được quy định tại PICC. Trong đó, các quy 
tắc quy định tại phần 4 của PICC cũng có thể 
được áp dụng để giải thích HĐ. Cụ thể, phần 4 
của PICC đưa ra các quy tắc sau khi giải thích 
HĐ: quy tắc giải thích dựa trên tính thống nhất 
của HĐ72, giải thích HĐ sao cho toàn bộ các 
điều khoản đều có hiệu lực73, quy tắc contra 
proferentem74, quy tắc ưu tiên bản gốc75, và 
quy tắc bổ sung các điều khoản khiếm khuyết 
trong HĐ76. Đáng chú ý là quy tắc contra 
proferentem. Theo đó, điều khoản không rõ 
ràng trong HĐ sẽ phải được giải thích theo 
hướng không có lợi cho bên đưa ra điều khoản 
đó. Đây là một quy tắc giải thích HĐ được 
biết đến một cách rộng rãi trong thương mại 
quốc tế và được chấp nhận rộng rãi77. Trong 
một quyết định trọng tài của Trung Quốc, hội 
đồng trọng tài khi không thể giải thích một 
điều khoản trong HĐkhi chỉ dựa vào các quy 
định của CISG đã áp dụng quy tắc contra 
proferentem như một nguyên tắc cơ bản trong 
giải thích HĐ78. Một tòa án của Đức còn cho 
rằng, điều 8(2) của CISG được xây dựng dựa 
trên nền tảng của quy tắc contra proferentem79. 
Theo ví dụ nêu tại bình luận của điều 4.6 
của PICC, một điều khoản quy định về trách 
nhiệm của nhà thầu không quy định rõ phạm 
vi trách nhiệm đã không được thảo luận giữa 
các bên. Theo đó, vì chính nhà thầu đã đưa ra 
72 Điều 4.4 của PICC quy định: “Các điều khoản và các biểu đạt phải được giải thích dưới góc nhìn của toàn bộ 
HĐ hoặc tuyên bố chứa đựng chúng.”
73 Điều 4.5 của PICC quy định: “Các điều khoản của HĐ cần phải được giải thích sao cho toàn bộ các điều khoản 
đều có hiệu lực hơn là làm cho một số điều khoản không có hiệu lực”.
74 Điều 4.6 của PICC quy định: “Nếu các điều khoản đưa ra bởi một bên không rõ ràng, một cách giải thích không 
có lợi cho bên đó được ưu tiên”.
75 Điều 4.7 của PICC quy định: “Khi một HĐ được soạn thảo thành hai hoặc nhiều phiên bản có ngôn ngữ khác 
nhau mà có cùng giá trị điều chỉnh thì sẽ, trong trường hợp có sự khác nhau giữa các phiên bản, một sự ưu tiên 
đối với giải thích dựa trên phiên bản mà HĐ ban đầu đã được soạn.”
76 Điều 4.8 của PICC quy định: “(1) Khi các bên trong HĐ đã không thỏa thuận về một điều khoản quan trọng cho 
việc xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, một điều khoản phù hợp với hoàn cảnh sẽ được thêm vào. (2) Khi 
xác định như thế nào là một điều khoản phù hợp cần phải xem xét, giữa các yếu tố khác, tới (a) ý định của các 
bên; (b) bản chất và mục đích của HĐ; (c) thiện chí và giao dịch công bằng; (d) sự hợp lý.”
77 John O. Honnold, Interpretation of Statements or Other Conduct of a Party trong Uniform Law for International 
Sales under the 1980 United Nations Convention tái bản lần thứ 3, Kluwer Law International, 1999, trang 118.
78 Có thể xem phán quyết tại:  cập ngày 30/3/2016).
79 Có thể xem bản án tại:  cập ngày 30/3/2016).
lUAÄt
150 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
điều khoản này nên nhà thầu phải chịu trách 
nhiệm đối với phạm vi rộng hơn so với mong 
muốn của mình. Điều này cũng được áp dụng 
tương tự đối với tuyên bố, xử sự của các bên 
trong HĐ. Cụ thể, nếu một tuyên bố không 
rõ ràng, điều này sẽ không đưa đến một cách 
hiểu có lợi hơn cho bên đưa ra tuyên bố80. 
Ngoài ra, quy tắc này thường được áp dụng 
khi giải thích ý nghĩa của các điều khoản mẫu 
đưa ra bởi một bên trong HĐ81.
