Giá trị thẩm mỹ của từ láy trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng

Truyện viết cho thiếu nhi là một thành

tựu quan trọng của Nguyễn Huy

Tưởng (1912 - 1960). Với nhóm tác

phẩm này, nhà văn mong muốn đem

đến cho các em những trang viết hấp

dẫn, cụ thể về lịch sử oai hùng của

cha ông qua hàng ngàn năm dựng

nước và giữ nước. Vì thế, ông “đã

không tiếc công vận dụng khả năng

miêu tả của mình để cho nó được

hiển thị như những thước phim điện

ảnh” (Lê Huy Anh, 2001: 304). Có thể

nói, chủ đích miêu tả nói trên đã mở

đường cho từ láy thâm nhập vào

truyện thiếu nhi của tác giả một cách

thường xuyên tạo nên phong cách

truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng.

Qua từng sáng tác, nhà văn đã không

ngừng phát huy tối đa nguồn lực từ

lớp từ này, khiến cho tác phẩm trở

nên dồi dào âm thanh, hình ảnh và

ngôn từ tinh tế.

pdf 9 trang kimcuc 4800
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị thẩm mỹ của từ láy trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị thẩm mỹ của từ láy trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng

Giá trị thẩm mỹ của từ láy trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng
48 
CHUYÊN MỤC 
VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC - NGHIÊN CỨU VĂN HÓA NGHỆ THUẬT 
GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA TỪ LÁY 
TRONG TRUYỆN THIẾU NHI NGUYỄN HUY TƯỞNG 
 LÊ NHẬT KÝ* 
Trong truyện viết cho thiếu nhi, Nguyễn Huy Tưởng sử dụng nhiều từ láy đôi, 
phù hợp với khả năng tiếp nhận của bạn đọc nhỏ tuổi. Dấu ấn sáng tạo của nhà 
văn được thể hiện qua việc kiến tạo một số từ láy tư, hoặc ở cách kết hợp với 
những từ ngữ khác. Từ láy làm cho nội dung miêu tả trở thành một lớp văn cơ 
bản trong tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng. Nhờ vậy, hiện thực đời sống lao 
động và chiến đấu của cha ông xưa đã được tái hiện một cách cụ thể, sinh động 
trong những câu văn giàu hình tượng và biểu cảm. 
Từ khóa: Nguyễn Huy Tưởng, từ láy, truyện thiếu nhi, miêu tả, biểu cảm 
Nhận bài ngày: 12/12/2018; đưa vào biên tập: 1/1/2019; phản biện: 5/3/2019; duyệt 
đăng: 31/7/2019 
1. ĐẶC ĐIỂM HỆ THỐNG TỪ LÁY 
TRONG TRUYỆN THIẾU NHI NGUYỄN 
HUY TƯỞNG 
Truyện viết cho thiếu nhi là một thành 
tựu quan trọng của Nguyễn Huy 
Tưởng (1912 - 1960). Với nhóm tác 
phẩm này, nhà văn mong muốn đem 
đến cho các em những trang viết hấp 
dẫn, cụ thể về lịch sử oai hùng của 
cha ông qua hàng ngàn năm dựng 
nước và giữ nước. Vì thế, ông “đã 
không tiếc công vận dụng khả năng 
miêu tả của mình để cho nó được 
hiển thị như những thước phim điện 
ảnh” (Lê Huy Anh, 2001: 304). Có thể 
nói, chủ đích miêu tả nói trên đã mở 
đường cho từ láy thâm nhập vào 
truyện thiếu nhi của tác giả một cách 
thường xuyên tạo nên phong cách 
truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng. 
Qua từng sáng tác, nhà văn đã không 
ngừng phát huy tối đa nguồn lực từ 
lớp từ này, khiến cho tác phẩm trở 
nên dồi dào âm thanh, hình ảnh và 
ngôn từ tinh tế. 
Qua 10 truyện ngắn tiêu biểu của nhà 
