Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc là sự khẳng định vị trí,

vai trò của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các quyền sống, tự do, hạnh

phúc và phát triển được thể hiện trên các mặt của đời sống. Do đó, đoàn kết, bình đẳng, tương trợ

giữa các dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng lớn, chứa đựng những giá trị lý luận và

thực tiễn vô cùng sâu sắc đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam, yếu tố quan trọng hàng đầu để

cách mạng đi đến thắng lợi, là cơ sở, nền tảng cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà

nước trong mọi giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong tiến trình xây dựng thành công sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

pdf 6 trang kimcuc 10380
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 11 - 16 
 11
GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT, BÌNH ĐẲNG, 
TƯƠNG TRỢ GIỮA CÁC DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 
Vũ Thị Thủy*, Phạm Thị Huyền 
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc là sự khẳng định vị trí, 
vai trò của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các quyền sống, tự do, hạnh 
phúc và phát triển được thể hiện trên các mặt của đời sống. Do đó, đoàn kết, bình đẳng, tương trợ 
giữa các dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng lớn, chứa đựng những giá trị lý luận và 
thực tiễn vô cùng sâu sắc đối với thực tiễn cách mạng Việt Nam, yếu tố quan trọng hàng đầu để 
cách mạng đi đến thắng lợi, là cơ sở, nền tảng cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà 
nước trong mọi giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trong tiến trình xây dựng thành công sự nghiệp 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Từ khóa: Đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, chính sách dân tộc, dân tộc. 
ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình 
đẳng, tương trợ giữa các dân tộc là kim chỉ 
nam cho lập trường của giai cấp công nhân 
trong giải quyết quan hệ dân tộc ở Việt Nam 
với nội dung phong phong phú, gồm quan 
điểm về đoàn kết giữa các dân tộc, bình đẳng 
giữa các dân tộc, và tương trợ giữa các dân 
tộc; trong đó, đoàn kết giữa các dân tộc là một 
di sản tư tưởng quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh đối với vấn đề dân tộc ở Việt Nam, là một 
hệ thống những quan điểm sâu sắc và toàn diện 
về mối quan hệ dân tộc theo tinh thần giúp đỡ 
lẫn nhau cùng phát triển, thực hiện quyền bình 
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, phát 
huy tiềm năng thế mạnh của khu vực dân tộc 
miền núi, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, cùng 
nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam 
độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh và văn 
minh; còn bình đẳng giữa các dân tộc trong tư 
tưởng của Hồ Chí Minh là hệ thống luận điểm 
về tính tất yếu, con đường, phương thức thực 
hiện thực hóa quyền bình đẳng giữa các dân tộc 
trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Điều quan 
trọng, bình đẳng giữa các dân tộc luôn gắn với 
tăng cường đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ lẫn 
nhau cùng tiến bộ, nhằm làm cho đồng bào các 
dân tộc ngày càng được hưởng đầy đủ những 
giá trị vật chất và tinh thần trên thực tế. Đối với 
tương trợ giữa các dân tộc trong tư tưởng Hồ 
Chí Minh là sự bắt nguồn và tiếp nối truyền 
* Tel: 0982633373; Email: vuthuy.dhsptn@gmail.com 
thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt 
Nam, điều đặc biệt trong tư duy biện chứng của 
mình, Người luôn coi trọng và đề cao tinh thần 
tương trợ giữa các dân tộc và theo Người, tinh 
thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển 
giữa các dân tộc muốn lâu dài, bền vững phải 
được dựa trên những nguyên tắc cơ bản chung 
cao nhất là bảo đảm giải quyết hài hòa các lợi 
ích giữa các tộc người trên tinh thần đoàn kết, 
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. 
Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn 
kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc 
được tạo thành một chỉnh thể có mối quan 
hệ biện chứng, trong đó “bình đẳng” là nền 
tảng trong mối quan hệ dân tộc và chính 
sách dân tộc, là yếu tố làm nên sự đoàn kết 
vững chắc và tương trợ giúp đỡ lẫn nhau 
giữa các dân tộc; “đoàn kết” là biểu hiện 
thực hiện bình đẳng, còn “tương trợ” giúp 
đỡ nhau là điều kiện để thực hiện bình đẳng 
và đoàn kết trong quan hệ dân tộc. 
