Giá trị tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là tác phẩm quan trọng trong kho tàng lý

luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những vấn đề quan trọng đối với phong trào cộng

sản và công nhân quốc tế được C. Mác và Ph. Ăngghen luận giải trong tác phẩm này

được xem là kim chỉ nam cho hành động của toàn bộ phong trào công nhân, là

cương lĩnh chính trị soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn

thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng loài người thoát khỏi mọi ách áp bức bóc

lột, xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, tự do và hạnh phúc. Ra đời cách đây hơn

170 năm, những học thuyết, nguyên lý trong Tuyên ngôn vẫn còn có những giá trị

đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam trong thời đại ngày nay.

pdf 7 trang kimcuc 16040
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Giá trị tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
63 
GIÁ TRỊ TÁC PHẨM “TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” 
ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 
Nguyễn Tiến Đảm1 
TÓM TẮT 
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là tác phẩm quan trọng trong kho tàng lý 
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những vấn đề quan trọng đối với phong trào cộng 
sản và công nhân quốc tế được C. Mác và Ph. Ăngghen luận giải trong tác phẩm này 
được xem là kim chỉ nam cho hành động của toàn bộ phong trào công nhân, là 
cương lĩnh chính trị soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn 
thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng loài người thoát khỏi mọi ách áp bức bóc 
lột, xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, tự do và hạnh phúc. Ra đời cách đây hơn 
170 năm, những học thuyết, nguyên lý trong Tuyên ngôn vẫn còn có những giá trị 
đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam trong thời đại ngày nay. 
Từ khóa: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, giá trị 
1. Mở đầu 
Không phải ngẫu nhiên khi bình 
minh của thế kỷ 21 vừa hé mở, ở nhiều 
diễn đàn khác nhau, các nhà khoa học 
chân chính vẫn khẳng định giá trị bền 
vững của học thuyết Mác, trong đó tác 
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản” giữ vị trí đặc biệt quan trọng. 
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản 
đã phát triển đến trình độ khá cao. Cùng 
với sự phát triển của nền đại công 
nghiệp ở các nước tư bản châu Âu, giai 
cấp công nhân hiện đại đã ra đời và sớm 
bước lên vũ đài chính trị đấu tranh 
chống lại giai cấp tư sản. Tuy nhiên, các 
cuộc đấu tranh của phong trào công 
nhân đến giữa thế kỷ XIX vẫn luôn thất 
bại trước sự đàn áp của giai cấp tư sản. 
Thực tế đó chứng tỏ, phong trào công 
nhân đòi hỏi bức thiết phải có một lý 
luận soi đường và một cương lĩnh chính 
trị làm kim chỉ nam cho hành động thực 
sự khoa học và cách mạng. 
Cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 
1847, Đại hội lần thứ hai của “Đồng 
minh những người cộng sản” đã thảo 
luận và thông qua những nguyên lý của 
Chủ nghĩa cộng sản do C. Mác và Ph. 
Ăngghen trình bày, bảo vệ; đồng thời 
đã ủy thác cho C. Mác và Ph. Ăngghen 
viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. 
Tác phẩm được hoàn thành và ra mắt 
đầu tiên vào ngày 18 tháng 3 năm 1848. 
Sự ra đời của bản văn kiện chính trị này 
không những là sản phẩm của trình độ 
chín muồi những điều kiện chính trị, 
kinh tế và xã hội đương thời mà còn là 
sự kết tinh những tinh hoa trí tuệ loài 
người, là công lao sáng tạo của C.Mác 
và Ph. Ăngghen. Với tác phẩm này, các 
nhà kinh điển C. Mác và Ph. Ăngghen 
đã luận giải sắc bén rất nhiều vấn đề về 
chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản, sứ 
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, 
vai trò của Đảng Cộng sản, về quy luật 
vận động và phát triển của xã hội 
Trong phạm vi của bài viết, tác giả chỉ 
tập trung phân tích một số luận điểm cơ 
bản nhất của tác phẩm có giá trị lý luận 
và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng 
và phát triển Việt Nam trong giai đoạn 
toàn cầu và hội nhập quốc tế hiện nay. 