văn Nguyễn Huy Tưởng (2013), 
* 
Trường Đại học Quy Nhơn. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 
49 
chúng tôi tổng hợp được tổng cộng 
739 từ láy, 1.225 lượt dùng, cụ thể 
như sau: 
TT Tác phẩm 
Số từ 
láy 
Số lượt 
dùng 
1 Cô bé gan dạ 143 161 
2 Chiếc bánh chưng 82 96 
3 Truyện Tấm Cám 99 114 
4 Tìm mẹ 49 61 
5 Thằng Quấy 76 87 
6 Con Cóc là cậu ông 
Giời 
69 88 
7 Con chim Trĩ lông 
trắng 
19 20 
8 An Dương Vương 
xây thành Ốc 
86 108 
9 Hai bàn tay chiến sĩ 116 133 
10 Kể chuyện Quang 
Trung 
303 357 
Tổng cộng 1.225 
Thống kê cho thấy, từ láy được dùng 
ở mỗi tác phẩm ít nhiều có khác nhau. 
Điều này tùy thuộc vào dung lượng 
hiện thực mà nhà văn mong muốn thể 
hiện. Ví như truyện Con chim Trĩ lông 
trắng, Nguyễn Huy Tưởng chỉ tập 
trung vào nội dung chuyện con chim 
Trĩ “nhớ nước đã bỏ cành tuyết của 
phương Bắc bay về phương Nam với 
nắng vàng rực rỡ”. Nội dung ngắn gọn, 
được diễn tả trong khoảng 800 chữ 
nên số lượng từ láy dùng khá khiêm 
tốn (19 từ, 20 lượt dùng). Trong khi đó, 
ở Kể chuyện Quang Trung, nhà văn 
huy động tới gần 14.000 chữ để tái 
hiện cả một cuộc chiến chống ngoại 
xâm phương Bắc, bắt đầu từ cảnh 
đoàn quân áo vải hành quân thần tốc 
từ Phú Xuân ra Thăng Long cho đến 
các trận đánh ở Ngọc Hồi, Hạ Hồi 
Theo đó, số lượng từ láy được khai 
thác nhiều nhất, gấp nhiều lần so với 
9 tác phẩm của ông đã được thống kê: 
303 từ láy, 357 lượt dùng. 
Đặc điểm nổi bật của hệ thống từ láy 
trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy 
Tưởng là sự sáng rõ về ý nghĩa, 
không cầu kỳ về hình thức như vẫn 
thường gặp trong thơ văn dành cho 
các đối tượng độc giả khác. Đó là kết 
quả lựa chọn của Nguyễn Huy Tưởng 
từ nguồn từ vựng phổ biến sao cho 
vừa đạt được yêu cầu miêu tả, vừa 
phù hợp với đối tượng bạn đọc thiếu 
nhi. 
Dấu ấn sáng tạo của nhà văn được 
thể hiện ở cách điều phối, kết hợp từ 
ngữ với hai biểu hiện cơ bản sau đây: 
- Thứ nhất, kết hợp từ láy với từ láy, 
kiểu như: hãi hùng ngùn ngụt, hoang 
mang khủng khiếp, hoan hô vui vẻ (Kể 
chuyện Quang Trung), nhẹ nhàng 
uyển chuyển (Chiếc bánh chưng), um 
tùm lạnh lẽo (An Dương Vương xây 
thành Ốc) Trong trường hợp này, 
các từ láy được đặt cạnh nhau và 
không bị phân cách bởi dấu phẩy. Kết 
quả, chúng lập thành một tổ hợp ngôn 
ngữ “lâm thời” có dáng dấp của từ láy 
tư. Nguyễn Huy Tưởng đã thực hiện 
cách tổ hợp này tới 26 lần, làm gia 
tăng đáng kể khả năng miêu tả và 
biểu cảm của từ láy. 
- Thứ hai, kết hợp từ láy với một số từ 
ngữ khác vốn ít gặp trong giao tiếp 
thường ngày cũng như trong sáng tác 
 LÊ NHẬT KÝ – GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA TỪ LÁY TRONG TRUYỆN 
50 
văn chương. Cụ thể như những trường 
hợp sau: nhai gau gáu (Cô bé gan dạ), 
khóc nhếch nhác (Con Cóc là cậu ông 
Giời), đốt quẫy quẫy (Hai bàn tay 
chiến sĩ), đỏ ngàu ngàu, ướt luốt tuốt, 
chạy thang lang (Kể chuyện Quang 
Trung) 
Những kết hợp có phần táo bạo ở trên 
không vi phạm quy chuẩn về sự trong 
sáng của tiếng Việt, tạo được ấn 
tượng mạnh cho người đọc về phương 
diện ngôn ngữ tác phẩm. Đó chính là 
