Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay

Bài viết phân tích các quan điểm mới trong hệ tư tưởng chính trị

của Đảng và Nhà nước Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Đó là những

quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về

đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản

chủ nghĩa, về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, về vấn đề quan hệ giữa các quốc gia,

về hệ thống chính trị, về việc thực hiện dân chủ. Theo tác giả, những quan

điểm mới đó đã làm cho bộ mặt chính trị nước ta thay đổi theo hướng ngày

càng tiến bộ hơn, đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của

đất nước.

pdf 11 trang kimcuc 8080
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay

Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam... 
 3 
ĐỔI MỚI HỆ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM 
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY 
DƯƠNG PHÚ HIỆP * 
Tóm tắt: Bài viết phân tích các quan điểm mới trong hệ tư tưởng chính trị 
của Đảng và Nhà nước Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Đó là những 
quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về 
đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản 
chủ nghĩa, về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, về vấn đề quan hệ giữa các quốc gia, 
về hệ thống chính trị, về việc thực hiện dân chủ. Theo tác giả, những quan 
điểm mới đó đã làm cho bộ mặt chính trị nước ta thay đổi theo hướng ngày 
càng tiến bộ hơn, đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của 
đất nước. 
Từ khóa: Đổi mới, hệ tư tưởng chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Hệ tư tưởng chính trị là hệ thống 
quan điểm về chính trị bao gồm: các 
quan điểm về giai cấp và quan hệ giai 
cấp (đấu tranh giai cấp và liên minh giai 
cấp), về dân tộc và quan hệ dân tộc, về 
quốc gia và quan hệ quốc gia, về hệ 
thống chính trị và quan hệ giữa các bộ 
phận của hệ thống đó; về các hoạt động 
chính trị, v.v.. Hệ tư tưởng chính trị 
đóng vai trò chỉ đạo các hoạt động chính 
trị và các quan hệ chính trị của cá nhân 
và cả cộng đồng. Trong thời kỳ đổi mới, 
Đảng và Nhà nước đã có nhiều đổi mới 
hệ tư tưởng chính trị. Lý do trước hết 
cần phải đổi mới hệ tư tưởng chính trị là 
sự thay đổi của tình hình trong nước và 
trên thế giới; hệ tư tưởng được hình 
thành trước đây cần phải thay đổi cho 
phù hợp với xu thế chính trị quốc tế hiện 
nay. Lý do thứ hai là quan điểm chính 
trị hình thành trước đây có những hạn 
chế nhất định (như chủ quan duy ý chí, 
nóng vội, giáo điều, bảo thủ trì trệ...). 
Hệ tư tưởng chính trị giai đoạn từ năm 
1986 đến nay có nhiều quan điểm mới 
so với giai đoạn trước, trong đó có 
những quan điểm sau.(*) 
Thứ nhất, quan điểm mới về chủ 
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ 
nghĩa xã hội. 
Ngay khi mới ra đời và trong suốt 
quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta 
đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa 
xã hội. Vào những năm cuối thế kỷ XX, 
mặc dù hệ thống các nước xã hội chủ 
nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ 
nghĩa lâm vào khủng hoảng, thoái trào, 
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Hàn lâm Khoa học xã 
hội Việt Nam. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014 
 4 
song Đảng ta vẫn quyết tâm xây dựng 
đất nước Việt Nam theo con đường xã 
hội chủ nghĩa. Tại Đại hội Đảng lần thứ 
XI (tháng 01 năm 2011) trong Cương 
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, 
phát triển năm 2011), Đảng ta một lần 
nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã 
hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự 
lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản 
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, 
phù hợp với xu thế phát triển của lịch 
sử". Tuy nhiên, về vấn đề “chủ nghĩa xã 
hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng 
cách nào?”, quan điểm của Đảng ta có 
sự đổi mới. Cụ thể, Đảng ta đã nhận 
thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội 
và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã 