1Trường Đại học Đồng Nai 
Email: tiendam1977@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
64 
2. Nội dung 
Sự ra đời của “Tuyên ngôn của 
Đảng Cộng sản” như chính là những lời 
tuyên bố của người cộng sản trước toàn 
thế giới “quan điểm, mục đích, ý đồ của 
mình... để đập lại một câu chuyện hoang 
đường về bóng ma cộng sản” [1, tr. 559], 
là lời hiệu triệu toàn thể giai cấp công 
nhân và nhân dân lao động thế giới 
cùng đấu tranh giải phóng giai cấp 
mình, giải phóng nhân dân lao động và 
tiến tới giải phóng toàn xã hội. Với tác 
phẩm này, những luận giải sâu sắc của 
C. Mác và Ph. Ăngghen không chỉ soi 
đường cho phong trào công nhân và 
cộng sản quốc tế lúc bấy giờ mà còn có 
giá trị thiết thực đối với Việt Nam trong 
giai đoạn hiện nay. Tiêu biểu nổi lên 
những vấn đề sau: 
Một là “Tuyên ngôn của Đảng 
Cộng sản” khẳng định hai nguyên lý 
của chủ nghĩa Mác: (1) Phương thức 
sản xuất và trao đổi kinh tế cùng với cơ 
cấu xã hội của phương thức đó quyết 
định sự hợp thành nền tảng của xã hội. 
(2) Lịch sử phát triển của xã hội có giai 
cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp. 
 Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, 
triết học, sử học xuất hiện một quan 
niệm khoa học và có hệ thống về lịch sử 
phát triển của xã hội loài người, về 
những động lực của phát triển lịch sử. 
Hai ông đã xuất phát từ sự vận động của 
đời sống kinh tế - xã hội mà phân tích 
xã hội, chính trị và văn hóa. Tuyên 
ngôn đã chỉ ra những nguyên lý cơ bản 
của chủ nghĩa duy vật biện chứng áp 
dụng triệt để trong lĩnh vực lịch sử, từ 
đó chỉ ra quy luật chung sự phát triển 
của xã hội loài người. Đây là cơ sở lý 
luận, phương pháp luận của chủ nghĩa 
Mác - Lênin. Học thuyết của C. Mác về 
hình thái kinh tế - xã hội đến nay vẫn 
giữ nguyên giá trị. 
Bằng thế giới quan khoa học duy 
vật, bằng phương pháp luận biện chứng, 
hai ông đã đi sâu phân tích những quy 
luật vận động của xã hội tư bản, vạch ra 
quy luật vận động kinh tế của xã hội tư 
bản là quy luật giá trị thặng dư, cũng 
tức là vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư 
bản. Phần lớn nội dung trong chương 1 
và chương 2 của Tuyên ngôn, C. Mác 
và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ sự đối lập 
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản; 
thế giới quan của giai cấp vô sản về đấu 
tranh giai cấp, về cách mạng vô sản và 
chuyên chính vô sản; thuyết minh sự 
diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, 
vai trò của giai cấp vô sản; phân định 
ranh giới giữa chủ nghĩa xã hội khoa 
học với các trào lưu xã hội chủ nghĩa 
khác (chủ nghĩa xã hội không tưởng). 
Kết quả sẽ là: “Xã hội tư bản sẽ bị thay 
thế bằng một xã hội khác tiến bộ hơn, 
phát triển hơn, đó là xã hội cộng sản”. 
Sự thay thế xã hội cũ bằng một xã hội 
mới tiến bộ hơn có liên quan trực tiếp 
tới phương thức sản xuất xã hội: “Chúng 
ta thấy rằng bản thân giai cấp tư sản hiện 
đại cũng là sản phẩm của một quá trình 
phát triển lâu dài, của một loạt những 
cuộc cách mạng trong phương thức sản 
xuất và trao đổi” [1, tr. 598]. Khẳng định 
trên thể hiện chính các quy luật khách 
quan, quy luật của chính bản thân cấu 
trúc hình thái kinh tế - xã hội, hệ thống 
các quy luật xã hội chi phối sự vận động 
và phát triển của lịch sử nhân loại, mà 
trước hết và cơ bản nhất là quy luật 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
65 
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình 
độ phát triển của lực lượng sản xuất. 