sự sáng tạo ngôn ngữ của Nguyễn 
Huy Tưởng. 
2. GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA TỪ LÁY 
TRONG TRUYỆN THIẾU NHI NGUYỄN 
HUY TƯỞNG 
2.1. Giá trị miêu tả 
Như đã nói, chú trọng miêu tả là 
phong cách nghệ thuật của nhà văn 
Nguyễn Huy Tưởng khi tái hiện thế 
giới cổ tích và lịch sử cho thiếu nhi. 
Xuất phát từ đặc điểm tiếp nhận của 
bạn đọc thiếu nhi, Nguyễn Huy Tưởng 
đã chọn lối văn miêu tả ngắn gọn, đủ 
để các em ghi nhớ về đặc điểm diện 
mạo và phẩm chất của đối tượng. Cố 
nhiên, nhà văn sẽ phải sử dụng nhiều 
loại từ khác nhau vào việc phục vụ 
yêu cầu miêu tả. Riêng với từ láy, 
không thể phủ nhận nó có ưu thế vượt 
trội khi giúp nhà văn chạm khắc đối 
tượng một cách sắc nét, hiệu quả. 
Không phải ngẫu nhiên mà trong 
truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng, 
chúng ta bắt gặp nhiều câu, đoạn văn 
có mật độ từ láy dày đặc. Đơn cử: 
“Mặt Giăng đang đỏ rực như lửa, 
bỗng mờ mờ đi, sáng nhạt nhạt, dịu 
dàng, mát mẻ, hiền lành” (Thằng 
Quấy); 
“Hai bàn tay bị đốt quẫy quẫy. Anh thít 
lên. Hai hàm răng anh nghiến lại. Thịt 
anh bắt đầu cháy xèo xèo, khét khét 
như mùi súc vật bị thui” (Hai bàn tay 
chiến sĩ); 
“Nhưng dưới khe sâu, người bố kêu 
thê thảm: Chúa làng giết tôi rồi! Và lá 
rừng rì rào: Chúa làng giết người! Núi 
thì thầm: Chúa làng giết người! Khe 
sâu róc rách: Chúa làng giết người!” 
(Tìm mẹ). 
Miêu tả được Nguyễn Huy Tưởng 
thực hiện thường xuyên trong mọi tác 
phẩm viết cho thiếu nhi. Nhờ vậy, 
truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng 
tạo được khoảng cách nghệ thuật 
cần thiết so với truyện kể dân gian 
vốn bị phương thức truyền miệng chi 
phối nên chấp nhận dừng lại ở mức 
độ trần thuật khái quát. Nói cách khác, 
truyện thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng 
được viết theo phong cách tự sự hiện 
đại, dành cho các độc giả có đủ khả 
năng tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm. 
Với những yếu tố ngoài cốt truyện, 
nhà văn, đặc biệt chú ý phát triển, gia 
tăng miêu tả thiên nhiên, miêu tả 
ngoại hình và đời sống tâm lý nhân 
vật 
Trong di sản truyện thiếu nhi của 
Nguyễn Huy Tưởng, có năm tác phẩm 
được ông sáng tác theo cách thức viết 
lại truyện cổ dân gian. Đó là các 
truyện: Chiếc bánh chưng, Tìm mẹ, 
Con Cóc là cậu ông Giời, Truyện Tấm 
Cám và An Dương Vương xây thành 
Ốc. Theo Nguyễn Thị Huế, truyện 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 
51 
Nguyễn Huy Tưởng “được viết ra từ 
nguồn truyện kể dân gian nhưng [] 
đã được ông đem thêm vào đó luồng 
không khí mới của văn chương và của 
tư tưởng thời đại, tạo nên những tác 
phẩm có sức hấp dẫn đối với mọi đối 
tượng bạn đọc” (Nguyễn Thị Huế 
2014). Làm nên “sức hấp dẫn” đó, 
không thể phủ nhận vai trò của các từ 
láy đã được Nguyễn Huy Tưởng sử 
dụng trong tác phẩm của mình. 
Lấy ví dụ truyện Con Cóc là cậu ông 
Giời. Trong truyện này, Nguyễn Huy 
Tưởng sử dụng tổng cộng 69 từ láy 
với 88 lượt dùng. Ngay từ đầu tác 
phẩm, dấu ấn miêu tả của ngòi bút 
Nguyễn Huy Tưởng bộc lộ rõ qua việc 
kể về cảnh hạn hán: “Ngày xửa ngày 
