Đường lối đối ngoại của Việt Nam - Chặng đường 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập

Sau năm 1975, Việt Nam vẫn thực hiện đường lối đối ngoại độc lập và tự chủ, tuy nhiên, do chịu sự tác

động của cuộc Chiến tranh lạnh, Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

VI (1986), đường lối đối ngoại của Việt Nam bắt đầu có bước phát triển mới, sau đó đã được các Đại

hội và các Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị, từ khóa VI đến khóa XI tiếp tục bổ sung, phát triển thành

đường lối “đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế”. Đường

lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, phục vụ tốt nhiệm vụ

phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đồng thời đưa Việt Nam hội nhập sâu hơn và

đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, từ đó, thế và lực của Việt Nam

trên trường quốc tế ngày càng vững mạnh.

pdf 9 trang kimcuc 16140
Bạn đang xem tài liệu "Đường lối đối ngoại của Việt Nam - Chặng đường 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đường lối đối ngoại của Việt Nam - Chặng đường 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập

Đường lối đối ngoại của Việt Nam - Chặng đường 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 5(30) - Thaùng 7/2015 
3 
Đường lối đối ngoại của Việt Nam - 
Chặng đường 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập 
Vietnam diplomacy guideline – The forty years progress of building, 
developing and integrating 
PGS.TS. Trần Nam Tiến 
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. HCM 
Assoc.Prof.,Ph.D. Tran Nam Tien 
University of Social Sciences and Humanities – National University Ho Chi Minh City 
Tóm tắt 
Sau năm 1975, Việt Nam vẫn thực hiện đường lối đối ngoại độc lập và tự chủ, tuy nhiên, do chịu sự tác 
động của cuộc Chiến tranh lạnh, Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 
VI (1986), đường lối đối ngoại của Việt Nam bắt đầu có bước phát triển mới, sau đó đã được các Đại 
hội và các Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị, từ khóa VI đến khóa XI tiếp tục bổ sung, phát triển thành 
đường lối “đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế”. Đường 
lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, phục vụ tốt nhiệm vụ 
phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đồng thời đưa Việt Nam hội nhập sâu hơn và 
đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, từ đó, thế và lực của Việt Nam 
trên trường quốc tế ngày càng vững mạnh. 
Từ khóa: Việt Nam, đường lối đối ngoại, hội nhập 
Abstract 
After 1975, Vietnam continued the independent diplomacy guideline in the spirit of active regional 
integration within the context of the Cold War. Since the 6th National Party Congress (1986), the 
Diplomacy guideline of Vietnam has been developed, has been continuously amended by various 
plenums, meetings of Party Central Committee, Political Bureau from the 6th Congress to 11th 
Congress as “independent, sovereign, open, diverse, multilateral diplomacy”. The innovation of 
Vietnam Diplomacy guideline has contributed to promote the peaceful means for developing socio-
economy, national defense, security. Moreover, the new guideline would also promote Vietnam to 
further integrating to international, regional or even bilateral economic institutions which would 
improve the country's image and position in international arena. 
Keywords: Viet Nam, diplomacy, guideline, integration 
1. Đường lối đối ngoại đổi mới của 
Việt Nam giai đoạn 1975-1985 
Sau khi đất nước thống nhất (1976), 
Việt Nam đứng trước tình hình và nhiệm 
vụ mới. Về đối ngoại, Đại hội Đảng toàn 
quốc lần thứ IV (12-1976) đã đề ra nhiệm 
vụ cụ thể: “ra sức tranh thủ những điều 
kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn 
gắn những vết thương chiến tranh, khôi 
phục và phát triển kinh tế, phát triển văn 
hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc 
phòng; xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật 
4 
của chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời 
tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội 
chủ nghĩa anh em và tất cả các dân tộc trên 
thế giới đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân 
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội...” (1). 
