Đóng góp của tài sản trí tuệ đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp

Lợi ích kinh tế của TSTT1 đối với doanh

nghiệp

TSTT ngày càng được thừa

nhận có vai trò quan trọng đối

với sự hình thành và phát triển

nội lực của doanh nghiệp [1]

và có đóng góp tích cực đối với

kết quả kinh doanh của doanh

nghiệp2. Nhiều bằng chứng thực

nghiệm trên thế giới đã khẳng

định mối quan hệ thuận chiều

giữa TSTT và kết quả kinh doanh

của doanh nghiệp, theo đó các

doanh nghiệp càng phát triển

nhiều TSTT thì càng có khả năng

đạt được nhiều doanh thu hơn

[2, 3]. Chẳng hạn, các nghiên cứu

chỉ ra rằng những doanh nghiệp

có hoạt động nghiên cứu và triển

khai, có đầu tư cho hoạt động đổi

mới sáng tạo thì có khuynh hướng

lựa chọn sáng chế (SC) làm công

cụ phát triển kinh doanh [4, 5];

các nghiên cứu cũng cho thấy, số

lượng SC được bảo hộ độc quyền

do doanh nghiệp nắm giữ có tác

động thuận chiều tới kết quả kinh

doanh của doanh nghiệp [6, 7].

pdf 5 trang kimcuc 16660
Bạn đang xem tài liệu "Đóng góp của tài sản trí tuệ đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đóng góp của tài sản trí tuệ đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp

Đóng góp của tài sản trí tuệ đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
20 Soá 7 naêm 2018
Diễn đàn Khoa học - Công nghệ
Lợi ích kinh tế của TSTT1 đối với doanh 
nghiệp
TSTT ngày càng được thừa 
nhận có vai trò quan trọng đối 
với sự hình thành và phát triển 
nội lực của doanh nghiệp [1] 
và có đóng góp tích cực đối với 
kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp2. Nhiều bằng chứng thực 
nghiệm trên thế giới đã khẳng 
định mối quan hệ thuận chiều 
giữa TSTT và kết quả kinh doanh 
của doanh nghiệp, theo đó các 
doanh nghiệp càng phát triển 
nhiều TSTT thì càng có khả năng 
đạt được nhiều doanh thu hơn 
[2, 3]. Chẳng hạn, các nghiên cứu 
chỉ ra rằng những doanh nghiệp 
có hoạt động nghiên cứu và triển 
khai, có đầu tư cho hoạt động đổi 
mới sáng tạo thì có khuynh hướng 
lựa chọn sáng chế (SC) làm công 
cụ phát triển kinh doanh [4, 5]; 
các nghiên cứu cũng cho thấy, số 
lượng SC được bảo hộ độc quyền 
do doanh nghiệp nắm giữ có tác 
động thuận chiều tới kết quả kinh 
doanh của doanh nghiệp [6, 7]. 
Kết quả khảo sát hơn 200 doanh 
nghiệp lớn ở Anh năm 2002 [8] 
cho thấy, SC có giá trị kinh tế có 
tác động thuận chiều tới kết quả 
kinh doanh của doanh nghiệp, 
đồng thời chất lượng của SC tác 
động thuận chiều tới lợi nhuận 
biên của doanh nghiệp [9, 10]. 
Tuy nhiên, tác động của SC tới 
kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp còn phụ thuộc vào quy 
mô, độ tuổi và trình độ quản trị 
SC của doanh nghiệp [11-13]. 
Không chỉ có SC, trong những 
năm gần đây, vai trò của kiểu 
dáng công nghiệp (KDCN) với 
danh nghĩa công cụ dẫn dắt quá 
trình đổi mới sáng tạo và cho 
phép doanh nghiệp phát triển 
nhiều sản phẩm, dịch vụ có giá trị 
hơn, mang lại kết quả kinh doanh 
lớn hơn cũng được nhiều học giả 
thừa nhận [14]. Cụ thể, các doanh 
nghiệp sở hữu KDCN trong giai 
đoạn 1990-2000 đều có kết quả 
kinh doanh chịu tác động bởi việc 
nắm giữ KDCN được bảo hộ độc 
quyền, và tác động này trung 
bình tới 17% [15]. 
Cùng với SC, nhãn hiệu (NH) 
được coi là một loại TSTT quan 
trọng nhất đối với doanh nghiệp 
[16], có thể tác động tới kết quả 
kinh doanh của doanh nghiệp 
nhờ làm giảm chi phí tìm kiếm 
của người tiêu dùng và tăng giá 
bán nhờ lợi thế khác biệt. Một số 
nghiên cứu cho thấy, NH có tác 
động thuận chiều tới giá trị thị 
trường của doanh nghiệp [17, 
18]; hơn nữa, NH còn có tác động 
mạnh hơn tới giá trị thị trường 
của doanh nghiệp dịch vụ so với 
doanh nghiệp sản xuất [19]; NH 
làm gia tăng đáng kể cơ hội “sống 
sót” của doanh nghiệp, thậm chí 
trong gần như tất cả các lĩnh vực 
[12, 20]. Trong số các doanh 
nghiệp lớn ở Anh thuộc lĩnh vực 
dịch vụ và chế tạo trong giai đoạn 
1996-2000, những doanh nghiệp 
có NH tạo ra nhiều giá trị gia tăng 
vượt trội hơn so với những doanh 
Đóng góp của tài sản trí tuệ 
đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
Nguyễn Hữu Cẩn
viện Khoa học sở hữu trí tuệ
Trên cơ sở những bằng chứng thực tiễn của thế giới về lợi ích của tài sản trí tuệ (TSTT) đối với doanh 
nghiệp, bài viết phân tích thực trạng phát triển TSTT và đóng góp của loại tài sản này đối với kết 
quả kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015. Kết quả phân tích cho thấy, 
TSTT có vai trò to lớn trong việc cải thiện vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Từ đó, tác giả đưa 
ra một số gợi ý về chiến lược phát triển TSTT của doanh nghiệp trong thời gian tới.
1Trong bài viết này, thuật ngữ “TSTT” chỉ 