Xuyên suốt tiến trình lịch sử, chủ nghĩa 
tư bản là một giai đoạn phát triển trong 
lịch sử xã hội loài người. Cùng với sự 
phát triển không ngừng của lực lượng 
sản xuất, chế độ xã hội chủ nghĩa tất 
yếu khách quan sẽ thay thế chế độ tư 
bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, để xây 
dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội cần 
tập trung phát triển lực lượng sản xuất. 
Phát triển lực lượng sản xuất không chỉ 
làm cho dân giàu, nước mạnh, mà còn 
là con đường hiện thực hóa sự ưu việt 
của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa 
tư bản. 
Trong Cương lĩnh xây dựng đất 
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), 
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: 
“Nền kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản 
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát 
triển của lực lượng sản xuất; có nhiều 
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh 
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò 
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động 
lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ 
thể thuộc các thành phần kinh tế bình 
đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp 
luật” [2, tr. 102]. 
Hai là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản” khẳng định giai cấp vô sản chỉ có 
thể tự giải phóng khỏi tình trạng bị áp 
bức bóc lột, nếu đồng thời và vĩnh viễn 
giải phóng toàn bộ xã hội khỏi tình 
trạng bị áp bức bóc lột, phân chia giai 
cấp và đấu tranh giai cấp. 
Hạt nhân chủ đạo “Tuyên ngôn của 
Đảng Cộng sản” là: Phương thức chủ 
yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi 
cùng với cơ cấu xã hội do phương thức 
đó quyết định đã cấu thành cơ sở cho 
lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử 
của sự phát triển trí tuệ của thời đại. 
Do đó, toàn bộ lịch sử của nhân loại có 
giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai 
cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bóc 
lột và những giai cấp bị bóc lột, giữa 
giai cấp thống trị và giai cấp bị áp bức. 
Giai cấp vô sản không thể tự giải 
phóng mình, nếu không đồng thời giải 
phóng toàn xã hội, giải phóng con 
người khỏi ách bóc lột, áp bức, khỏi 
tình trạng phân chia giai cấp và áp bức 
giai cấp. Tức giải phóng giai cấp, giải 
phóng dân tộc, giải phóng nhân loại 
đồng thời đều là sứ mệnh của giai cấp 
công nhân “Những vũ khí mà giai cấp 
tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ 
phong kiến thì ngày nay quay lại đập 
vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng 
giai cấp tư sản không những đã rèn 
những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo 
ra những người sử dụng vũ khí ấy - 
những công nhân hiện đại, những 
người vô sản” [1, tr. 604]. Giai cấp vô 
sản hiện đại là người có sứ mệnh đào 
huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và và xây 
dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Sứ 
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô 
sản là tất yếu khách quan do địa vị 
kinh tế - xã hội và đặc điểm chính trị - 
xã hội của giai cấp vô sản quy định. 
Giai cấp vô sản Việt Nam hoàn toàn có 
khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử 
thế giới của mình, do họ là giai cấp 
tiên tiến gắn liền với nền đại công 
nghiệp, lớn lên cùng nền đại công 
nghiệp; là sản phẩm của nền đại công 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
66 
nghiệp, đại biểu cho xu hướng tiến lên 
của đại công nghiệp. 
Mục tiêu, lý tưởng cao nhất của giai 
cấp vô sản là đi đến xã hội xã hội chủ 
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa - nơi con 
người được giải phóng và được tạo điều 
kiện phát triển toàn diện, hài hòa. Để 
đạt được mục tiêu nhân văn cao cả đó, 
C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, nếu 
xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn 
dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng 
sẽ bị xóa bỏ, khi mà sự đối kháng giữa 
các giai cấp không còn nữa thì sự đối 
kháng giữa các dân tộc sẽ mất theo. Với 
quan điểm trên, hai nhà kinh điển muốn 
nhấn mạnh mối quan hệ giữa dân tộc và 
giai cấp, dân tộc và nhân loại và để thực 
hiện thành công sự nghiệp này phải tiến 
hành cuộc đấu tranh giai cấp và giải 
quyết một cách phù hợp các quan hệ 
giữa giai cấp - dân tộc - quốc tế. 