Trên cơ sở đó, các Đại hội đại biểu toàn 
quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 
IV (1976) và V (1982) đã xác định những 
nội dung chính trong đường lối đối ngoại 
của Việt Nam thời kỳ mới, trong đó “đoàn 
kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô” và 
“ra sức củng cố và tăng cường đoàn kết với 
các nước xã hội chủ nghĩa” được xem là ưu 
tiên số một của Việt Nam (2). Điều này 
cũng dễ hiểu, lúc bấy giờ cuộc Chiến tranh 
lạnh vẫn đang diễn ra gay gắt và tác động 
rất lớn đến các quốc gia trên thế giới. Việt 
Nam cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, 
đường lối đối ngoại của Việt Nam giai 
đoạn này vẫn thể hiện sự chủ động và tích 
cực. Cụ thể, Việt Nam vẫn ra sức bảo vệ và 
phát triển quan hệ đặc biệt, tình đoàn kết 
chiến đấu và hợp tác lâu dài giữa nhân dân 
Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân 
Campuchia trên nguyên tắc hoàn toàn bình 
đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn 
vẹn lãnh thổ của nhau. 
Trong giai đoạn 1975-1978, Việt Nam 
đã giành được sự ủng hộ to lớn về vật chất 
và tinh thần của Liên Xô và hệ thống xã 
hội chủ nghĩa cũng như các tổ chức, phong 
trào tiến bộ nhằm phục vụ cho công cuộc 
phục hồi và xây dựng đất nước sau chiến 
tranh. Trên cơ sở đó, năm 1978 Việt Nam 
gia nhập vào khối SEV và đến ngày 
3/11/1978, Việt Nam đã ký với Liên Xô 
Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác. Bên cạnh 
đó, Việt Nam cũng đã chủ động mở rộng 
các hoạt động quan hệ quốc tế, đã lần lượt 
thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các 
nước Đông Nam Á, châu Đại Dương, Tây 
Bắc Âu và một loạt nước khác ở châu lục 
có chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Việt 
Nam cũng đã tiến hành đàm phán với Mỹ 
về việc bình thường hóa quan hệ. Từ năm 
1977, Việt Nam trở thành thành viên chính 
thức của Liên Hợp Quốc (20-9-1977) và 
nhiều tổ chức quốc tế khác. Ở khu vực, 
Việt Nam với chính sách 4 điểm công bố 
ngày 5-7-1976, đã có những bước phát 
triển quan hệ tích cực với tổ chức ASEAN 
(3), qua đó mở ra khả năng hội nhập với 
khu vực. 
Tuy nhiên, từ cuối năm 1978 đến đầu 
năm 1979, hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên 
giới Tây Nam, giúp nước bạn Campuchia 
lật đổ chế độ diệt chủng Khmer Đỏ và 
chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc đã 
tạo ra những khó khăn mới cho Việt Nam 
trên trường quốc tế. Hệ quả của vấn đề này 
là sự hình thành một mặt trận của các nước 
phương Tây và ASEAN nhằm bao vây, cô 
lập Việt Nam mọi mặt từ kinh tế, chính trị 
đến ngoại giao, ảnh hưởng rất lớn đến sự 
phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam 
trong thời kỳ này. Mặc dù, thời kỳ này, 
Việt Nam vẫn nhận được sự ủng hộ và hỗ 
trợ rất lớn cả về vật chất lẫn tinh thần từ 
Liên Xô và các nước trong khối xã hội chủ 
nghĩa nhưng sự bao vây và chống phá của 
các nước Tây đứng đầu là Mỹ, trong đó có 
cả một số nước ASEAN đã khiến Việt 
Nam bị cô lập và gặp khó khăn trong quá 
trình hội nhập với khu vực và thế giới (4). 
Bước vào những năm đầu thập niên 
1980 của thế kỷ XX, Việt Nam đứng trước 
những khó khăn rất hiểm nghèo. Ở trong 
nước, Việt Nam phải đối mặt với cuộc 
khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng, 
kéo dài. Về đối ngoại, Việt Nam phải 
đương đầu với tình trạng bị cô lập về chính 
trị, bị bao vây cấm vận về kinh tế (5). 
Trong khi đó, cuộc cách mạng khoa học và 
công nghệ diễn ra như vũ bão, xu thế khu 
vực hóa và toàn cầu hóa nổi lên, đặt ra 
những cơ hội và thách thức cho nhiều quốc 
gia, trong đó có Việt Nam. Trước tình hình 
đó, nhu cầu “Đổi mới”, mở cửa để hội 
5 
nhập với khu vực và thế giới, qua đó “kết 
hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời 
đại” nhằm giải quyết những khó khăn trước 
mắt, đưa đất vượt qua khó khăn, hội nhập 
cùng khu vực và thế giới được đặt ra bức 
thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối 
với Việt Nam. 