giới hạn ở một số dạng điển hình như sáng 
chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu. 
Các dạng TSTT khác như bí quyết kỹ thuật, 
tên thương mại, các quyền phát sinh từ hợp 
đồng, lợi thế kinh doanh... sẽ không được 
đề cập đến vì không sẵn có dữ liệu tin cậy.
2Có nhiều chỉ báo đo lường kết quả kinh 
doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn tổng 
doanh thu hoặc tổng tăng trưởng tài sản, lợi 
nhuận biên, suất lợi nhuận trên doanh thu, 
suất lợi nhuận trên tài sản, suất lợi nhuận 
trên vốn chủ, năng suất. Tương tự, có nhiều 
cách đo lường đối với TSTT, chẳng hạn số 
lượng TSTT được bảo hộ độc quyền thuộc 
sở hữu của một doanh nghiệp trong một 
năm (stock), số lượng TSTT của doanh 
nghiệp được nộp đơn đăng ký bảo hộ độc 
quyền trong một năm (flows); tốc độ tăng 
trưởng đơn đăng ký bảo hộ TSTT trong một 
giai đoạn nhất định (active)...
21
Soá 7 naêm 2018
Diễn đàn khoa học - công nghệ
nghiệp không có NH [19]. Những 
doanh nghiệp thành công thường 
có nhiều NH được bảo hộ độc 
quyền. Nghiên cứu còn cho thấy, 
các doanh nghiệp coi trọng độc 
quyền đối với giải pháp kỹ thuật 
(SC) và giải pháp kinh doanh 
(KDCN, NH) thì có xu hướng 
đạt kết quả kinh doanh cao hơn 
những doanh nghiệp không coi 
trọng việc nắm giữ độc quyền đối 
với các TSTT đó [11].
Tình hình phát triển TSTT của doanh 
nghiệp Việt Nam
Để khẳng định lợi ích của việc 
phát triển TSTT đối với các doanh 
nghiệp Việt Nam, chúng tôi tiến 
hành khảo sát và phân tích các 
tác động của TSTT đối với kết 
quả kinh doanh3. Mẫu khảo sát 
gồm 201 doanh nghiệp4 có loại 
hình và quy mô khác nhau, được 
đồng bộ hóa dữ liệu về tài chính 
được công bố bởi một số nhà 
cung cấp dịch vụ thông tin tài 
chính trên internet, với dữ liệu về 
doanh nghiệp tương ứng đã nộp 
đơn đăng ký SC, KDCN và NH 
tại Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) 
trong giai đoạn 2011-2015. Mối 
quan hệ giữa số lượng TSTT mà 
doanh nghiệp nắm giữ và kết quả 
kinh doanh của doanh nghiệp 
được phân tích với sự hỗ trợ của 
phần mềm SPSS 20. Với mẫu đã 
khảo sát, số lượng TSTT mà một 
doanh nghiệp nắm giữ được tính 
là tổng số đơn đăng ký SC, KDCN 
và NH được nộp tại Cục SHTT 
trong giai đoạn trên. Kết quả kinh 
doanh của doanh nghiệp được đo 
bằng tỷ số giữa doanh thu trung 
bình và số lượng lao động trung 
bình của doanh nghiệp5 tương 
ứng trong giai đoạn 2014-2016. 
Kết quả phân tích cho thấy, có 
sự khác biệt đáng kể về số lượng 
TSTT mà mỗi doanh nghiệp nắm 
giữ, trong đó có doanh nghiệp 
nắm giữ tới 394 TSTT (NH: 387, 
KDCN: 7) và có tới 50 doanh 
nghiệp mới chỉ có 1 TSTT (đã 
nộp đơn đăng ký). Đáng chú ý 
là những doanh nghiệp nắm giữ 
nhiều TSTT phần lớn đều hoạt 
động trong các ngành kinh tế như 
hóa chất, dược phẩm, văn phòng 
phẩm, thực phẩm, mỹ phẩm; còn 
những doanh nghiệp nắm giữ 
ít TSTT phần lớn lại hoạt động 
trong các ngành như bán lẻ hàng 
tiêu dùng, sản xuất thiết bị điện, 
điện tử, xây dựng, bất động sản, 
thủy lợi, thủy sản, may mặc, khai 
thác khoáng sản... Điều đó gợi ý 
rằng dường như có sự mất cân 
đối trong việc phát triển TSTT 
theo cơ cấu ngành công nghiệp: 
Những ngành mà Việt Nam vốn 
có lợi thế cạnh tranh (về lao động, 
tài nguyên) thì lại nắm giữ không 
nhiều TSTT, trong khi những 
ngành có tính cạnh tranh cao và 
vốn không phải là thế mạnh về 
công nghệ của Việt Nam thì lại 
có khá nhiều TSTT (chủ yếu là 
NH). Tình hình đó cho thấy, mô 
hình tăng trưởng kinh tế ở cấp độ 