Trong suốt quá trình lãnh đạo sự 
nghiệp cách mạng Việt Nam, đường lối, 
chủ trương của Đảng ta về giải quyết 
quan hệ giữa giai cấp - dân tộc - quốc tế 
từng bước được bổ sung, phát triển và 
hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Căn cứ 
vào đặc điểm tình hình quốc tế và trong 
nước, xuất phát từ nhiệm vụ trọng yếu 
của cách mạng ở mỗi giai đoạn vào 
từng thời kỳ khác nhau, Đảng ta luôn 
nắm vững nguyên lý của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn 
Việt Nam để từ đó giải quyết mối quan 
hệ giữa giai cấp - dân tộc - quốc tế một 
cách biện chứng, hài hòa. Thắng lợi 
trong công cuộc đấu tranh giành độc lập 
cho dân tộc và những thành tựu to lớn 
trong công cuộc đổi mới chính là những 
minh chứng tiêu biểu cho việc kết hợp 
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 
để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ 
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
Ba là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản” công khai trình bày trước toàn bộ 
thế giới về chiến lược, sách lược của 
Đảng Cộng sản và đập tan những hư 
truyền về “bóng ma cộng sản” mà các 
thế lực chính trị phản động đang loan 
truyền ở châu Âu lúc bấy giờ [2, tr. 8]. 
Trong lời tựa viết cho bản tiếng 
Anh của C. Mác và Ph. Ăngghen năm 
1888: “Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản” là Cương lĩnh của Đồng minh 
những người Cộng sản, công bố công 
khai với toàn thế giới những nguyên lý 
của Đảng Cộng sản. Bản Cương lĩnh 
này gọi là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản” mà không gọi là “Tuyên ngôn xã 
hội chủ nghĩa” là để phân biệt tính chất 
giai cấp của phong trào cộng sản với 
các trào lưu xã hội chủ nghĩa đương 
thời [3, tr. 15]. 
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản” là cương lĩnh mang tầm thế giới 
đầu tiên của các đảng cộng sản, là lá cờ 
tiên phong của giai cấp công 
nhân. Trong Tuyên ngôn, C. Mác và Ph. 
Ăngghen đã chỉ rõ tôn chỉ căn bản của 
đảng cộng sản chính là mưu cầu lợi ích 
cho nhân dân: “Tất cả những phong trào 
lịch sử, từ trước đến nay, đều là do thiểu 
số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho 
thiểu số. Phong trào vô sản là phong 
trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi 
ích cho khối đại đa số” [1, tr. 611]. Mục 
đích trực tiếp của các đảng cộng sản là 
phải giành lấy chính quyền: “Mục đích 
trước mắt của những người cộng sản 
cũng là mục đích trước mắt của tất cả 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
67 
các đảng vô sản khác: tổ chức những 
người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự 
thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô 
sản giành lấy chính quyền” [1, tr. 615]. 
Trong chương 4, hai ông khẳng 
định lập trường kiên định của Đảng 
Cộng sản về những vấn đề chiến lược 
và sách lược mềm dẻo của Đảng đối với 
các Đảng Xã hội, Dân chủ Tư sản hoặc 
Tiểu tư sản đang đối lập với các thế lực 
phản động cầm quyền ở các nước Pháp, 
Thụy Sĩ, Đức, Ba Lan... lúc bấy giờ. Ở 
đây đã thể hiện tư tưởng cách mạng 
không ngừng, có ý nghĩa chỉ đạo chiến 
lược đối với phong trào cộng sản và 
công nhân quốc tế và là kim chỉ nam soi 
sáng con đường tiến lên chủ nghĩa xã 
hội ở các nước có trình độ chậm phát 
triển về kinh tế. Về con đường biện 
pháp cách mạng, theo C. Mác và 
Ph.Ăngghen chỉ rõ phải bằng bạo lực: 
“Mục đích của những người cộng sản 
chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo 
lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có. 