Sau một thời gian dài tìm tòi, thử 
nghiệm, đấu tranh và tổng kết thực tiễn, tại 
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI 
(12-1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã 
chính thức đề ra đường lối đổi mới toàn 
diện. Có thể nói, Đại hội Đảng toàn quốc 
lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt rất 
cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong sự 
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước 
ta, với việc đề ra đường lối đổi mới toàn 
diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi 
mới tổ chức, cán bộ và phong cách lãnh 
đạo của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi 
mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác 
của đời sống xã hội, trong đó có đổi mới về 
lĩnh vực đối ngoại. Đại hội VI đã khẳng 
định rõ, đối với Việt Nam, đổi mới là yêu 
cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, 
là vấn đề có ý nghĩa sống còn. 
2. Quá trình phát triển đường lối 
đối ngoại đổi mới của Việt Nam 
Từ giữa những năm 1980, cuộc cách 
mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát 
triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi 
mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. 
Trên phạm vi thế giới, cuộc Chiến tranh 
lạnh đi vào hồi kết thúc, xu thế phát triển 
chung của các quốc gia là hòa bình và hợp 
tác (6). Các nước đổi mới tư duy, xem sức 
mạnh kinh tế có vị trí quan trọng hàng đầu. 
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến 
các quốc gia, nhất là những quốc gia đang 
phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực 
hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng 
hóa quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng 
cương liên kết, hợp tác với các nước phát 
triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ. 
Đặc biệt, xu thế toàn cầu hóa đã bắt đầu 
xuất hiện và phát triển đã tác động đến 
nhận thức và quá trình hợp tác giữa các 
quốc gia trên thế giới. 
Lúc bấy giờ, Việt Nam bị các thế lực 
thù địch bao vây, chống phá tạo nên tình 
trạng căng thẳng, mất ổn định, cản trở cho 
sự phát triển của Việt Nam. Mặt khác, do 
hậu quả nặng nề của chiến tranh và các 
khuyết điểm chủ quan, nền kinh tế Việt 
Nam lâm vào khủng khoảng nghiêm trọng, 
từ đó dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về 
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và 
trên thế giới. Vì vậy, để thu hẹp khoảng 
cách phát triển giữa Việt Nam với các quốc 
gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các 
nguồn lực trong nước, cần phải tranh thủ 
các nguồn lực bên ngoài, trong đó việc mở 
rộng và tăng cường hợp tác kinh tế với các 
nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa 
phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 
Những biến động của tình hình quốc tế và 
khu vực và chính nội tại của Việt Nam 
cũng đã đặt yêu cầu và nhiệm vụ mới cho 
cách mạng Việt Nam. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI 
của Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986), 
xuất phát từ tinh thần nhìn thẳng vào sự 
thật, đã phân tích và đánh giá đúng những 
thuận lợi và khó khăn của đất nước thông 
qua đường lối đổi mới toàn diện. Về đối 
ngoại, Đại hội Đảng lần thứ VI đã chỉ rõ 
nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên 
lĩnh vực đối ngoại trong thời gian tới là: 
“kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức 
mạnh của thời đại trong điều kiện kiện 
mới” (7). Đảng ta nhận định: “Sự phát triển 
của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật 
ngày nay và xu thế mở rộng nhân công, 
hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có 
chế độ kinh tế – xã hội khác nhau, cũng là 
những điều kiện rất quan trọng đối với 
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của 
nước ta. Trong toàn bộ sự nghiệp cách 
6 
mạng của mình, chúng ta phải đặc biệt coi 
trọng kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế, 
các yếu tố truyền thống và thời đại, sử 
dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ 
thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, 
kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công 
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”(8). 