doanh nghiệp đang dựa nhiều 
vào lợi thế cạnh tranh bậc thấp và 
sự chuyển dịch nguồn lực đầu tư 
cho phát triển công nghệ từ Nhà 
nước sang doanh nghiệp còn khá 
chậm. 
Xét về khía cạnh kết quả kinh 
doanh, việc phân tích mẫu khảo 
sát cho thấy dường như các 
TSTT có sự đóng góp nhất định 
cho doanh nghiệp. Những doanh 
nghiệp nắm giữ nhiều TSTT có 
kết quả kinh doanh (tính theo 
doanh thu/lao động) cao hơn 
so với doanh nghiệp nắm giữ ít 
TSTT. Bảng 1 được trích xuất từ 
mẫu khảo sát phản ánh mối quan 
hệ này ở một số doanh nghiệp 
thuộc các lĩnh vực có nhiều TSTT 
nhất (dược phẩm, thực phẩm, cơ 
khí, hóa chất, du lịch).
Có thể thấy rằng trong mẫu 
được trích xuất, khi số lượng TSTT 
của doanh nghiệp tăng lên thì kết 
quả kinh doanh cũng tăng. So 
với doanh nghiệp chỉ có 7 TSTT, 
kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp có 269 TSTT (nhiều gấp 
38,4 lần) cao hơn gấp 13,9 lần. 
Điều đáng chú ý là trong các 
doanh nghiệp này, TSTT có đóng 
3Trong thực tế, số lượng TSTT mà các doanh 
nghiệp nắm giữ chắc chắn nhiều hơn số 
lượng TSTT đã đăng ký vì dữ liệu chưa bao 
gồm các dạng TSTT khác như tên thương 
mại, bí quyết kỹ thuật, các mối quan hệ hợp 
đồng, bản quyền tác giả... và những TSTT 
mà doanh nghiệp nắm giữ nhưng chưa thực 
hiện việc đăng ký bảo hộ. Vì chưa có điều 
kiện và nói chung là không thể thực hiện 
được việc thống kê đầy đủ số lượng của 
tất cả các dạng TSTT mà toàn bộ doanh 
nghiệp Việt Nam nắm giữ hay sở hữu trong 
một giai đoạn nhất định, mối tương quan 
giữa số lượng TSTT và kết quả kinh doanh 
của doanh nghiệp chỉ mang tính tham khảo, 
gợi ý chính sách mà không mang tính tuyệt 
đối chính xác dùng để báo cáo thống kê.
4Nguồn tra cứu thông tin doanh nghiệp có 
công bố doanh thu và lao động gồm có 
vietstock.vn (chiếm hơn 90% dữ liệu, gồm 
các thông tin tài chính tương ứng của từng 
doanh nghiệp được tra cứu, báo cáo tài 
chính đã kiểm toán theo năm của doanh 
nghiệp, báo cáo thường niên của doanh 
nghiệp); cafef.vn (chiếm gần 10% dữ liệu, 
gồm các thông tin tài chính tương ứng của 
từng doanh nghiệp được tra cứu, báo cáo 
tài chính đã kiểm toán theo năm của doanh 
nghiệp, báo cáo thường niên của doanh 
nghiệp) và website của doanh nghiệp (một 
vài trường hợp, gồm báo cáo tài chính được 
công bố trên trang web của chính doanh 
nghiệp). Cơ sở dữ liệu về đơn đăng ký SC, 
KDCN và NH được sử dụng gồm VIPRI_
INV, VIPRI_NH và VIPRI_KD.
5Phụ thuộc vào sự sẵn có của dữ liệu, chúng 
tôi giả định rằng kết quả kinh doanh của 
doanh nghiệp có giá trị không thay đổi trong 
giai đoạn 2011-2015.
22 Soá 7 naêm 2018
Diễn đàn Khoa học - Công nghệ
góp vào kết quả kinh doanh hầu 
như chỉ có NH (kết quả tra cứu 
cơ sở dữ liệu về SC, KDCN cho 
biết trong giai đoạn 2011-2015, 
các doanh nghiệp này không có 
SC, KDCN được đăng ký bảo 
hộ). Điều đó cho thấy vai trò quan 
trọng của NH đối với kết quả kinh 
doanh của doanh nghiệp. Đối với 
doanh nghiệp khác trong mẫu 
khảo sát, có thể thấy rằng cơ cấu 
TSTT mà mỗi doanh nghiệp nắm 
giữ rất đa dạng, không thực sự 
phản ánh khuynh hướng nào. Để 
đánh giá tác động của TSTT nói 
chung (gồm SC, KDCN và NH) 
tới kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp, chúng tôi tiến hành phân 
tích hồi quy với mẫu đã khảo sát 
để có thể suy rộng cho tổng thể.
Việc phân tích tác động của 
TSTT đối với kết quả kinh doanh 
của doanh nghiệp dựa trên mô 
hình nghiên cứu [21], theo đó 
mối quan hệ giữa số lượng TSTT 