xưa, thuở ấy thế gian chưa có người, 
mới chỉ có cây cỏ, chim muông và các 
giống thú. Cây cỏ đang xanh, chim 
chóc đang bay lượn, ếch nhái đang 
nhảy nhót, thú dữ đang nghễu nghện 
đi từng đàn từng lũ, thì Giời ra tai một 
cơn hạn hán chưa từng có bao giờ. 
Cơn hạn hán ấy kéo hết tháng này 
đến tháng khác. Trên không, lúc nào 
cũng chỉ thấy mặt giời đỏ rực như cục 
than hồng, cháy rừng rực, rừng rực. 
Quả đất ngày cũng như đêm phừng 
phừng lửa. Ao chuôm sông ngòi bỗng 
cạn khô. Cây cỏ đang xanh bỗng 
cháy trụi. Ếch nhái đang nhảy nhót 
bỗng chết khô trong ao. Thú dữ đang 
nghễu nghện đi từng đàn từng lũ 
bỗng nằm lăn cả trong rừng trong 
núi”. Đối chiếu với đoạn văn tương tự 
sau đây trong truyện kể dân gian Cóc 
kiện Trời: “Nhưng đã ba năm nay, 
không có một giọt mưa nào. Khắp nơi 
đất đai nứt nẻ, cây cỏ khát nước chết 
rụi, các con thú cũng chết dần chết 
mòn vì khát. Muôn loài đều kêu than 
ai oán, vậy mà trời đâu có thấu” (Viện 
Văn học 2007: 29), có thể thấy sự 
khác biệt về miêu tả là khá rõ. Cụ thể, 
cả đoạn văn từ láy chỉ được sử dụng 
một lần là “đất đai nứt nẻ” khi miêu tả 
về tình trạng hạn hán. Trong khi đó, 
đoạn văn của Nguyễn Huy Tưởng sử 
dụng các từ láy rừng rực, hạn hán, 
phừng phừng, nhảy nhót, nghễu 
nghện tới 9 lần, vừa theo phương 
thức lặp lại, vừa bố trí chúng vào các 
câu văn có quan hệ đối lập về ngữ 
nghĩa. Nghệ thuật điệp và đối như 
vậy đã mang lại hiệu quả miêu tả rõ 
rệt. Cảnh hạn hán và nỗi điêu đứng 
của muôn vật dưới ánh mặt trời qua 
ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng hiện ra 
thật khủng khiếp, đáng sợ! 
Tương tự, khi khắc họa nhân vật Tấm 
(Truyện Tấm Cám), Nguyễn Huy 
Tưởng cũng sử dụng nhiều từ láy có 
tác dụng làm toát lên vẻ đẹp của một 
cô gái được sinh ra trong một gia đình 
có cha mẹ giàu lòng nhân ái: kháu 
khỉnh, dịu dàng, hồng hồng, chăm chỉ, 
ngoan ngoãn, thực thà, rực rỡ Khi 
cha mẹ mất, Tấm phải sống cuộc đời 
đày đọa dưới bàn tay độc ác của mẹ 
con dì ghẻ, nhà văn lại huy động tới 
những từ láy khác phù hợp hơn để 
diễn tả: làm lụng, đánh đập, thảm thiết, 
phũ phàng, nức nở, rách rưới 
Dường như mọi lớp truyện, mọi chi 
tiết của truyện kể dân gian đều được 
Nguyễn Huy Tưởng tìm cách phát huy, 
 LÊ NHẬT KÝ – GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA TỪ LÁY TRONG TRUYỆN 
52 
phát triển bằng năng lực tưởng tượng 
và vốn sống phong phú của bản thân 
nhà văn. Với sự ưu tiên như vậy nên 
so với cả một số cây bút hiện đại cùng 
khai thác đề tài truyện cổ, trung thành 
với lối viết trần thuật khái quát, thông 
tin ngắn gọn về nhân vật, sự việc thì 
Nguyễn Huy Tưởng vẫn có những 
khác biệt nhất định. Nguyễn Huy 
Tưởng chú tâm phát triển nhằm làm 
cho nội dung hiện thực được hiển thị 
chi tiết hơn, cụ thể hơn. Nhà văn 
Phong Thu có lý khi viết rằng: “Truyện 
kể miệng, có thể vắn tắt lướt qua. 
Nhưng truyện viết để đọc thì viết như 
Con Cóc là cậu ông Giời, giá trị văn 
học mới cao” (Phong Thu, 1999: 347). 
Nhận xét trên là về một tác phẩm cụ 
thể nhưng phù hợp với những trường 