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI 
(1986) của Đảng đề ra, cùng với việc đổi 
mới tư duy về kinh tế, ngoại giao cũng 
từng bước đổi mới, trước hết là đổi mới 
công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá 
tình hình thế giới và quan hệ quốc tế; cách 
suy nghĩ về mối liên hệ trên một số vấn đề 
như giữa lợi ích quốc gia và nghĩa vụ quốc 
tế, giữa an ninh và phát triển, giữa hợp tác 
và đấu tranh v.v..; tư duy về tập hợp lực 
lượng, cách đánh giá bạn - thù, từ đó xác 
định chủ trương, đường lối và có chính 
sách đối ngoại thích hợp. 
Sau Đại hội VI (1986), Bộ Chính trị 
đã thông qua Nghị quyết 13 (20/5/1988): 
“Nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong 
tình hình mới” xác định cụ thể hơn nhiệm 
vụ của ngoại giao trong thời kỳ đổi mới với 
chủ đề “giữ vững hòa bình và phát triển 
kinh tế”. Nghị quyết khẳng định nước ta 
“lại càng có những cơ hội lớn để có thể giữ 
vững hòa bình và phát triển nền kinh tế” và 
xác định “với một nền kinh tế mạnh, một 
nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự 
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta 
sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc 
lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã 
hội hơn”. Đặc biệt, Nghị quyết nhấn mạnh: 
Nếu chúng ta để lỡ những cơ hội lớn đó thì 
sẽ gặp nhiều thách thức mới và sẽ thua kém 
về mọi mặt so với nhiều nước khác trên thế 
giới, do đó, an ninh chính trị, quốc phòng 
của ta cũng bị ảnh hưởng. Nghị quyết 13 
cũng nhấn mạnh chủ trương “thêm bạn bớt 
thù”, “đa dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc 
tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi” 
(9). Nghị quyết xác định rõ mục tiêu chiến 
lược và cũng là lợi ích cao nhất của Đảng 
và nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách 
mạng hiện nay là: “...giữ vững hòa bình, 
tranh thủ điều kiện bên ngoài thuận lợi và 
tranh thủ thời gian tập trung những cố gắng 
đến mức cao nhất nhằm từng bước ổn định 
và tạo cơ sở cho bước phát triển về kinh tế 
trong vòng 20-25 năm tới, xây dựng chủ 
nghĩa xã hội và bảo vệ độc lập Tổ quốc, 
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh 
chung cho hòa bình, độc lập dân tộc và chủ 
nghĩa xã hội” (10). 
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, 
tại Đại hội Đảng lần thứ VII vào tháng 
6-1991, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng 
định quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp Đổi 
mới và đề ra Cương lĩnh xây dựng đất 
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội. Phù hợp với chiến lược đó, Đại hội 
VII xác định nhiệm vụ trọng tâm của công 
tác đối ngoại là nhanh chóng tạo nên một 
môi trường quốc tế hòa bình, ổn định và đề 
ra chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa 
quan hệ đối ngoại, hợp tác bình đẳng và 
cùng có lợi với tất cả các nước không phân 
biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau; đẩy 
phương châm “thêm bạn bớt thù” lên mức 
độ cao hơn, khẳng định mạnh mẽ hơn với 
tuyên bố “Việt Nam muốn là bạn với tất cả 
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn 
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (11), 
qua đó mở ra bước đột phá trong việc thực 
hiện chủ trương hội nhập quốc tế. Đại hội 
cũng đã xác định nguyên tắc cơ bản trong 
hội nhập kinh tế quốc tế là: “mở rộng, đa 
dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế 
đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập 
chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi” (12). 
Có thể nói, hội nhập quốc tế, trước hết 
và chủ yếu trên bình diện kinh tế, là một 
nội dung quan trọng trong đường lối đối 
ngoại của Đảng và Nhà nước ta hướng tới 
việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức 
mạnh thời đại, đáp ứng yêu cầu của sự 
7 
nghiệp cách mạng nước nhà. Sau 10 năm 
đổi mới (1986-1996), tình hình chính trị – 
xã hội Việt Nam dần đi vào ổn định; thế và 
lực của Việt Nam được nâng cao hơn; quan 
hệ quốc tế được mở rộng; vị thế của Việt 
Nam trên trường quốc tế được cải thiện; 
khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội 
nhập được tăng cường. 