của doanh nghiệp và kết quả 
kinh doanh được phản ánh bằng 
phương trình hồi quy: FP = β0 + 
β1.IA + U. Kết quả kiểm định cho 
thấy, trong giai đoạn 2011-2015 
có cơ sở để khẳng định sự tồn 
tại mối quan hệ giữa số lượng 
TSTT mà doanh nghiệp sở hữu 
và kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp (bảng 2).
Đồng thời, kết quả kiểm định 
cũng cho biết với mẫu đã khảo 
sát, TSTT có tác động thuận chiều 
tới kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp (hệ số β0 = 10,975 > 0) 
và tác động này có ý nghĩa thống 
kê ở khoảng tin cậy 95%. Việc ước 
lượng hệ số hồi quy còn cho biết, 
nếu số lượng TSTT tăng thêm 1 
Tên doanh nghiệp
Doanh thu trung 
bình (2014-2016) 
(đơn vị: triệu 
đồng)
Số lượng lao động 
trung bình (2014-
2016) (đơn vị: 
người)
Số lượng 
TSTT 
(2011-
2015)
Kết quả kinh 
doanh: Doanh thu/
lao động (đơn vị: 
triệu đồng/người)
Công ty Cổ phần 
(CP) dược phẩm 
Cần Giờ
266298 65 269 4096,89
Công ty CP dược 
phẩm Tipharco 316209 291 192 1086,63
Công ty CP dược 
phẩm Bến Tre 566317 357 110 1586,32
Công ty CP dược 
Đồng Nai 178787 126 110 1418,94
Công ty CP thực 
phẩm quốc tế 1305349 1282 40 1018,21
Tập đoàn Hoa Sen 4994179 7095 35 703,90
Công ty CP nhựa 
Sài Gòn 74994 110 21 681,76
Công ty CP đồ hộp 
Hạ Long 430020 774 16 555,58
Công ty CP diêm 
Thống Nhất 102429 289 12 354,43
Công ty CP Meinfa 268761 846 7 317,68
Công ty CP du lịch 
dịch vụ Hội An 169882 577 7 294,42
Bảng 1. Số lượng TSTT và kết quả kinh doanh của một số doanh nghiệp được khảo 
sát.
(nguồn: tác giả)
Bảng 2. ước lượng tác động của TSTT tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm tắt mô hình
Mô 
hình R R
2 R2 điều chỉnh Sai số chuẩn của ước lượng
(1) 0,883 0,780 0,755 536,70580
ANOVA
Mô hình Tổng bình phương df
Trung bình bình 
phương F Sig.
(1)
Hồi quy 9179021,487 1 9179021,487 31,866 ,000b
Phần dư 2592477,994 9 288053,110
Tổng 11771499,482 10
Các hệ số hồi quy
Mô hình
B
Hệ số chưa chuẩn hóa
Hệ số 
chuẩn 
hóa t Sig.
Sai số chuẩn Beta
(1)
(Constant) 284,230 217,116 1,309 0,223
IA 10,975 1,944 0,883 5,645 0,000
(nguồn: tác giả)
23
Soá 7 naêm 2018
Diễn đàn khoa học - công nghệ
đơn vị thì có khả năng làm cho 
kết quả kinh doanh của doanh 
nghiệp tăng hơn 10,97 lần. Như 
vậy, kết quả phân tích phù hợp 
với thực tiễn và những nghiên cứu 
trước đây về mối quan hệ thuận 
chiều giữa TSTT và kết quả kinh 
doanh của doanh nghiệp, trong 
bối cảnh ở Việt Nam, TSTT có 
vai trò quan trọng đối với hoạt 
động kinh doanh của doanh 
nghiệp. Mối tương quan giữa số 
lượng TSTT và doanh thu/người 
lao động của doanh nghiệp cho 
biết những doanh nghiệp có càng 
nhiều TSTT thì càng có cơ hội cải 
thiện vị thế cạnh tranh của mình 
trên thị trường.
Một số gợi ý về chiến lược phát triển 
TSTT của doanh nghiệp trong giai 
đoạn tới
Sau 12 năm thực hiện Chiến 
lược phát triển hoạt động sở hữu 
công nghiệp tại Việt Nam (1998-
2010) và sau 10 năm (2007-
2017) tiếp tục hội nhập quốc tế 
trong khuôn khổ Hiệp định TRIPS 
và các điều ước quốc tế về SHTT 
mà Việt Nam ký kết hoặc tham 
gia, trong giai đoạn tới nền kinh 
tế Việt Nam được nhận định là 
sẽ chuyển dịch mạnh mẽ về cơ 
cấu và chuyển đổi mô hình tăng 
trưởng, coi năng suất, chất lượng, 
hiệu quả và sức cạnh tranh là ưu 
tiên hàng đầu, chú trọng phát 
triển theo chiều sâu và phát triển 
kinh tế tri thức. Trong bối cảnh đó, 
hoạt động phát triển TSTT ngày 
càng thu hút sự tham gia của đông 
đảo các cá nhân, tổ chức, doanh 
nghiệp; vai trò của TSTT đối với 