hợp còn lại như An Dương Vương xây 
thành Ốc, Tìm mẹ, Chiếc bánh 
chưng 
Đối tượng miêu tả của Nguyễn Huy 
Tưởng trong truyện thiếu nhi bao gồm 
thiên nhiên ngoại cảnh, nhân vật và 
các sự kiện đời sống sinh hoạt và lịch 
sử. Như vậy, giá trị miêu tả của từ láy 
sẽ được xem xét dựa trên khả năng 
khắc họa từng đối tượng cụ thể đó. Là 
một ngòi bút có khuynh hướng sử thi 
hoành tráng nên dù viết về đề tài gì, 
Nguyễn Huy Tưởng đều “dồn” cho đối 
tượng những đường nét, tầm vóc 
hoặc được bao bọc bởi vầng hào 
quang lịch sử. Lưu ý tới điều này để 
thấy việc lựa chọn các yếu tố ngôn 
ngữ nói chung, từ láy nói riêng của 
Nguyễn Huy Tưởng cũng bị chi phối 
sâu sắc từ nguồn cảm hứng đậm chất 
sử thi này. 
Trong An Dương Vương xây thành Ốc, 
người đọc thật sự hứng khởi với đoạn 
văn tả nhà vua cùng thần Kim Quy trỏ 
thẳng kiếm đi diệt Kê tinh: “Nói xong, 
Kim Quy trỏ thẳng kiếm tiến lên phía 
trước. Lưỡi kiếm sáng như ánh giăng. 
An Dương Vương cũng trỏ thẳng kiếm, 
tiến sau. Lưỡi kiếm cũng sáng như 
ánh giăng. Hai lưỡi kiếm lấp loáng 
trong đêm tối. Vua và Kim Quy chạy 
như bay về gò Ông Cô”. Ở đoạn văn 
này, câu văn sử dụng từ láy lấp loáng 
thực sự là một điểm sáng, diễn tả 
được sự đồng hành tuyệt đối giữa 
thần và người trong cuộc chiến chống 
lại cái ác. Ở nghĩa trực tiếp, từ láy lấp 
loáng diễn tả sự hòa điệu của ánh 
sáng từ hai lưỡi kiếm, “chiếu thành vệt 
lúc ngắn lúc dài, khi có khi không, liên 
tiếp” (Viện Ngôn ngữ học 2001: 554). 
Trên nền nghĩa như vậy, người đọc 
nhận thấy hình tượng An Dương 
Vương bỗng nổi bật lên, đẹp hơn với 
tư thế của một con người chủ động, 
quyết đoán, dám đối diện với thế lực 
hắc ám. Về kỹ thuật, câu văn “Hai lưỡi 
kiếm lấp loáng trong đêm tối” là sự 
chuyển đổi hình thức miêu tả khác, 
tránh được cảm xúc đơn điệu nếu nhà 
văn tiếp tục lặp lại lần nữa cách nói 
“Lưỡi kiếm sáng như ánh giăng”. 
Ở truyện Kể chuyện Quang Trung, hệ 
thống từ láy khắc họa cảm hứng sử 
thi hoành tráng được Nguyễn Huy 
Tưởng sử dụng một cách đa dạng. 
Trước hết, đó là miêu tả thiên nhiên 
ngoại cảnh trên tư cách môi trường 
vận động của các nhân vật. Ông nói 
về “những vừng mây bụi đỏ ngàu 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 
53 
ngàu”; về những con sông “tiếng sóng 
đùng đùng”, “nước mênh mông lẫn 
vào trong bóng tối mịt mù”; về “con 
đường thiên lý gập ghềnh, khuất 
khúc”; về “những cánh đồng trơ gốc rạ 
mênh mông bát ngát” và cảnh kinh 
thành “đang cháy ngùn ngụt” Trên 
nền không gian ấy, nhà văn lần lượt 
khắc họa vẻ đẹp của người lính Tây 
Sơn với những gương mặt “lì lợm, 
dạn dày sương gió”, lúc nào cũng 
“đăm đăm nhìn về phía trước”, lúc 
chiến đấu thì “thoăn thoắt trèo thang 
lên ùn ùn”. Trái lại, về kẻ thù, Nguyễn 
Huy Tưởng cũng dùng không ít những 
từ láy để miêu tả bản chất đớn hèn khi 
lâm trận: “chúng mếu máo gọi nhau”, 
“viên tướng run rẩy chạy ra”, “chúng 
cứ chạy lúng túng như ếch vào xiếc”, 
“phó tướng hớt hơ hớt hải chạy lại” 
Những từ láy kể trên hầu hết đều 
hướng tới diễn tả cái động, diễn tả 
các sự kiện đang trong quá trình diễn 
biến. Nói cách khác, Nguyễn Huy 