Kết luận
Các quy định của Công ước Viên nhìn 
chung đã tạo ra một khuôn khổ mang tính 
quốc tế cho việc giải thích HĐ. Cụ thể, đó 
chính là 2 phương pháp giải thích mang tính 
“chủ quan” và “khách quan” cùng các tình tiết 
có liên quan được sử dụng trong giải thích quy 
định tại điều 8. Theo đó, cách giải thích mang 
tính “chủ quan” quy định tại điều 8(1) cần 
phải được xem xét đầu tiên. Điều này thể hiện 
một trong những nguyên tắc cốt lõi của Công 
ước Viên đó là nguyên tắc “tự do HĐ”. Như 
vậy, ý chí của các bên luôn được cân nhắc và 
xem xét trước tiên. Tuy nhiên, phương pháp 
này luôn tạo ra những sự không ổn định về 
mặt pháp lý do ý chí riêng của một bên luôn 
khó để xác định một cách chính xác. Do đó, 
cách giải thích mang tính “chủ quan” chỉ được 
áp dụng khi một bên chứng minh được rằng 
bên kia đã biết hoặc không thể không biết về 
ý định của mình. Ngoài ra, nếu như yêu cầu 
trên không được thỏa mãn, Công ước Viên 
đưa ra một cách giải thích mang tính khách 
quan quy định tại điều 8(2). Theo đó, xử sự 
của một bên được hiểu theo cách hiểu mà một 
người hợp lý có cùng năng lực như bên kia sẽ 
có trong những hoàn cảnh tương tự. Cách giải 
thích này đã giúp tăng tính ổn định trong giải 
thích các HĐ và hành vi thương mại mang 
tính quốc tế khi sử dụng một cách hiểu “hợp 
lý”. Cách giải thích này cũng góp phần thúc 
đẩy sự tuân thủ nghĩa vụ thiện chí trong giao 
kết HĐ. Bởi lẽ, bên đưa ra tuyên bố hoặc hành 
vi cần phải biểu đạt các tuyên bố và hành vi 
đó sao cho chắc chắn rằng bên kia đã biết hoặc 
không thể không biết hay ít nhất, một người 
hợp lý có cùng trình độ như bên kia ở vào 
hoàn cảnh tương tự sẽ có cách hiểu mà bên đó 
mong muốn.
Bên cạnh đó, Công ước Viên cũng đã đưa 
ra những tình tiết bao quát, hợp lý và có tính 
mở sử dụng cho việc giải thích HĐ, đó là đàm 
phán, thói quen thiết lập giữa các bên, các 
tập quán có liên quan và các xử sự sau khi 
giao kết HĐ. Các tình tiết này đã tạo ra một 
phạm vi chứng cứ toàn diện cho cơ quan giải 
quyết tranh chấp khi giải thích HĐ. Đặc biệt, 
các tình tiết này đã loại bỏ các học thuyết có 
tính đặc thù trong pháp luật của một số quốc 
gia82. Từ đó, các tình tiết này giúp làm tăng 
tính thống nhất trong cách giải thích HĐ mua 
bán hàng hóa quốc tế.
Tuy nhiên, cách giải thích HĐ của Công 
ước Viên đã không giải quyết một số vấn đề và 
do đó, vẫn tạo ra những khoảng trống để cho 
cơ quan giải quyết tranh chấp (chủ yếu là tòa 
80 Peter Huber và Alastair Mullis, The CISG A new textbook for students and practitioners, Sellier, 2007, tr. 15.
81 CISG Advisory Council, Opinion No. 13 Inclusion of Standard Terms Under The CISG. Có tại:
gac.com/UserFiles/File/CISG%20Advisory%20Council%20Opinion%20No%2013%20Inclusion%20of%20
Standard%20Terms%20(FIN2).pdf(truy cập ngày 30/3/2016).
82 Xem thêm phần II(a) về đàm phán giữa các bên và “Quy tắc chứng cứ ngoại lai”.
lUAÄt
151Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016)
án) vận dụng nội luật của quốc gia mình. Bởi 
lẽ mục đích của Công ước Viên là nhằm thống 
nhất luật nội dung áp dụng cho hoạt động mua 
bán hàng hóa quốc tế, việc giải thích HĐ cần 
phải được thống nhất một cách tối đa để đảm 
bảo tính ổn định và có thể dự đoán được của 
các hoạt động ngoại thương.