NỘI DUNG 
Giá trị lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh 
về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các 
dân tộc 
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, 
bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc góp 
phần cụ thể hóa và phát triển quan điểm của 
chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc ở 
một quốc gia đa dân tộc 
Quá trình đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ 
Chí Minh không chỉ tìm được con đường cứu 
Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 11 - 16 
 12
nước mà còn trang bị cho mình một nhân sinh 
quan mới, tìm thấy con đường phát triển của 
một đất nước còn lạc hậu, kém phát triển như 
Việt Nam. Ðây là quá trình Hồ Chí Minh tìm 
hiểu và vận dụng những nguyên lý cách mạng 
và học thuyết của các nhà kinh điển vào điều 
kiện cụ thể của Việt Nam một cách phù hợp. 
Chính trong quá trình đó, Người không chỉ 
thành công trong việc vận dụng một học 
thuyết vốn có cơ sở thực tế từ xã hội phương 
Tây tư bản chủ nghĩa vào thực tiễn một nước 
thuộc địa, nông nghiệp, chưa phát triển như 
Việt Nam, mà còn góp phần bổ sung, phát 
triển học thuyết Mác-Lênin trên những 
phương diện mà thực tiễn cách mạng Việt 
Nam đòi hỏi, trong đó nổi bật là một số nội 
dung lý luận về giải quyết vấn đề dân tộc ở 
một quốc gia đa dân tộc và có lịch sử lâu đời 
như Việt Nam. 
Trên thực tế, vấn đề dân tộc đã được C.Mác 
và Ph.Ăngghen đề cập, luận giải trong nhiều 
tác phẩm. Các ông đã đứng trên lập trường 
chân chính của giai cấp vô sản, kiên quyết 
đấu tranh chống lại các quan điểm dân tộc 
hẹp hòi, vị kỷ của giai cấp tư sản. Trong thực 
tiễn, hai ông đã kiên quyết chống lại ách áp 
bức bóc lột các dân tộc khác của giai cấp tư 
sản. Điều quan trọng, để giải quyết vấn đề 
dân tộc một cách triệt để trên lập trường giai 
cấp vô sản, hai ông chủ trương phải tiến hành 
cách mạng xã hội chủ nghĩa, thủ tiêu Nhà 
nước tư sản, xây dựng nhà nước xã hội chủ 
nghĩa và sự nghiệp cách mạng đó phải do giai 
cấp công nhân cùng với chính đảng cách 
mạng của nó lãnh đạo. 
Dựa vào lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen 
về vấn đề dân tộc, tổng kết kinh nghiệm của 
giai cấp vô sản Nga trong quá trình giải quyết 
vấn đề dân tộc, gắn liền với yêu cầu của cách 
mạng vô sản, Lênin đã đề ra Cương lĩnh về 
vấn đề dân tộc, với nội dung khái quát: “Các 
dân hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được 
quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các 
dân tộc lại” [1, tr.375]. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Cộng sản Việt 
Nam đầu tiên xem xét và giải quyết đúng đắn 
vấn đề dân tộc theo học thuyết Mác - Lênin trên 
cơ sở vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng 
đó vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Nghĩa 
là, Hồ Chí Minh không chỉ là người tìm đến và 
đưa các cơ sở lý luận về vấn đề dân tộc của các 
nhà kinh điển vào Việt Nam mà còn là người 
kiến tạo việc ứng dụng các nguyên tắc về vấn 
đề dân tộc của các ông vào thực tiễn cách 
mạng Việt Nam một cách biện chứng, với 
quan niệm: các nội dung cơ bản về vấn đề dân 
tộc phải được thực hiện thông qua hệ thống 
chính trị, thông qua chính sách dân tộc. Đó 
cũng là nguyên tắc được Người quán triệt và 
chỉ đạo trong suốt quá trình cách mạng Việt 
Nam, Người yêu cầu: “Các cấp bộ Đảng phải 
thi hành đúng chính sách dân tộc, thực hiện 
sự đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các 
dân tộc” [2, tr.231]. Từ yêu cầu này, đối với 
đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc 
được Người nhận thức và giải quyết rất nhuần 
nhuyễn. 