Tưởng ít khi miêu tả hiện thực yên ả, 
trầm lặng mà hứng thú hơn với cái dữ 
dội, ẩn chứa nhiều biến động bất ngờ. 
Cố nhiên, sức mạnh của mỗi từ láy 
luôn phụ thuộc vào cách dùng linh 
hoạt của Nguyễn Huy Tưởng. Thường 
khi cần nhấn mạnh, nhà văn sẽ đặt từ 
láy ở trước động từ (thút thít khóc); 
lặp lại nhiều lần (ví dụ, trong Thằng 
Quấy, từ láy trùng trục được nhắc tới 
10 lần để tả ngoại hình nhân vật 
Quấy); hoặc kết hợp với so sánh để ý 
nghĩa thêm sáng rõ (lộng lẫy hơn ánh 
sáng, nhớn nhác như đàn gà). Sự linh 
hoạt cũng thể hiện ở việc nhà văn sử 
dụng những từ láy đồng nghĩa hay 
gần nghĩa, kiểu như: vui vẻ/vui vầy, 
mênh mông/mênh mang Với bạn 
đọc vốn ưa thích sự mới mẻ thì cách 
diễn đạt này lá khá phù hợp. 
Cũng cần nói thêm, trong một số 
trường hợp, từ láy có tác dụng nhân 
hóa sự vật, tạo nên sự hòa điệu giữa 
cái nhìn của nhà văn với cái nhìn của 
trẻ thơ. Có thể kể tới từ láy trong một 
số đoạn văn sau: “Nhưng dưới khe 
sâu, người bố kêu thê thảm: Chúa 
làng giết tôi rồi! Và lá rừng rì rào: 
Chúa làng giết người! Núi thì thầm: 
Chúa làng giết người! Khe sâu róc 
rách: Chúa làng giết người!” (Tìm mẹ); 
“Những làng mạc chung quanh ngơ 
ngác chưa biết chuyện gì” (Kể 
chuyện Quang Trung). 
Như vậy, miêu tả là một giá trị nổi bật 
của truyện thiếu nhi Nguyễn Huy 
Tưởng, là kết quả dụng công của một 
ngòi bút muốn tái hiện đời sống hiện 
thực một cách cụ thể, sinh động. Từ 
những trang văn miêu tả như vậy, bạn 
đọc còn cảm nhận được thái độ, tình 
cảm đầy tin yêu của nhà văn đối với 
cuộc sống. 
2.2. Giá trị biểu cảm 
Theo Hà Quang Năng: “Mỗi từ láy 
chứa đựng trong mình một sự thể 
hiện tinh tế, sinh động về sự cảm thụ 
chủ quan, về cách đánh giá và thái độ 
của người nói trước sự vật và hiện 
tượng của đời sống xã hội” (Hà 
Quang Năng, 2005: 3). Điều này có ý 
nghĩa tương đồng khi nói về giá trị 
biểu cảm của từ láy trong truyện thiếu 
nhi Nguyễn Huy Tưởng. 
 LÊ NHẬT KÝ – GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA TỪ LÁY TRONG TRUYỆN 
54 
Khác dân gian, Nguyễn Huy Tưởng 
trần thuật câu chuyện bằng giọng điệu 
nhuốm màu sắc chủ quan, thể hiện rõ 
cái yêu cái ghét của bản thân đối với 
từng nhân vật và sự kiện. Với đặc 
điểm trần thuật như vậy, Nguyễn Huy 
Tưởng tất yếu sẽ sử dụng từ láy như 
một giải pháp căn bản. Theo quan sát 
của chúng tôi, giá trị biểu cảm của từ 
láy trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy 
Tưởng thể hiện qua hai hình thức tổ 
chức ngôn ngữ của nhà văn. 
Trước hết, từ láy xuất hiện trong các 
đoạn văn có tính chất trữ tình ngoại 
đề, là lời trò chuyện trực tiếp của nhà 
văn với bạn đọc. Hình thức này được 
Nguyễn Huy Tưởng sử dụng ở khá 
nhiều tác phẩm, như: Chiếc bánh 
chưng, Con Cóc là cậu ông Giời, Hai 
bàn tay chiến sĩ Thường những 
đoạn trữ tình như vậy sẽ xuất hiện ở 
đầu hay cuối, hoặc cả đầu cả cuối tác 
phẩm. 
Với truyện Chiếc bánh chưng, Nguyễn 
Huy Tưởng chỉ trữ tình ở đầu tác 
phẩm: “Ngày tư chắc cũng có nhiều 
em ăn bánh chưng hàng, nhưng nó 
cũng như món quà thường, không có 