Trên cơ sở những thành tựu đạt được, 
Đại hội Đảng lần thứ VIII (6-1996) đã tiếp 
tục khẳng định: “thực hiện chính sách đối 
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương 
hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam 
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng 
đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc 
lập và phát triển” (13). Đại hội VIII chủ 
trương “xây dựng nền kinh tế mở”, “đẩy 
nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực 
và thế giới”. Đại hội nhấn mạnh quan điểm 
đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ 
kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất 
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những 
mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, 
tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường 
quốc tế; mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác 
nhiều mặt, song phương và đa phương với 
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực 
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ 
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không 
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, 
bình đẳng, cùng có lợi (14). 
Thế giới bước sang thế kỷ XXI, với 
nhiều cục diện phức tạp, nhiều thách thức. 
Mặt khác, xu hướng đấu tranh vì một nền 
dân chủ đích thực, vì sự công bằng, bình 
đẳng và quan hệ kinh tế cùng có lợi giữa các 
dân tộc v.v ngày càng mạnh trong từng 
khu vực và rộng hơn là phạm vi toàn cầu. 
Sự nhìn nhận lại mình, so sánh một cách 
khách quan và toàn diện hình ảnh cuộc sống 
và mức sống của dân tộc mình với các dân 
tộc khác để tìm ra giải pháp, phương châm 
đúng đắn cho sự phát triển bền vững của 
dân tộc là đương nhiên và ngày càng trở nên 
cấp thiết (15). Từ thực tế đó, vấn đề kết hợp 
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại càng 
trở nên có ý nghĩa hơn bao giờ hết và nó 
cũng đang diễn ra và ngày càng trở nên cấp 
bách đối với Việt Nam. 
Chính từ thực tiễn nêu trên, Đại hội 
Đảng lần thứ IX (4-2001) đã tiếp tục khẳng 
định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối 
ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương 
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt 
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của 
các nước trong cộng đồng thế giới, phấn 
đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (16). 
Đại hội xác định độc lập tự chủ là cơ sở để 
thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa 
phương hóa, đa dạng hóa, đồng thời nhấn 
mạnh Việt Nam, không chỉ “sẵn sàng là 
bạn” mà còn sẵn sàng là “đối tác tin cậy 
của các nước” và “chủ động hội nhập kinh 
tế quốc tế”. Trong đó, vấn đề “kết hợp sức 
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại” được 
Đảng ta chú trọng đẩy mạnh. Tiếp đó, Hội 
nghị Trung ương VIII (khóa IX) đã tiếp tục 
khẳng định “dành ưu tiên cao cho việc mở 
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng đa 
dạng hóa thị trường, tranh thủ thêm vốn, 
công nghệ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa, tạo lập lợi ích đan xen với các 
đối tác” (17). 
Đại hội Đảng lần thứ X (4-2006) đã 
bổ sung và nhấn mạnh quan điểm: “Thực 
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập 
tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; 
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương 
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ 
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, 
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên 
nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin 
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế 
và khu vực” (18). Đại hội X cũng đã nhấn 
mạnh: vì mục tiêu phát triển, các hoạt động 
đối ngoại phải hướng mạnh vào nhiệm vụ 
kinh tế – xã hội thiết thực như mở rộng thị 
trường, có thêm đối tác, tranh thủ tối đa 
8 
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Quá 
trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt 
Nam phải trên cơ sở phát huy tối đa nội 
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo 
đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội 
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh 
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, 
bảo vệ môi trường (19). 
Tháng 1-2011, Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt 
Nam đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu về đối 
ngoại từ năm 2011 - 2015 là “là giữ vững 
môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy 
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo 
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống 
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế 
của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc 
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân 
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” (20). So 
với nhiệm vụ đối ngoại được xác định tại 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: “Chủ 
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, 
thì chủ trương đối ngoại trong Nghị quyết 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã 
thể hiện bước phát triển mới về tư duy, 
chuyển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” lên 
“hội nhập quốc tế” - hội nhập toàn diện, 
qua đó đồng bộ từ kinh tế đến chính trị, 
văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh. 