hội; đã khắc phục một số quan niệm đơn 
giản trước đây (như đồng nhất mục tiêu 
cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với 
nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn 
mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế 
độ phân phối bình quân, không thấy đầy 
đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất 
trong thời kỳ quá độ; đồng nhất kinh tế 
thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng 
nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước 
tư sản). Cương lĩnh xây dựng đất nước 
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã 
khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa 
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: 
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công 
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; 
có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên 
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ 
sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn 
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; 
con người có cuộc sống ấm no, tự do, 
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn 
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt 
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và 
giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của 
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do 
Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu 
nghị và hợp tác với các nước trên thế 
giới”(1). Cùng với quan điểm mới về chủ 
nghĩa xã hội như vậy, quan điểm về con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng 
được đổi mới. Con đường để đi tới mục 
tiêu chủ nghĩa xã hội được Đảng ta xác 
định là: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh 
tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 
xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà 
bản sắc dân tộc, xây dựng con người, 
nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện 
tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm 
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc 
gia, trật tự an toàn xã hội; thực hiện 
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa 
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, 
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; 
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, 
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng 
cường và mở rộng mặt trận dân tộc 
thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp 
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 70. 
Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam... 
 5 
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, 
do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng 
Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong các 
quan điểm mới về con đường đi lên chủ 
nghĩa xã hội thì quan điểm phát triển 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú 
Trọng đã chỉ ra, là một đột phá lý luận 
rất cơ bản và sáng tạo của Đảng. Kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành 
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có 
sự quản lý của Nhà nước theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một kiểu 
kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát 
triển của kinh tế thị trường. Nó là một 
kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo 
những quy luật của kinh tế thị trường 
vừa dựa trên các nguyên tắc của chủ 
nghĩa xã hội. Đây không phải là nền 
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và 
cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã 
hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có 
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành 
phần kinh tế. Các thành phần kinh tế 
hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận 
hợp thành quan trọng của nền kinh tế, 
bình đẳng trước pháp luật cùng phát 
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành 
mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ 
vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không 
ngừng được củng cố và phát triển; kinh 
tế tư nhân là một trong những động lực 