ý vị gì. Chỉ có bánh chưng ngày Tết 
mới thơm tho, mới ngon lành, mới quý. 
Nó là phần thưởng của công cày sâu 
cuốc bẫm, nó là tinh hoa của mùa 
màng. Nó còn đượm mùi đồng lúa; nó 
là kết quả của công sắm sửa, công 
gói, công đun của cả một gia đình 
trong muôn vàn gia đình chăm chỉ ở 
xứ sở Việt Nam ta. Cho nên tôi, riêng 
tôi, chỉ quý, chỉ yêu bánh chưng ngày 
Tết do cha mẹ tôi gói, do anh em tôi 
đun, những ngày gần hết năm, dưới 
con mắt che chở của tổ tiên”. 
Ngược lại, trong Hai bàn tay chiến sĩ 
và Con Cóc là cậu ông Giời, phương 
thức trữ tình ngoại đề được thực hiện 
ở cả đầu và cuối truyện: 
- Hai bàn tay chiến sĩ: “Tôi còn nhớ 
Hội nghị chiến sĩ toàn quân đầu năm 
1952. Bẩm lên báo cáo thành tích 
trước Hội nghị. Cả hội trường cảm 
động nhìn đôi bàn tay tàn tật của anh. 
Đôi bàn tay còng queo, teo lại. Các 
ngón tay đều cụt, một hai ngón còn lại 
thì dại đờ như mấy cây trơ trụi trong 
một cái vườn đã cháy hết” (đầu 
truyện); “Các em, đến đây tôi tạm 
ngừng câu chuyện chiến sĩ Bẩm. 
Chắc chắn rằng khi nghe kể, các em 
rất căm thù những kẻ độc ác đã hủy 
hoại đôi bàn tay của một con người. 
Đồng thời các em cũng thấy rõ cái giá 
trị của đôi bàn tay. Biết bao nhiêu bàn 
tay đã bị trụi, bị cụt như tay anh Bẩm 
để mở cho chúng ta cuộc sống hòa 
bình ngày nay. Chúng ta đang sống 
trong một xã hội không ai có quyền 
hủy hoại bàn tay của người khác. Mọi 
người quý trọng bàn tay của mọi 
người” (cuối truyện). 
- Con Cóc là cậu ông Giời: “Các em 
hãy trông con cóc kia. Hình thù nó xấu. 
Da nó sần sùi. Người ta có cảm tưởng 
rằng nó rất bẩn. Có người vừa thấy nó 
là đã rú lên rồi. Cóc sống một cuộc 
đời tối tăm. Nó không muốn ló ra 
ngoài, hình như nó cũng thấy rằng nó 
không được đẹp mắt cho lắm. Nhưng 
khoan! Đừng ghét nó mà tội nghiệp” 
(đầu truyện); “Từ đấy mỗi khi cóc 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 6 (250) 2019 
55 
nghiến răng thì thường thường là giời 
mưa xuống. Cóc oai như thế nên các 
cụ ta còn gọi Cóc là cậu ông Giời. Các 
cụ còn khuyên mọi người không nên 
đánh cóc. Tuy xấu xí nhưng nó rất có 
công và tốt bụng” (cuối truyện). 
Nội dung các trích đoạn trên là thông 
điệp cuộc sống mà nhà văn muốn 
truyền dạy cho các em. Cụ thể, đó là 
thái độ trân quý bánh chưng ngày Tết 
vì nó “mới thơm tho, mới ngon lành, 
mới quý”; là cách nhìn vật, nhìn người 
không qua hình thức, như con cóc 
“tuy xấu xí nhưng rất có công và tốt 
bụng”; và “không ai có quyền hủy hoại 
bàn tay của người khác”. Trong các 
thông điệp đó, từ láy xuất hiện ít 
nhưng gần như giữ vai trò “nhãn tự”, 
thể hiện một cách khái quát nhất, cốt 
lõi nhất tư tưởng tình cảm của nhà 
văn. 
Phổ biến hơn, đó là kết hợp biểu cảm 
với miêu tả, thông qua miêu tả nhà 
văn kín đáo gửi gắm tình cảm của 
mình vào trong từng câu chữ, trong đó 
có các từ láy. Chẳng hạn, trong đoạn 
văn nói về chị em Tấm sau đây, chúng 
ta thấy rõ lòng yêu mến Tấm của tác 
giả khi ông sử dụng hình thức miêu tả 
so sánh đối lập với sự tham gia của 
một số từ láy chỉ phẩm chất con người: 
“Má Tấm trắng hồng hồng, mặt Cám 
thì sần sùi da cóc (). Tấm chăm chỉ, 