Về nội dung đoàn kết, Hồ Chí Minh đề ra chủ 
trương kế thừa và nâng cao một bước nội 
dung đoàn kết trong giải quyết vấn đề dân tộc 
ở Việt Nam. Thực chất, nội hàm vấn đề đoàn 
kết của Hồ Chí Minh thể hiện bản chất sáng 
tạo so với các nội dung đoàn kết trước đó mà 
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin 
đưa ra và luận giải. Bởi lẽ, tư tưởng Hồ Chí 
Minh về đoàn kết các dân tộc được đặt trong 
bối cảnh và yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng 
đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng 
đất nước vì sự phát triển của dân tộc - quốc 
gia và sự phát triển của mỗi thành phần dân 
tộc. Đó là hệ thống các vấn đề mang tính toàn 
diện liên quan đến mục tiêu rút ngắn khoảng 
cách phát triển giữa các tộc người trong cộng 
đồng quốc gia Việt Nam; được xuất phát từ 
tình hình đặc điểm của các tộc người và 
nhiệm vụ cách mạng cụ thể trong từng giai 
đoạn. Điều quan trọng hơn, đoàn kết các dân 
tộc trong quan điểm của Hồ Chí Minh là bình 
đẳng, tương trợ và tôn trọng lẫn nhau, giữ gìn, 
phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc. 
Về nguyên tắc bình đẳng, Hồ Chí Minh đã đề 
ra nội dung bình đẳng và luôn được coi trọng 
trong việc hoạch định chính sách dân tộc qua 
các thời kỳ. 
Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh 
rằng, bình đẳng là yếu tố không thể thiếu 
trong mối quan hệ dân tộc, yếu tố làm nên sự 
Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 11 - 16 
 13
đoàn kết vững chắc của các dân tộc. Trong tư 
tưởng Hồ Chí Minh, giá trị của bình đẳng 
được xuất phát từ quan điểm của Lênin về 
vấn đề dân tộc, từ chính đặc thù của quốc gia 
đa dân tộc Việt Nam, với các thành phần dân 
tộc phát triển không đồng đều về chính trị, 
kinh tế, văn hóa, xã hội. Do đó, chính sách 
dân tộc của Hồ Chí Minh là nhằm mục đích 
để các dân tộc rút ngắn khoảng cách phát 
triển, làm chủ đất nước, vận mệnh của mình. 
Theo đó, chỉ có thực sự bình đẳng thì các mục 
tiêu đặt ra mới được hiện thực hóa. 
Đối với vấn đề tương trợ, Chủ tịch Hồ Chí 
Minh luôn trân trọng và đề cao tinh thần 
tương trợ giữa các dân tộc. Tương trợ là một 
nguyên tắc vừa mang tính pháp lý, vừa phù 
hợp với truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện 
tinh thần tương thân, tương ái trong cộng 
đồng các dân tộc ở nước ta. 
Rõ ràng, tư tưởng đoàn kết, bình đẳng, tương 
trợ giữa các dân tộc của Hồ Chí Minh đã cho 
thấy, trong giải quyết vấn đề dân tộc, Người 
luôn coi trọng việc thực hiện chính sách dân 
tộc và coi vấn đề dân tộc có tầm quan trọng 
chiến lược; đánh giá cao vai trò, vị trí của các 
dân tộc thiểu số trong sự nghiệp cách mạng 
chung cả nước; luôn luôn kêu gọi đoàn kết, 
bình đẳng, tương trợ trong toàn thể các dân 
tộc; hiểu rất rõ âm mưu của mọi loại kẻ thù 
trong việc tìm mọi cách để thực hiện chính 
sách chia để trị, chia rẽ dân tộc; là người Việt 
Nam đầu tiên xem xét và giải quyết vấn đề 
dân tộc trên cơ sở của học thuyết Mác - 
Lênin; luôn đấu tranh với những tư tưởng hẹp 
hòi, tư tưởng dân tộc lớn, coi thường các dân 
tộc nhỏ có trình độ phát triển thấp. Và như 
vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình 
đẳng, tương trợ giữa các dân tộc đã góp phần 
cụ thể hóa và phát triển quan điểm của chủ 
nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc ở một 
quốc gia đa dân tộc. 
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, 
bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc đã đặt 
nền móng cho đường lối, chính sách dân tộc 
của Đảng và Nhà nước Việt Nam 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình 
đẳng, tương trợ giữa các dân tộc trong cộng 
đồng các dân tộc ở Việt Nam đã đặt nền 
móng cho chính sách dân tộc của Đảng và 
Nhà nước ta. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - 
Lênin và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, 
Người đã không ngừng củng cố, phát huy 
truyền thống đoàn kết, bình đẳng, tương trợ 
lẫn nhau giữa các dân tộc, đồng thời luôn 
động viên các dân tộc thiểu số vươn lên tiến 
kịp người dân tộc đa số, để khẳng định mình. 