Trong cuộc cách mạng ấy, những người 
vô sản không mất gì hết ngoài những 
xiềng xích trói buộc họ. Trong cuộc 
cách mạng ấy họ giành được cả một thế 
giới về mình” [1, tr. 615]. 
Không chỉ lý giải vai trò của đảng, 
Tuyên ngôn đã khẳng định quan điểm 
và mục tiêu nhất quán của những người 
cộng sản: “Những người cộng sản 
không phải là một đảng riêng biệt, đối 
lập với các đảng công nhân khác. Họ 
tuyệt nhiên không có một lợi ích nào 
tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp 
vô sản” [1, tr. 614] và “Những người 
cộng sản chiến đấu cho những mục 
đích và những lợi ích trước mắt của 
giai cấp công nhân, nhưng đồng thời 
trong phong trào hiện tại, họ cũng bảo 
vệ và đại biểu cho tương lai của phong 
trào” [1, tr. 644]. 
Kết thúc bản cương lĩnh chính là 
khẩu hiệu đanh thép của người lãnh tụ 
cách mạng: “VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC 
NƯỚC ĐOÀN KẾT LẠI” [1, tr. 1]. Kết 
luận đầy niềm tin và khẩu hiệu chiến 
đấu đầy sức mạnh của tuyên ngôn luôn 
vang lên như hồi kèn xung trận của giai 
cấp vô sản trên toàn thế giới trong cuộc 
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản vì 
thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. 
 Đảng Cộng sản Việt Nam, từ ngày 
thành lập đến nay, luôn tận tâm, tận lực 
phấn đấu vì Tổ quốc Việt Nam, vì con 
người Việt Nam, lấy lợi ích dân tộc làm 
động lực của mình, lấy ý nguyện nhân 
dân làm sứ mệnh của mình. Trong 
đường lối cách mạng, Đảng ta luôn 
quán triệt và vận dụng tư tưởng cốt lõi 
của Tuyên ngôn, coi công tác xây dựng 
Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đại hội 
XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây 
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về 
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” 
là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống 
còn đối với Đảng và sự nghiệp cách 
mạng của nhân dân ta, trong đó “Cán bộ 
là nhân tố quyết định sự thành bại của 
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của 
Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu 
then chốt” [4, tr. 65]. Với tinh thần nhìn 
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh 
giá đúng sự thật, Đảng ta đã chỉ ra một 
trong những nguy cơ thách thức ở nước 
ta hiện nay, đó là “Tình trạng suy thoái 
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống 
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
68 
đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ 
phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp 
hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn 
còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng 
viên có chức vụ trong bộ máy nhà 
nước” [5, tr. 3] và hậu quả là đã “làm 
giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm 
tổn thương tình cảm và suy giảm niềm 
tin của nhân dân đối với Đảng, là một 
nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong 
của Đảng và chế độ” [5, tr. 3]. Đứng 
trước vấn đề trên, Đảng ta khẳng định 
quyết tâm tăng cường xây dựng, chỉnh 
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy 
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối 
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, 
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Hiện thực 
hóa lý tưởng và những giá trị cao quý 
trong “Tuyên ngôn” không những có ý 
nghĩa lý luận và thực tiễn đối với công 
tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, 
mà còn là con đường tất yếu đối với sự 
phát triển của Việt Nam. 
Nhìn lại thực tiễn lịch sử, hơn 170 
năm qua, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng 
sản” đã có những ảnh hưởng sâu sắc đối 
với sự phát triển của toàn thế giới, trong 
đó có Việt Nam. Xóa bỏ áp bức, bóc lột 
và bất công, xây dựng một xã hội tốt 
đẹp, bình đẳng, công bằng “sẽ xuất hiện 
một liên hợp, trong đó sự phát triển tự 
do của mỗi người là điều kiện cho sự 
phát triển tự do của tất cả mọi người” 
[1, tr. 628] là lý tưởng cao quý và đậm 
tính nhân văn của chủ nghĩa Mác. 