ngoan ngoãn, lễ phép, thực thà bao 
nhiêu, thì Cám lười biếng, bướng bỉnh, 
hỗn láo, gian giảo bấy nhiêu” 
(Truyện Tấm Cám). Hoặc, trong 
những câu chữ sau, người đọc cảm 
nhận được sự đồng cảm sâu xa của 
nhà văn trước nỗi đau da thịt mà nhân 
vật Bẩm đang trải qua: “Hai bàn tay bị 
đốt quẫy quẫy. Anh thít lên. Hai hàm 
răng anh nghiến lại. Thịt anh bắt đầu 
cháy xèo xèo, khét khét như mùi súc 
vật bị thui”; “Anh đành chống tay 
xuống cát, chịu đựng sự hành hạ của 
đàn kiến lửa. Nước mắt Bẩm chảy 
ròng ròng” (Hai bàn tay chiến sĩ) 
Trong trường hợp này, sự tỏa sáng 
của từ láy rất cần tới nghệ thuật sử 
dụng khéo léo của nhà văn. Đối với 
người đọc, ngoài việc ngẫm từ trong 
ngữ cảnh còn cần phải biết hệ thống, 
gắn kết các từ lại với nhau để thông 
tin miêu tả và biểu cảm được tiếp 
nhận đầy đủ, trọn vẹn hơn. 
3. KẾT LUẬN 
Xuất phát từ yêu cầu miêu tả và biểu 
cảm, Nguyễn Huy Tưởng đã sử dụng 
một số lượng lớn từ láy trong truyện 
thiếu nhi của ông. Điều đó đảm bảo 
cho từ láy trở thành một thành phần 
cơ bản trong hệ thống ngôn ngữ 
truyện thiếu nhi. 
Đặc điểm chung của hệ thống từ láy 
trong truyện thiếu nhi Nguyễn Huy 
Tưởng là sự áp đảo của các từ láy đôi, 
sự quen thuộc và sáng rõ về mặt ý 
nghĩa từ vựng. Các từ láy đã được 
Nguyễn Huy Tưởng sử dụng vào việc 
tái hiện bức tranh đời sống lao động 
và chiến đấu của cha ông xưa cũng 
như nay. Trên cơ sở miêu tả đó, các 
từ láy cũng đồng thời truyền tải thái độ, 
tình cảm của nhà văn đối với con 
người và hiện thực. Tựu trung, đó là 
tình cảm tự hào, mến yêu của nhà văn 
đối với các giá trị vật chất, tinh thần do 
 LÊ NHẬT KÝ – GIÁ TRỊ THẨM MỸ CỦA TỪ LÁY TRONG TRUYỆN 
56 
cha ông tạo dựng và lưu truyền cho 
muôn đời. 
Việc sử dụng từ láy một cách thường 
xuyên đã góp phần làm nên lớp văn 
miêu tả trong truyện thiếu nhi Nguyễn 
Huy Tưởng. Điều đó khiến cho tác 
phẩm của ông mang phong cách truyện 
ngắn hiện đại, phù hợp và hấp dẫn 
thật sự đối với bạn đọc thiếu nhi. Đây 
là một kinh nghiệm tốt, hữu ích đối với 
việc rèn dạy học sinh làm văn miêu tả 
trong bối cảnh giáo dục hiện nay.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Hà Quang Năng. 2005. Dạy và học từ láy trong nhà trường phổ thông. Hà Nội: Nxb. 
Giáo dục. 
2. Lê Huy Anh. 2001. “Truyện Tìm mẹ”, Nguyễn Huy Tưởng khát vọng một đời văn. Hà 
Nội: Nxb. Văn học. 
3. Nguyễn Huy Tưởng. 2013. Những truyện hay viết cho thiếu nhi. Hà Nội: Nxb. Kim 
Đồng. 
4. Nguyễn Thị Huế. 2014. “Thế giới cổ tích của Nguyễn Huy Tưởng”,  
truy cập ngày 6/9/2018. 
5. Phong Thu. 1999. Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách mạng tháng Tám. 
Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 
6. Tô Hoài. 2004. 101 truyện ngày xưa. Hà Nội: Nxb. Văn học. 
7. Viện Ngôn ngữ học. 2001. Từ điển tiếng Việt, Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ 
điển. 
8. Viện Văn học. 2007. Tuyển tập văn học dân gian, Tập II, quyển 1. Hà Nội: Nxb. Giáo 
dục. 

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_tham_my_cua_tu_lay_trong_truyen_thieu_nhi_nguyen_huy.pdf