Cụ thể, Công ước Viên đã không giải 
quyết tình huống khi mà cả hai bên đều 
có cách hiểu hoàn toàn khác nhau về một 
từ ngữ hoặc khi một bên mắc lỗi diễn đạt 
và bên kia đã đồng ý với diễn đạt lỗi đó. 
Trong những trường hợp này, việc áp dụng 
quy định của Công ước Viên sẽ dẫn đến một 
cách giải thích không phù hợp với mục đích 
và nội dung của HĐ83. Mặt khác, Công ước 
Viên cũng đã minh thị quy định tại điều 4 
rằng Công ước không quy định về các vấn đề 
liên quan đến hiệu lực của một điều khoản 
của HĐ hay của toàn bộ HĐ. Do đó, các tình 
huống liên quan đến nhầm lẫn của các bên 
sẽ dẫn đến một bất ổn không nhỏ về việc 
liệu HĐ có vô hiệu hay không. Bởi lẽ khi đó, 
nội luật của một quốc gia thành viên sẽ được 
áp dụng và một bên trong HĐ không đến từ 
quốc gia đó sẽ chịu bất lợi do không nắm 
vững luật pháp bằng bên kia.
Công ước Viên cũng không giải quyết vấn 
đề liên quan đến các điều khoản có tính quá 
bất lợi cho một bên hay khi một bên đưa vào 
quá nhiều điều khoản mẫu có lợi cho mình. 
Thực tế, các trường hợp này chính là sự hạn 
chế tự do HĐ gây ra bởi một bên có thế mạnh 
trong đàm phán. Công ước Viên bằng điều 4 
đã hoàn toàn để cho nội luật của các quốc gia 
thành viên giải quyết hiệu lực cũng như phạm 
vi của các điều khoản này. Điều này tương tự 
như đã nói ở trên sẽ tạo ra bất ổn do các bên 
thường không thể nắm vững pháp luật của 
nhau. Do đó, khả năng dự đoán của các bên 
về hậu quả của các điều khoản sẽ trở nên thiếu 
chính xác. Bởi lẽ khi đó, các điều khoản có 
lợi do một bên đưa vào có thể sẽ là không hợp 
pháp theo nội luật của bên kia. Mặt khác, nếu 
như chỉ áp dụng cách giải thích HĐ của Công 
ước Viên, bên mạnh thế sẽ luôn có xu hướng 
đặt ra các điều khoản mẫu bất lợi buộc bên kia 
phải chấp nhận.
Thực tiễn áp dụng Công ước Viên trong 
các vụ giải quyết tranh chấp về HĐ mua bán 
hàng hóa cho thấy rằng, cách giải thích của 
điều 8 được sử dụng để xác định các nội dung 
không rõ ràng trong HĐ và các xử sự không 
rõ ràng của một bên. Cụ thể, đó là sự im lặng 
của một bên trước các đề nghị của bên kia, 
giải thích các từ ngữ không rõ ràng trong HĐ, 
khả năng áp dụng các điều khoản mẫu của một 
bên, giải thích các thỏa thuận ngầm hiểu của 
các bên và những thỏa thuận thay đổi nội dung 
HĐ trong quá trình thực hiện. Trong đó, cơ 
quan giải quyết tranh chấp chủ yếu áp dụng 
cách giải thích dựa trên điều 8(2) của Công 
ước Viên, tức cách hiểu của một người hợp lý. 
Trong đó, các tình tiết liên quan đến thói quen 
và tập quán là những tình tiết được áp dụng 
nhiều nhất.q
83 Nếu một bên bán do nhầm lẫn mà đã chào hàng với giá 68.000 Phăng trong khi thực chất anh ta muốn chào hàng 
với giá 86.000 Phăng, một người hợp lý có cùng năng lực và trong hoàn cảnh tương tự như bên mua sẽ có thể không 
nhận ra rằng bên bán đã nhầm lẫn. Nếu bên mua chấp nhận chào hàng, điều 19(2) của Công ước Viên sẽ dẫn đến việc 
HĐ được giao kết với giá 68.000 Phăng hoàn toàn theo các quy định về giải thích HĐ (Edward Allan Farnsworth, 
Article 8 trong Bianca-Bonell Commentary on the International Sales Law, Giuffrè, 1987, trang 102).

File đính kèm:

  • pdfgiai_thich_hop_dong_theo_cisg_va_khuyen_nghi_cho_doanh_nghie.pdf