Người chỉ rõ, các dân tộc phải đoàn kết chặt 
chẽ muôn người như một, thương yêu giúp 
đỡ lẫn nhau. Đoàn kết là chiến lược của cách 
mạng Việt Nam, nhưng muốn đoàn kết thực 
sự cần phải bảo đảm quyền bình đẳng trên 
mọi phương diện và cơ sở của bình đẳng là 
sự phát triển về kinh tế, văn hóa của các dân 
tộc. Điều quan trọng hơn, thực hiện đoàn 
kết, bình đẳng lại phải nhất thiết có sự tương 
trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. 
Với tư duy biện chứng và khoa học về vấn đề 
dân tộc của tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và 
Nhà nước ta đã khẳng định và thực hiện đoàn 
kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc 
trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam; 
thông qua con đường cách mạng xã hội chủ 
nghĩa để xác lập quyền bình đẳng dân tộc cho 
dân tộc Việt Nam; tích cực pháp luật hoá 
quyền bình đẳng dân tộc và từng bước thực 
hiện quyền bình đẳng đó trên thực tế một 
cách toàn diện; ra sức lãnh đạo, tập hợp nhân 
dân thực hiện sự đoàn kết, bình đẳng, tôn 
trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc hướng 
đến sự bình đẳng dân tộc trên thực tế; phát 
huy cao độ ý thức vươn lên của các dân tộc và 
khắc phục những biểu hiện sai trái của cán bộ, 
đảng viên và nhân dân trong thực hiện đoàn 
kết, bình đẳng dân tộc. Đặc biệt, trong giai 
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, việc hoạch 
định, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và 
Nhà nước còn được thể hiện: Tiếp tục bổ sung, 
hoàn thiện chính sách dân tộc và thực hiện 
bình đẳng dân tộc một cách toàn diện trên các 
lĩnh vực của đời sống xã hội; phát huy cao độ 
tinh thần đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau 
cùng tiến bộ giữa các dân tộc trong đại gia 
đình các dân tộc Việt Nam, nhằm thực hiện 
bình đẳng dân tộc trên thực tế; tiếp tục phát 
huy tinh thần tự vươn lên của các dân tộc, kiên 
quyết đấu tranh với những biểu hiện sai trái và 
âm mưu thủ đoạn chia rẽ dân tộc của các thế 
lực thù địch. 
Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 11 - 16 
 14
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, bình 
đẳng, tương trợ giữa các dân tộc đã chứa 
đựng nhiều giá trị định hướng quý báu, chẳng 
hạn nội dung về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ 
người dân tộc thiểu số. Người nói: “Cán bộ 
địa phương thường có tâm lý tự ti, cho mình 
là văn hóa kém, chính trị kém, không muốn 
làm cán bộ. Như thế là không đúng. Nếu như 
thế, không ai làm việc cho đồng bào cả, việc 
làm đây là do cán bộ địa phương phải làm lấy. 
Vì vậy cho nên còn kém thì phải học” [2, tr. 
212]. Quan điểm này đã định hướng cho 
Đảng và Nhà nước ta trong công tác cán bộ 
nói chung, đặc biệt là cán bộ người dân tộc 
thiểu số. 
Thực tiễn đã chứng minh rằng, cán bộ người 
dân tộc thiểu số có vị trí và vai trò rất quan 
trọng, họ là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với 
đồng bào các dân tộc; là một yếu tố quyết định 
việc thực hiện chính sách dân tộc đạt hiệu quả 
cao hay thấp; là chủ thể kết nối, tạo động lực 
cho đồng bào các dân tộc phát triển, đảm bảo 
các yếu tố đoàn kết, bình đẳng, tương trợ bền 
vững về nâng cao dân trí, phát triển kinh tế - xã 
hội, bảo tồn bản sắc và phát triển các giá trị văn 
hóa tốt đẹp. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn 
không ít cán bộ dân tộc thiểu số chưa phát huy 
hết khả năng, trọng trách của mình, trình độ 
chuyên môn và lý luận còn hạn chế. Để khắc 
phục những khó khăn, bất cập này, Đảng và 
Nhà nước bằng nhiều hình thức đã tăng cường 
cán bộ có năng lực, phẩm chất đến công tác ở 
vùng dân tộc và miền núi nhất là vùng xung yếu 
về chính trị, an ninh, quốc phòng; chú trọng 
việc tạo nguồn, sửa đổi tiêu chuẩn bổ nhiệm và 
các cơ chế chính sách cho phù hợp với tình hình 
mới. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những giải pháp 
mang tính “tình thế”. Điều này càng cho thấy, 
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh 
có tác dụng thiết thực không chỉ với cán bộ dân 
tộc thiểu số, mà còn vô cùng cần thiết đối với 
các cơ quan chức năng trong việc quy hoạch, 
đào tạo, sử dụng cán bộ đáp ứng yêu cầu phát 
triển hiện nay của vùng dân tộc và miền núi. 
Giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh 
về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các 
dân tộc 
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, 
bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc đã góp 
phần khắc phục thái độ kỳ thị dân tộc, dân tộc 
hẹp hòi, tự ti dân tộc 
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, trong quan 
hệ giữa dân tộc đa số có trình độ phát triển 
cao hơn với các dân tộc thiểu số có trình độ 
thấp hơn,rất dễ nảy sinh tư tưởng kỳ thị dân 
tộc và thường có những thái cực: Một 
là, người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo; 
hai là, cán bộ địa phương, nhân dân địa 
phương lại dễ cho mình là dân tộc nhỏ bé, tự 
ti, cái gì cũng cho là mình không làm được, 
rồi không cố gắng, thậm chí là dân tộc hẹp 
hòi dẫn đến tình trạng cục bộ địa phương. 
Theo đó,Người cho rằng cần phải khắc phục 
những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi 
và tự ti dân tộc. 
Là một người có nhiều năm sống với đồng bào 
các dân tộc thiểu số, với tầm trí tuệ uyên bác, 
Hồ Chí Minh rất nhạy cảm với tâm lý, tâm trạng 
của đồng bào. Người nhắc nhở phải khắc phục 
mọi biểu hiện làm cản trở khối đoàn kết các dân 
tộc ngay trong đời sống tinh thần của đồng bào. 
Người chỉ rõ, phải khắc phục những tư tưởng 
dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc. Do 
đó, thực hiện đoàn kết, bình đẳng, tương trợ 
giữa các dân tộc hiện nay cần quan tâm đến đặc 
điểm tâm lý của đồng bào các dân tộc. 
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội ở nước 
ta cho thấy, sự chênh lệch về phát triển kinh 
tế - xã hội là một đặc điểm lớn. Do đó, Đảng 
và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng việc đảm 
bảo sự phát triển bình đẳng của tất cả các dân 
tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt 
Nam và coi đây là nhân tố quyết định cho sự 
phát triển bền vững. Bình đẳng giữa các dân 
tộc là bình đẳng trên mọi lĩnh vực kinh tế, 
chính trị, văn hóa, xã hội. Bình đẳng còn thể 
hiện trong quyền phát triển, được đảm bảo và 
tạo mọi điều kiện để các dân tộc thực hiện và 
có cơ hội phát triển bình đẳng với các dân tộc 
khác. Bình đẳng là cơ sở để đoàn kết. Đoàn 
kết và tương trợ giúp đỡ nhau là điều kiện để 
thực hiện bình đẳng. Bài học của nhiều quốc 
gia trên thế giới đã chỉ ra rằng, quan hệ giữa 
các dân tộc chỉ diễn ra trong hòa bình hữu 
nghị khi mà các dân tộc đó nhận thấy quan hệ 
về lợi ích của dân tộc mình với dân tộc khác 
là cân bằng, thỏa đáng, không có nguy cơ bị 
đe dọa từ phía dân tộc khác hay từ phía chính 
quyền nhà nước. Nếu ngược lại, thì quan hệ 
Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 11 - 16 
 15
giữa các dân tộc sẽ chứa đựng những nguy cơ 
xung đột - nguy cơ hủy hoại quan hệ hữu 
nghị, hợp tác. Thực tế chứng minh rằng, vấn 
đề dân tộc nói chung và quan hệ giữa các dân 
tộc quốc gia, đặc biệt là quan hệ giữa các tộc 
người trong một quốc gia đa dân tộc luôn 
luôn là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp. 