Đây là bước ngoặt đổi mới về tư duy và 
chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản 
Việt Nam, là kết quả bước chuyển từ tư 
duy đối ngoại thời kỳ Chiến tranh lạnh 
sang đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ 
quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế đến hội 
nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực thời 
kỳ Đổi mới. 
3. Thành tựu đạt được qua quá trình 
triển khai đường lối đối ngoại đổi mới 
của Việt Nam 
Thành tựu đối ngoại có tính chất bao 
trùm trong thời gian từ 1986 là từ chỗ bị cô 
lập về chính trị, bị bao vây cấm vận về 
kinh tế, Việt Nam đã chủ động, nỗ lực mở 
rộng hơn bao giờ hết quan hệ đối ngoại của 
mình theo hướng đa dạng hóa, đa phương 
hóa, qua đó phá được thế bao vây cấm vận 
của các nước phương Tây. Sau năm 1986, 
Việt Nam đã tích cực tìm kiếm giải pháp 
chính trị cho vấn đề Campuchia, coi đây là 
khâu đột phá trong quá trình triển khai 
đường lối đối ngoại đổi mới. Sau khi rút 
hết quân ra khỏi Campuchia (1989) và 
tham gia ký kết Hiệp định Paris về 
Campuchia (1991), Việt Nam đã lần lượt 
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc 
(11-1991), bình thường hóa quan hệ ngoại 
giao với Hoa Kỳ (11-7-1995), ký Hiệp định 
khung hợp tác với Liên minh châu Âu (15-
7-1995) và chính thức gia nhập tổ chức 
ASEAN (28-7-1995). Trong gần 30 năm 
đổi mới về đối ngoại, Việt Nam đã thiết lập 
quan hệ ngoại giao với 180 trong 193 quốc 
gia thành viên Liên Hợp Quốc; có quan hệ 
thương mại với gần 230 quốc gia và vùng 
lãnh thổ; là thành viên tích cực của trên 70 
tổ chức khu vực và quốc tế. 
Trong đó, thành tựu tiếp được coi là 
bước phát triển lớn, mang tính đột phá 
trong triển khai đường lối đối ngoại thời kỳ 
Đổi mới, đó là Việt Nam đã đi từ bình 
thường hóa quan hệ đến từng bước nâng 
cấp và xác lập khuôn khổ quan hệ hợp tác 
bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước 
lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị lớn và 
các nước công nghiệp phát triển như Trung 
Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ. 
Với việc lập quan hệ đối tác chiến lược với 
Nga năm 2001, Việt Nam là một trong năm 
nước tiên phong đầu tiên thiết lập quan hệ 
đối tác chiến lược. Cho tới nay, Việt Nam 
có quan hệ đối tác chiến lược với 13 quốc 
gia, quan hệ đối tác chiến lược theo lĩnh 
vực với 2 nước và quan hệ đối tác toàn 
diện với 11 nước khác, trong đó, Việt Nam 
đã là đối tác toàn diện với tất cả 5 nước Ủy 
viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên 
Hợp Quốc. 
9 
Trong quá trình triển khai đường lối 
đổi ngoại đổi mới, Việt Nam đã chủ động 
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh 
thủ được nhiều nguồn vốn ODA và FDI; 
mở rộng thị trường nước ngoài. Nhằm phát 
huy nội lực và ra sức tranh thủ ngoại lực, 
Việt Nam đã coi phát triển kinh tế là nhiệm 
vụ trung tâm, công tác ngoại giao phục vụ 
phát triển kinh tế đã ngày càng phát huy vai 
trò; nội dung kinh tế ngày càng thể hiện rõ 
nét trong mọi hoạt động chính trị đối ngoại. 
Ngoại giao đã kết hợp tốt giữa chính trị đối 
ngoại với kinh tế đối ngoại, góp phần tạo 
thêm nguồn lực từ bên ngoài, mở rộng thị 
trường, gia tăng đối tác, phục vụ mục tiêu 
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 
Việc trở thành thành viên WTO (7-11-
2006) vừa tạo thuận lợi, vừa đặt ra không ít 
thách thức đối với Việt Nam, song thực sự 
đây làm một bước đột phá thúc đẩy tiến 
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt 
Nam. Sau 5 năm gia nhập Tổ chức Thương 
mại Thế giới (WTO), kim ngạch xuất khẩu 
của Việt Nam đã tăng 97,7%, bình quân 
tăng 19,52%/năm (21) Hiện nay, Việt Nam 
đã tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác 
Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP); 
khởi động đàm phán Hiệp định Thương mại 
Tự do (FTA) với một loạt các đối tác quan 
trọng như EU, Hàn Quốc, khối EFTA, Liên 
minh thuế quan Nga - Belarus - Kazakhstan. 