của nền kinh tế; kinh tế hỗn hợp, đa sở 
hữu ngày càng phát triển; kinh tế nhà 
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng 
trở thành nền tảng vững chắc của nền 
kinh tế quốc dân. Quan hệ phân phối 
bảo đảm công bằng và tạo động lực cho 
phát triển. Thực hiện chế độ phân phối 
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả 
kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp 
vốn cùng các nguồn lực khác và phân 
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, 
phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền 
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy 
hoạch, kế hoạch, chính sách và lực 
lượng vật chất để định hướng, điều tiết, 
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 
Thứ hai, quan điểm mới về đấu tranh 
giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường 
xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa 
 Trước đây, đấu tranh giai cấp và đấu 
tranh giữa hai con đường để giải quyết 
vấn đề “ai thay ai” giữa chủ nghĩa xã hội 
và chủ nghĩa tư bản đã được cường điệu 
và được coi là động lực thúc đẩy sự phát 
triển xã hội. Theo quan điểm ấy, nhiều 
cuộc đấu tranh giai cấp đã diễn ra liên 
tục, nhiều khi gay go ác liệt, gây nên 
bao khó khăn, trở ngại cho sự phát triển 
đất nước. Đại hội IX của Đảng (năm 
2001) đã đưa ra định hướng chính trị 
đúng đắn: “Động lực chủ yếu để phát 
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân”. 
Đây là kết quả tổng kết nhiều giai đoạn 
phát triển của đất nước, là sự cụ thể hóa 
tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết 
toàn dân trong giai đoạn phát triển mới. 
Hiện nay, trong các văn kiện chính 
thức, Đảng và Nhà nước ta không coi 
đấu tranh giai cấp là động lực của sự 
phát triển, không còn dùng cụm từ “đấu 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014 
 6 
tranh giữa hai con đường để giải quyết 
vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã 
hội và chủ nghĩa tư bản ở nước ta”. Đó 
là một quan điểm mới về vấn đề đấu 
tranh giai cấp ở nước ta trong những 
năm vừa qua. Tất nhiên, để đạt được kết 
quả đó, nước ta đã trải qua không ít 
thăng trầm với những diễn biến phức tạp 
và cái giá phải trả khá đắt. 
Thứ ba, quan điểm mới về vấn đề đại 
đoàn kết toàn dân tộc 
Trong những năm khủng hoảng kinh 
tế - xã hội, do sai lầm trong những chủ 
trương lớn và sự chỉ đạo chiến lược; do 
những khuyết điểm trong công tác tư 
tưởng và công tác tổ chức, cán bộ; do sự 
thoái hóa biến chất của một số cán bộ, 
đảng viên, cho nên khối đại đoàn kết 
toàn dân tộc đã bị ảnh hưởng nặng nề. 
Nhiều nhóm dân cư đã từng nhiệt tình, 
hăng hái góp công, góp của theo tiếng 
gọi cứu nước, từng đồng hành cùng dân 
tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng, thì 
khi bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ 
nghĩa, họ lại trở thành những thành phần 
“phi xã hội chủ nghĩa”, trở thành đối 
tượng cần phải cải tạo. Đó là các nhà 
công thương, tiểu thương, tiểu chủ, 
những người lao động cá thể Sự đồng 
nhất một cách máy móc giữa yêu nước 
và yêu chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến sự 
kỳ thị và phân biệt đối xử trong xã hội. 
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền 
thống hòa hiếu, nhân nghĩa, bao dung, 
bác ái, song nhiều việc làm thái quá đã 
làm tổn thương truyền thống tốt đẹp ấy, 
đã gây nên những xáo trộn và tâm lý 
mặc cảm, tự ti, dè chừng, thiếu sự tin 
cậy lẫn nhau trong đời sống cộng đồng 
dân tộc. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước 
và chế độ xã hội chủ nghĩa của một bộ 
phận nhân dân chưa vững chắc, phần vì 
đời sống của họ còn nhiều khó khăn, 
phần vì họ bất bình trước những bất 
công xã hội và tình trạng tham nhũng, 
quan liêu, lãng phí còn khá phổ biến và 
nghiêm trọng. Việc tập hợp Nhân dân 
vào mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các 
đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều 
hạn chế. Trước đây, chủ trương của 
Đảng chỉ thực hiện liên minh công 
nông, chưa chú ý coi trọng tầng lớp trí 
thức. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc 
chưa thật bền chặt và đứng trước những 