Mặt trái của nó ẩn chứa những mầm mống 
của sự bất hòa, đố kỵ dễ dẫn đến những xung 
đột với các mức độ khác nhau. Nguyên nhân 
của những vấn đề này là do chính sách dân 
tộc, trong đó bình đẳng, đoàn kết, tương trợ 
giữa các dân tộc chưa được thực hiện một 
cách triệt để, quan trọng hơn là chưa chú ý 
đến đặc điểm tâm lý của đồng bào các dân 
tộc. Vì vậy, cần có những nhận thức đầy đủ, 
cách mạng và quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ 
Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ 
giữa các dân tộc vào giải quyết vấn đề dân tộc, 
hoạch định chính sách dân tộc trong giai đoạn 
cách mạng Việt Nam hiện nay. 
Như vậy, trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, 
vấn đề đoàn kết, bình đẳng, tương trợ và giúp 
đỡ lẫn nhau được Đảng ta xác định là một 
trong những nguyên tắc cơ bản để thực hiện 
chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới. 
Trong các văn kiện Đại hội Đảng từ lần thứ II 
đến lần thứ V đều nhấn mạnh: đoàn kết, bình 
đẳng giữa các dân tộc. Từ Đại hội VI trở đi, 
các nguyên tắc này đã được xác định là đoàn 
kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau. Và đến Đại 
hội XI của Đảng đã nhấn mạnh: “Thực hiện 
chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và 
giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều 
kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật 
thiết với sự phát triển chung của cộng đồng 
dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc 
văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của 
các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ 
dân tộc” [3, tr.81]. Đại hội XII tiếp tục khẳng 
định: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính 
sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn 
trọng, đoàn kết, giải quyết quan hệ hài hòa 
giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển...” 
[4, tr.164]. Rõ ràng, tư tưởng xuyên suốt trong 
Nghị quyết của Đảng là khẳng định sự bình 
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc ở 
nước ta, chống mọi sự kỳ thị, chia rẽ dân tộc, 
không bỏ sót bất cứ dân tộc nào, không cho 
phép bất cứ tư tưởng khinh miệt, kỳ thị, chia rẽ 
dân tộc, tôn trọng quyền làm chủ của mỗi con 
người và quyền tự quyết của các dân tộc để 
nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp 
với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh 
em trong cả nước. Điều này đã cho thấy, 
những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh thực sự mang 
giá trị thực tiễn lớn lao để Đảng, Nhà nước, 
cũng như các cấp ủy Đảng ở các địa phương 
có những giải pháp thích hợp trong giải quyết 
vấn đề dân tộc, với mục đích làm cho các dân 
tộc được phát triển một cách toàn diện. 
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, 
bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc đã góp 
phần định hình mục tiêu và động lựccho việc 
hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách dân 
tộc ở nước ta hiện nay 
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn 
kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc cho 
thấy, hệ thống tư tưởng này của Người có vai 
trò rất quan trọng: trực tiếp tạo động lực đẩy 
nhanh quá trình thực hiện mục tiêu, nội dung 
chính sách dân tộc; bảo đảm sự đồng thuận và 
tạo cơ hội, điều kiện phát triển của các dân 
tộc; bảo đảm sự tôn trọng, phát huy tinh thần 
tương trợ lẫn nhau và củng cố khối đại đoàn 
kết dân tộc. Đặc biệt có ý nghĩa đối với việc 
hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách 
dân tộc ở nước ta hiện nay. 
Hoạch định và thực hiện chính sách dân tộc là 
một trong những yếu tố và nguyên nhân trực 
tiếp, sâu xa tác động đến đoàn kết, bình đẳng, 
tương trợ giữa các dân tộc. Một chính sách 
đúng sẽ có tác dụng củng cố đoàn kết, bình 
đẳng dân tộc, làm cho các dân tộc xích lại gần 
nhau, ngược lại sẽ là mầm mống của sự mất 
đoàn kết và bất bình đẳng dân tộc. 