Trong bối cảnh thế giới hiện nay với 
nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp, 
những tư tưởng, nguyên lý nền tảng 
trong Tuyên ngôn vẫn còn nguyên giá 
trị và sức sống, bởi chủ nghĩa Mác được 
xây dựng trên cơ sở khoa học, xuất phát 
từ thực tiễn, soi sáng cho thực tiễn và 
tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện bằng 
thực tiễn mới. Tiếp tục nghiên cứu, vận 
dụng sáng tạo những nguyên lý khoa 
học, cách mạng và nhân văn trong 
Tuyên ngôn có ý nghĩa to lớn đối với sự 
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước 
Việt Nam hiện nay. 
3. Kết luận 
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” 
là văn kiện mang tính cương lĩnh của 
phong trào cộng sản và công nhân quốc 
tế, nó đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa 
Mác - Lênin. Tuy chỉ là một tập sách 
hơn 100 trang, nhưng “cuốn sách nhỏ 
ấy có giá trị bằng hàng ngàn bộ sách”. 
Ngay từ khi ra đời, những quan 
điểm, tư tưởng trong Tuyên ngôn được 
coi cương lĩnh chính trị, là kim chỉ nam 
cho hành động của toàn bộ phong trào 
công nhân và cộng sản quốc tế, là ngọn 
cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân 
dân lao động toàn thế giới trong cuộc 
đấu tranh giải phóng loài người thoát 
khỏi mọi ách áp bức bóc lột giai cấp, 
xây dựng cuộc sống trong tự do, hòa 
bình, hạnh phúc. Khi nghiên cứu 
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” cần 
nắm vững hoàn cảnh ra đời, những tư 
tưởng cơ bản, những nguyên lý cơ bản 
của chủ nghĩa cộng sản khoa học được 
C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày trong 
tuyên ngôn để soi đường cho nhận thức 
khoa học và phương pháp tư duy của 
mình, không thần bí hóa, không coi 
những nguyên lý đó là những tín điều 
bất di bất dịch bất chấp mọi sự đổi thay 
của hoàn cảnh lịch sử. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 13 - 2019 ISSN 2354-1482 
69 
Không chỉ phát huy ảnh hưởng lớn 
lao của mình trong quá khứ, “Tuyên 
ngôn của Đảng Cộng sản” còn có những 
giá trị đặc biệt quan trọng trong thời đại 
ngày nay. Tư tưởng chủ đạo và những 
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng 
sản khoa học của Tuyên ngôn luôn là bó 
đuốc soi đường, là kim chỉ nam hành 
động, bảo đảm cho sự nghiệp cách 
mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự 
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản 
Việt Nam luôn đi từ thắng lợi này đến 
thắng lợi khác. Trong sự nghiệp đổi mới 
hiện nay, việc nghiên cứu và nắm vững 
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa 
cộng sản trong “Tuyên ngôn của Đảng 
Cộng sản” có ý nghĩa thiết thực, quan 
trọng trong tiến trình hiện thực hóa mục 
tiêu xây dựng đất nước Việt Nam “dân 
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, 
văn minh”. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 
3. Hoàng Minh Hiền - Phạm Thị Quế Trân (2013), “Giới thiệu tác phẩm kinh 
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp khoa năm 2013, 
trường Đại học Đồng Nai 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung 
ương (1996 -1999), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2016), Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 
30/10/2016, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về 
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng 
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong 
nội bộ 
THE VALUE OF WORK “THE COMMUNIST PARTY’S 
DECLARATION” FOR VIETNAM IN THE CURRENT PERIOD 
ABSTRACT 
“The Communist Party's Declaration” is an important work in the theoretical 
treasure of Marxism-Leninism. Important issues for the communist movement and 
international workers are explained by Mark and Friedrich Angels in this work are 
considered a guideline for the action of the entire worker movement, the political 
platform for the working class and the working people of the world in the struggle 
for humankind freedom from every yoke of exploitation, building a good social with 
regime, freedom and happiness. Published more than 170 years ago, the doctrines 
and principles of the Declaration still have values that are especially important to 
Vietnam nowadays. 
Keywords: The Declaration of the Communist Party, value 
(Received: 13/11/2018, Revised: 14/3/2019, Accepted for publication: 7/5/2019) 

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_tac_pham_tuyen_ngon_cua_dang_cong_san_doi_voi_viet_n.pdf