thách thức mới. 
Nguyên nhân chủ yếu là do Đảng và 
Nhà nước chưa phân tích và dự báo đầy 
đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp 
- xã hội và những mâu thuẫn mới nảy 
sinh trong nhân dân. Trong một thời 
gian dài, Đảng và Nhà nước chưa có chủ 
trương khắc phục những mâu thuẫn ấy 
một cách đúng đắn, kịp thời. Một số chủ 
trương, chính sách của Đảng và Nhà 
nước chưa thể hiện đầy đủ quan điểm 
đại đoàn kết toàn dân tộc, có những 
chính sách khi thực hiện đã gây thiệt hại 
cho khối đại đoàn kết. Chính sách thực 
dân “chia để trị” cũng để lại hậu quả 
tiêu cực đến tận ngày nay. Thêm vào đó, 
các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối 
đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua các 
chiêu bài dân chủ, tự do, nhân quyền, 
dân tộc, tôn giáo. 
Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam... 
 7 
Trong quá trình đổi mới, quan điểm 
của Đảng và Nhà nước ta về dân tộc và 
đại đoàn kết toàn dân tộc cũng đổi mới. 
Điều đó thể hiện ở chỗ Đảng và Nhà 
nước chủ trương xóa bỏ mặc cảm, định 
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành 
phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi 
mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới 
tương lai, cùng phấn đấu cho mục tiêu 
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công 
bằng, văn minh. Đồng thời, Đảng và Nhà 
nước coi đại đoàn kết toàn dân tộc trên 
nền tảng liên minh giai cấp công nhân 
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức 
là nguồn gốc sức mạnh, là động lực chủ 
yếu và là nhân tố của ý nghĩa quyết định 
bảo đảm thắng lợi bền vững của sự 
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Trong quá trình đổi mới quan điểm 
về đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng và 
Nhà nước đã có những chủ trương, 
chính sách đáng chú ý: coi trọng vai trò 
của các doanh nhân trong phát triển kinh 
tế; coi kinh tế tư nhân là một trong 
những động lực của sự phát triển kinh 
tế; đặt việc giải quyết vấn đề tôn giáo 
trong vấn đề dân tộc và trong vấn đề văn 
hóa; coi tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu 
tinh thần của một bộ phận nhân dân; 
khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành 
kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có 
đạo; chống những hành vi vi phạm tự do 
tín ngưỡng; động viên và tạo điều kiện 
cho người Việt Nam ở nước ngoài 
hướng về quê hương xây dựng đất nước; 
khuyến khích đồng bào đầu tư về trong 
nước; thu hút, phát huy sự đóng góp của 
trí thức Việt kiều. 
Quan điểm mới của Đảng và Nhà 
nước về đại đoàn kết toàn dân tộc đang 
là tư tưởng chỉ đạo quan trọng không chỉ 
cho nhân dân trong nước mà cả cộng 
đồng kiều bào ở nước ngoài, đang tạo 
nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát 
triển của đất nước. 
Thứ tư, quan điểm mới về vấn đề 
quan hệ giữa các quốc gia 
Trước đây, quan hệ của nước ta chủ 
yếu là quan hệ với các nước xã hội chủ 
nghĩa anh em, còn quan hệ với các nước 
không xã hội chủ nghĩa có nhiều mặt 
hạn chế. Tư duy lúc đó còn nặng về ý 
thức hệ, lấy tiêu chí cách mạng của 
mình để đánh giá các quốc gia khác, 
phân định rạch ròi các quốc gia thành 
cách mạng và phản cách mạng, xã hội 
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, bạn và 
thù. Có lúc chúng ta nhìn thế giới như 
một vũ đài đấu tranh quyết liệt, một mất 
một còn, phê phán quyết liệt tư tưởng 
chung sống hòa bình. Nhận thức về chủ 
nghĩa tư bản chỉ mới thấy “chế độ tư 
bản đang trong cơn hấp hối” (Đại hội 
IV) vì nó đang “lâm vào một cuộc 
khủng hoảng trầm trọng chưa từng có” 
(Đại hội V). Nhận thức về chủ nghĩa xã 
hội thì quá lạc hậu vì cho rằng: “Sức 
mạnh của chủ nghĩa xã hội là vô địch và 
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ngày 
càng phát huy tác dụng là nhân tố quyết 
định sự phát triển của xã hội loài người” 
(Đại hội IV); “Các nước xã hội chủ 
nghĩa đang thể hiện tính ưu việt của chủ 
nghĩa xã hội. Liên Xô đang tiến mạnh 
vào giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất 
kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản; nhiều 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014 