Có thể nói, ngoại giao kinh tế ngày càng 
khẳng định vai trò là một trụ cột quan trọng 
của nền ngoại giao toàn diện. 
Hoạt động ngoại giao đa phương đã có 
bước phát triển vượt bậc; góp phần nâng 
cao hơn nữa vai trò và uy tín của Việt Nam 
tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế như 
Liên Hợp Quốc, Phong trào Không liên 
kết, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 
(ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế 
Châu Á - Thái bình dương (APEC), Diễn 
đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), từng bước 
đưa Việt Nam hội nhập vào kinh tế khu 
vực và thế giới. Nhờ đó Việt Nam được tín 
nhiệm giữ các chức vụ quan trọng tại các 
kỳ họp của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, 
được bầu vào Hội đồng kinh tế xã hội 
(ECOSOC) và Ban điều hành chương trình 
phát triển (UNDP), Quỹ Dân số thế giới 
(UNPFA), Ủy ban Quyền con người v.v 
Tháng 10-2006, các nước châu Á đã nhất 
trí đề cử duy nhất Việt Nam vào vị trí ứng 
cử thành viên không thường trực Hội đồng 
Bảo an Liên Hợp Quốc. Đặc biệt, lần đầu 
tiên trong lịch sử, ngoại giao Việt Nam đã 
đảm nhiệm thành công cương vị Ủy viên 
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên 
Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ 
tịch ASEAN năm 2010. 
Cùng với ngoại giao chính trị, ngoại 
giao kinh tế, ngoại giao văn hóa hiện nay 
đã trở thành một trong ba trụ cột của ngoại 
giao toàn diện, hiện đại, vừa là nền tảng, 
vừa là biện pháp và mục tiêu của chính 
sách đối ngoại Việt Nam. Ngoại giao văn 
hóa trong thời gian qua cũng đã góp phần 
nâng cao vị thế, phát huy “sức mạnh mềm” 
của đất nước, qua đó thắt chặt hơn nữa 
quan hệ của Việt Nam với các đối tác và 
tăng cường sự hiểu biết của thế giới về 
Việt Nam. Việt Nam đã vận động thành 
công UNESCO công nhận nhiều di sản của 
Việt Nam là di sản văn hóa thế giới. Công 
tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo 
hộ công dân cũng được triển khai kịp thời, 
hiệu quả, góp phần bảo vệ các quyền và lợi 
ích hợp pháp của công dân, ngư dân, lao 
động Việt Nam. 
4. Kết luận 
Như vậy, sau gần 40 năm Việt Nam 
tiến hành công cuộc đổi mới, thế giới khi 
nói về Việt Nam không còn xem đó là đất 
nước của chiến tranh và nghèo nàn lạc hậu 
mà là một quốc gia đang có những bước 
tiến nhanh chóng, sâu rộng trên con đường 
phát triển, hội nhập khu vực và quốc tế. Từ 
sau năm 1975, đường lối đối ngoại của 
10 
Việt Nam vẫn thể hiện tính chủ động và 
tích cực góp phần quan trọng cho công 
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội 
chủ nghĩa. Tuy nhiên, do chịu sự tác động 
của cuộc Chiến tranh lạnh, Việt Nam đã 
gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội 
nhập khu vực và thế giới. Từ Đại hội Đảng 
toàn quốc lần thứ VI (1986), đường lối đối 
ngoại của Việt Nam bắt đầu có bước phát 
triển mới trên cơ sở của đường lối đổi mới 
toàn diện do Đảng và Nhà nước phát động. 