kinh tế ngày càng trở nên rõ rệt 
và nhận được nhiều sự quan tâm 
của xã hội. Tuy nhiên theo phân 
tích ban đầu cho thấy, trong thời 
gian qua, mặc dù các TSTT của 
doanh nghiệp có đóng góp tích 
cực đối với kết quả kinh doanh, 
nhưng nhìn chung chưa thực sự 
đáp ứng được đòi hỏi ngày càng 
cao của sự phát triển: Số lượng 
các TSTT là tri thức công nghệ 
của Việt Nam còn nhỏ bé, giá trị 
không cao, hầu như chưa có sản 
phẩm trí tuệ nào có giá trị cạnh 
tranh trên phạm vi toàn cầu. 
Một trong những nguyên nhân 
quan trọng của thực trạng này 
là do SHTT vẫn còn là một lĩnh 
vực mới mẻ, trình độ khoa học 
và công nghệ và quản trị TSTT 
của doanh nghiệp Việt Nam chưa 
cao, nhất là trong bối cảnh cuộc 
cách mạng công nghiệp 4.0 diễn 
ra mạnh mẽ, cạnh tranh kinh tế 
giữa các quốc gia - doanh nghiệp 
ngày càng gay gắt và việc đổi mới 
sáng tạo trở thành yếu tố quyết 
định ưu thế trong cạnh tranh. 
Vì vậy, để phát huy hơn nữa 
vai trò của TSTT đối với kết quả 
kinh doanh của doanh nghiệp nói 
riêng và tăng trưởng kinh tế nói 
chung, trước hết cần khẳng định 
quan điểm phát triển TSTT thực 
sự có chất lượng và giá trị kinh 
tế là một mục tiêu hàng đầu. Nhà 
nước, một mặt cần thực hiện vai 
trò kiến tạo về môi trường, thông 
qua việc hoàn thiện thể chế bảo 
hộ quyền SHTT, nâng cao chất 
lượng thực thi pháp luật và quản 
lý nhà nước về SHTT một cách 
thỏa đáng, minh bạch và công 
bằng, mặt khác cần định hướng 
doanh nghiệp chú trọng sự kết 
hợp giữa việc sử dụng, khai thác 
thông tin SHTT của thế giới với 
việc tạo ra, khai thác và phát triển 
các loại TSTT nhằm nâng cao 
chất lượng các sản phẩm sáng 
tạo, đặc biệt là các SC của Việt 
Nam; chú trọng việc quản trị các 
TSTT, đặc biệt là các NH trong 
kinh doanh.
Để đạt mục tiêu nêu trên, về 
mặt chiến lược, đối với hệ thống 
pháp luật và chính sách về SHTT, 
24 Soá 7 naêm 2018
Diễn đàn Khoa học - Công nghệ
Nhà nước cần chú ý việc khuyến 
khích, hỗ trợ hoạt động sáng 
tạo, khai thác, thương mại hóa 
sản phẩm, quy trình công nghệ; 
hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp 
thực hiện việc đăng ký và bảo hộ 
các TSTT, hỗ trợ hoạt động khởi 
nghiệp trên nền tảng TSTT. Đối 
với hệ thống bổ trợ, cần chú trọng 
việc hiện đại hóa các cơ sở dữ 
liệu SHTT theo hướng đầy đủ, chi 
tiết, được cập nhật kịp thời kèm 
theo các công cụ nhận dạng, 
phân loại, sắp xếp khoa học, các 
công cụ tra cứu thân thiện bảo 
đảm đáp ứng một cách thuận 
tiện, nhanh chóng với độ tin cậy 
cao mọi nhu cầu thông tin phục 
vụ các hoạt động nghiên cứu - 
phát triển, nghiên cứu thị trường, 
đăng ký, thương mại hóa TSTT 
của doanh nghiệp. Đồng thời, 
cần tiếp tục mở rộng và cải tiến 
hoạt động tuyên truyền, phổ biến 
kiến thức về SHTT và TSTT dưới 
nhiều hình thức thiết thực nhằm 
nâng cao nhận thức và hiểu biết 
của doanh nghiệp về tầm quan 
trọng của TSTT đối với hoạt động 
kinh doanh, từng bước xây dựng 
tập quán ứng xử văn minh trong 
các quan hệ về SHTT. Đặc biệt, 
Nhà nước cần tổ chức một cách 
hệ thống việc huấn luyện kỹ năng 
sử dụng bài bản, có hiệu quả 
các công cụ quản trị TSTT trong 
quá trình tạo dựng, xác lập độc 
quyền, thương mại hóa, bảo vệ 
TSTT trong môi trường sản xuất, 
kinh doanh của doanh nghiệp ?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] K. Rockett (2010), “Property 
rights and invention”, Handbook of the 
Economics of Innovation, Elsevier. 
[2] C. Helmers, M. Rogers (2011), 
“Does patenting help high-tech start-