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách dân 
tộc là nâng cao dân trí, nâng cao mức sống về 
vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân 
tộc, nâng cao chất lượng hoạch định và thực 
hiện chính sách dân tộc để có chính sách, giải 
pháp đúng đối với các dân tộc ở nước ta. Tuy 
nhiên, trên thực tế ở Việt Nam, đồng bào các 
dân tộc thiểu số hiện nay vẫn là một bộ phận 
chậm phát triển so với mặt chung của cả 
nước, những phúc lợi của chế độ xã hội mới 
mang lại ý thức trong việc nghiên cứu, bảo 
tồn các giá trị bản sắc văn hóa cho đồng bào 
các dân tộc sẽ dẫn đến mầm mống của sự mất 
đoàn kết, bất bình đẳng. Sự chênh lệch về đời 
sống văn hóa vật thể, phi vật thể giữa đồng 
Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 11 - 16 
 16
bào Kinh với đồng bào các dân tộc thiểu số và 
giữa các dân tộc thiểu số với nhau... cũng sẽ 
dẫn đến sự so bì, gây tâm lý “bất bình đẳng” 
là nguyên nhân của việc mất đoàn kết. Sự đúc 
kết về mặt thực tiễn cho thấy, tư tưởng Hồ 
Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ 
giữa các dân tộc thực sự đóng vai trò là nền 
tảng, kim chỉ nam, động lực, mục tiêu trong 
việc hoạch định và thực hiện chính sách dân 
tộc ở nước ta hiện nay. 
KẾT LUẬN 
Tựu trung lại, lý luận và thực tiễn đặt ra càng 
cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân 
tộc; đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các 
dân tộc thực sự là cơ sở đặc biệt quan trọng để 
Đảng và Nhà nước ta hoạch định chính sách 
dân tộc và là cội nguồn thắng lợi của cách 
mạng Việt Nam, đặc biệt là thắng lợi của 30 
năm đổi mới. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế 
giới hiện nay, khi những cuộc chiến tranh cục 
bộ, xung đột vũ trang, dân tộc, tôn giáo, các 
hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, liên tục 
diễn ra ở nhiều nơi. Ở nước ta, các thế lực thù 
địch đã và đang tìm mọi cách khoét sâu và lợi 
dụng những khó khăn của đồng bào các dân 
tộc thiểu số để xuyên tạc chính sách dân tộc 
của Đảng và Nhà nước, gây chia rẽ khối đại 
đoàn kết dân tộc, nhằm phá hoại sự nghiệp xây 
dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Do 
đó, càng đòi hỏi phải tăng cường củng cố khối 
đại đoàn kết dân tộc. Quan trọng hơn, phải làm 
cho vấn đề dân tộc, các nguyên tắc chủ đạo 
quan hệ dân tộc như đoàn kết, bình đẳng,tương 
trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển phải được 
thấm nhuần trong tất cả các chính sách, luật 
pháp của Đảng và Nhà nước, từ chính sách 
kinh tế, xã hội tới văn hóa, đặc biệt là bản sắc 
văn hóa tộc người, ngôn ngữ tộc người.Để gắn 
kết đồng bào dân tộc thiểu số, không gì khác 
hơn là phải nhận thức và giải quyết thật tốt vấn 
đề đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân 
tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải 
quán triệt sâu sắc hơn nữa và vận dụng có hiệu 
quả trong thời kỳ mới trên phạm vi cả nước và 
ở từng địa phương cụ thể. Điều này càng cho 
thấy giá trị to lớn, bền vững của tư tưởng Hồ 
Chí Minh về đoàn kết, bình đẳng, tương trợ 
giữa các dân tộc đối với tiến trình xây dựng 
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, T.25, Nxb Tiến bộ, 
Mátxcơva. 
2. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, T.12, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
SUMMARY 
THE VALUES OF HO CHI MINH'S THOUGHT OF UNITY, 
EQUALITY AND ASSISTANCE AMONG THE ETHNIC 
GROUPS IN THE CURRENT PERIOD 
 Vu Thi Thuy*, Pham Thi Huyen 
TNU – University of Education 
Ho Chi Minh's thought of unity, equality and mutual assistance among the ethnic groups is the 
affirmation of the position and role of each ethnic in the community of the Vietnamese people with 
the right to life, freedom, happiness and the development which is reflected in all aspects of life. 
Therefore, the unity, equality and mutual assistance among the peoples in Ho Chi Minh’s thought 
is the big one, which contains deeply theoretical and practical values to the reality of Vietnam 
revolution. The key factor led the revolution to victory, which is the basic foundation of the Party 
and State's national policies in all stages of revolution, especially in the process to industrialize and 
modernize successfully. 
Keywords: Unity, equality, mutual assistance, ethnic policy, ethnic. 
Ngày nhận bài: 20/3/2018; Ngày phản biện: 11/04/2018; Ngày duyệt đăng: 28/9/2018
* Tel: 0982633373; Email: vuthuy.dhsptn@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_cua_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_doan_ket_binh_dang_tuong.pdf