Thực tiễn sinh động của gần 30 năm đổi 
mới cho thấy, đường đối ngoại rộng mở do 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của 
Đảng đề ra đã được các Đại hội và các Hội 
nghị Trung ương, Bộ Chính trị, từ khóa VI 
đến khóa XI tiếp tục bổ sung, phát triển 
thành đường lối “đối ngoại độc lập tự chủ, 
rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các 
quan hệ quốc tế”, thể hiện ở mục tiêu đối 
ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối 
ngoại và phương châm đối ngoại. Đường 
lối đối ngoại đổi mới đã góp phần giữ vững 
môi trường hòa bình, phục vụ tốt nhiệm vụ 
phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo quốc 
phòng, an ninh, đưa các quan hệ quốc tế đã 
được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, 
bền vững, đồng thời hội nhập sâu hơn và 
đầy đủ hơn vào các thể chế kinh tế toàn 
cầu, khu vực và song phương.Trên cơ sở 
đó, thế và lực của Việt Nam ngày càng 
vững mạnh; vai trò và vị thế của Việt Nam 
trên trường quốc tế được nâng cao hơn bao 
giờ hết. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Báo cáo 
chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
IV, NXB Sự thật, Hà Nội, tr.178. 
2. Nguyễn Đình Bin (chủ biên) (2002), Ngoại 
giao Việt Nam 1945-2000, NXB CTQG, 
Hà Nội, tr.295. 
3. Lưu Văn Lợi (1997), “ASEAN: Con đường ba 
mươi năm”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 19. 
4. Luong Ngoc Thanh (2012), “Vietnam in the 
PostCold War era: New Foreign Policy 
Directions”, Journal of International 
Development and Cooperation, Vol. 18, 
No. 3, pp.31-52. 
5. Nguyễn Dy Niên (2005), “Chính sách và 
hoạt động đối ngoại trong thời kỳ Đổi mới”, 
Tạp chí Cộng sản, số 17, tr.30. 
6. Paul Kennedy (1987), “The Soviet Union 
and Its “Contradictions”, in The Rise and 
Fall of the Great Powers, New York: 
Random House, pp.488-514. 
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, 
NXB Sự thật, Hà Nội, tr.30. 
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.31. 
9. Nguyễn Đình Bin (chủ biên) (2002), Sđd, 
tr.324. 
10. Bộ Ngoại giao (1999), Tổng luận 50 năm 
hoạt động ngoại giao Việt Nam, tháng 2-
1999 - Lưu hành nội bộ - tr.51 (Nghị quyết 
13 Bộ Chính trị 20/5/1988). 
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện 
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 
VII, NXB Sự thật, Hà Nội, tr.147. 
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện 
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 
VII, Sđd, tr.119. 
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, 
NXB CTQG, Hà Nội, tr.41. 
14. Nguyễn Thế Lực – Nguyễn Hoàng Giáp 
(2000), “Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt 
Nam: quá trình và một số kết quả”, Tạp chí 
Nghiên cứu quốc tế, số 55, tr.8. 
15. Trần Nguyên Việt (2005), “Vấn đề kết hợp 
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại 
trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa 
học – công nghệ hiện đại”, Tạp chí Khoa 
học xã hội, số 7 (83), tr.4. 
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, 
NXB CTQG, Hà Nội, tr.119. 
17. Chu Văn Chúc (2004), “Quá trình đổi mới 
tư duy đối ngoại và hình thành đường lối đối 
ngoại đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, 
số 58, tr.9. 
11 
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 
NXB CTQG, Hà Nội, tr.112. 
19. Nguyễn Hoàng Giáp (2007), “Chính sách 
đối ngoại của Đại hội X và kết quả sau một 
năm triển khai thực hiện”, Thông tin Nghiên 
cứu quốc tế, số 1 (27), tr.2-3. 
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện 
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, 
NXB CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 236. 
21. Phạm Bình Minh (2012), “Ngoại giao Việt 
Nam 67 năm: Vươn tới những tầm cao 
mới”, Thế giới & Việt Nam, số ra ngày 
28/08/2012. 
/2012/8/9C27D073B1C51E7E/ (truy cập 
ngày 3/11/2014). 
Ngày nhận bài: 30/3/2015 Biên tập xong: 15/7/2015 Duyệt đăng: 20/7/2015 

File đính kèm:

  • pdfduong_loi_doi_ngoai_cua_viet_nam_chang_duong_40_nam_xay_dung.pdf