ups?”, Research Policy, 40, pp.1016-
1027.
[3] A. Kransnikov, et al. (2009), 
“Evaluating the Financial Impact 
of Branding Using Trademarks: A 
Framework and Empirical Evidence”, 
Journal of Marketing, 73, pp.154-166.
[4] G. Licht, K. Zoz (1998), 
Patents and R&D: An Econometric 
Investigation using Applications for 
German, European and US Patents 
by German Companies, Annales 
d´Économie et Statistique. 
[5] B.H. Hall, R.H. Ziedonis (2001), 
“The Patent Paradox Revisited: An 
Empirical Study of Patenting in the U.S. 
Semiconductor Industry, 1979-1995”, 
The RAND Journal of Economics, 
32(1), pp.101-128. 
[6] J. Lerner (2009), “The Empirical 
Impact of Intellectual Property Rights 
on Innovation: Puzzles and Clues”, 
The American Economic Review, 
49(2), pp.343.348.
[7] Y. Kim, et al. (2010), “Appropriate 
intellectual property protection and 
economic growth in countries at 
different levels of development”, 
Research Policy, 41, pp.358-375.
[8] N. Bloom, J. Van Reenen 
(2002), “Patents, Real Options and 
Firm Performance”, The Economic 
Journal, 11, pp.97-114.
[9] Y. Cheng, et al. (2010), 
“Profitability decided by patent 
quality? An empirical study of the 
U.S. semiconductor industry”, 
Scientometrics, 82, pp.175-183.
[10] U. Lichtenthaler (2009), “The 
role of corporate technology strategy 
and patent portfolios in low-, medium-, 
and high-technology firms”, Research 
Policy, 38(3), pp.559-569.
[11] F. Munari, S. Santoni (2010), 
“Exploiting complementarities in 
IPR mechanisms: The joint use of 
patents, trademarks and designs 
by SMEs”, Paper Presented at the 
Strategic Management Society Annual 
Conference, Rome, Italia.
[12] C. Helmers, M. Rogers (2010), 
“Innovation and the survival of new 
firms in the UK”, Review of Industrial 
Organization, 36(3), pp.227-248. 
[13] H. Ernst, et al. (2016), “How to 
create commercial value from patents: 
The role of patent management”, 
Research Policy, 26, pp.677-690. 
[14] R. Verganti (2008), “Design, 
Meanings, and Radical Innovation: a 
meta-model and a research agenda”, 
Journal of Product Innovation 
Management, 25, pp.436-456.
[15] E. Bascavusoglu Moreau, B. 
Tether (2011), “Design Economics 
Chapter Two: Registered Designs & 
Business Performance - Exploring 
the Links”, Intellectual Property Office, 
2011(6), pp.1-36.
[16] J. Thomä, K. Bizer (2013), “To 
protect or not to protect? Modes of 
appropriability in the small enterprise 
sector”, Research Policy, 42(1), pp.35-
49. 
[17] P. Sandner, J. Block (2011), 
“The market value of R&D, patents, 
and trademarks”, Research Policy, 
40(7), pp.969-985. 
[18] J. Block, et al. (2014), 
“Trademark families: characteristics 
and market values”, Journal of Brand 
Management, 21(2), pp.150-170. 
[19] C. Greenhalgh, M. Rogers 
(2012), “Trade Marks and Performance 
in Services and Manufacturing 
Firms: Evidence of Schumpeterian 
Competition through Innovation”, The 
Australian Economic Review, 45(1), 
pp.50-76.
[20] R. Srinivasan, et al. (2008), 
“Survival of high tech firms: the 
effects of diversity of product-market 
portfolios, patents, and trademarks”, 
International Journal of Research in 
Marketing, 25(2), pp.119-128.
[21] Office for Harmonization 
in the Internal Market (2015), 
Intellectual Property Rights and Firms 
Performance in Europe: An Economic 
Analysis, Alicante.

File đính kèm:

  • pdfdong_gop_cua_tai_san_tri_tue_doi_voi_ket_qua_kinh_doanh_cua.pdf