 8 
nước đang đẩy mạnh quá tình hoàn 
thành xây dựng chủ nghĩa xã hội phát 
triển. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tạo 
ra sức mạnh tổng hợp vượt hơn các thế 
lực đế quốc và phản động” (Đại hội V). 
Nhận thức đó đã ảnh hưởng không nhỏ 
đến việc hoạch định đường lối, chính 
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, 
bỏ lỡ thời cơ hòa nhập vào cộng đồng 
quốc tế, gây ra nhiều khó khăn cho sự 
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Trong quá trình đổi mới, Đảng và 
Nhà nước đã có nhiều thay đổi trong 
quan điểm về quan hệ giữa các quốc gia. 
Đáng chú ý là nghị quyết 13 của Bộ 
chính trị (tháng 5 năm 1988) đã tạo ra 
một bước ngoặt trong đổi mới tư duy và 
các vấn đề quốc tế và đối ngoại. Điều đó 
thể hiện ở những luận điểm quan trọng 
sau đây: lợi ích cao nhất của Việt Nam 
là phải củng cố và giữ vững hòa bình để 
tập trung sức phát triển kinh tế; chủ 
động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng 
thái đối đầu hiện nay sang đấu tranh và 
hợp tác cùng tồn tại hòa bình, thi hành 
chính sách “thêm bạn bớt thù” và đa 
dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc tôn 
trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi. 
Có thể coi đây là bước điều chỉnh lần 
thứ nhất về tư duy đối ngoại của Đảng 
và Nhà nước, từ đó mở ra những định 
hướng đối ngoại mới trong các giai đoạn 
tiếp theo. 
Bước điều chỉnh lần thứ hai thể hiện 
trong các văn kiện của Đại hội VII của 
Đảng (tháng 6 năm 1991) với tuyên bố 
long trọng: Việt Nam muốn làm bạn với 
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, 
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát 
triển, thực hiện chính sách đa phương 
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, hợp 
tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả 
các nước không phân biệt chế độ chính 
trị, xã hội khác nhau trên cơ sở các 
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. 
Các Đại hội và Hội nghị Trung ương 
sau đó tiếp tục bổ sung những luận điểm 
mới góp phần phát triển và hoàn chỉnh 
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà 
nước. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) 
tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng là bạn và 
đối tác tin cậy của tất cả các nước trong 
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa 
bình, độc lập và phát triển, mở rộng 
quan hệ quốc tế. Đại hội X của Đảng 
(năm 2006) tuyên bố: Việt Nam chủ 
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc 
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế 
trên các lĩnh vực khác; Việt Nam là bạn, 
là đối tác tin cậy của tất cả các nước 
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích 
cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu 
vực. Đại hội XI chủ trương triển khai 
đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại 
và tích cực hội nhập quốc tế. 
Những luận điểm trên đây đã chứng 
minh sự định hướng đúng đắn phù hợp 
với xu thế của thời đại là hòa bình, hợp 
tác và phát triển. Sự đổi mới đường lối, 
chủ trương, chính sách đối ngoại đã đưa 
lại những kết quả to lớn trong lĩnh vực 
đối ngoại. Từ chỗ chỉ chú trọng chủ 
nghĩa quốc tế vô sản, Đảng và Nhà nước 
đã chủ trương tích cực và chủ động hội 
nhập quốc tế; từ chỗ quan hệ chủ yếu 
với các nước xã hội chủ nghĩa, nước ta 
Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam... 
 9 
đã làm bạn với tất cả nước trong cộng 
đồng thế giới không phân biệt chế độ 
chính trị, xã hội khác nhau; từ chỗ chỉ 
tham gia vào Hội đồng tương trợ kinh tế 
(SEV), Việt Nam đã tham gia nhiều tổ 
chức quốc tế trên thế giới và có quan hệ 
ngoại giao với hơn 170 quốc gia; từ chỗ 
hội nhập quốc tế chủ yếu về kinh tế, 
Việt Nam đã hội nhập vào cả các lĩnh 
vực khác như chính trị, xã hội, văn hóa, 
v.v.. Chính nhờ có định hướng chính trị 
đúng đắn trong vấn đề quan hệ quốc tế 
mà Việt Nam đã thu được những kết quả 
to lớn: tạo ra được môi trường hòa bình, 
hữu nghị để xây dựng đất nước, tranh 
thủ được vốn hỗ trợ phát triển chính 
thức (ODA) và vốn đầu tư nước ngoài, 
mở rộng thị trường quốc tế và nắm bắt 
được những công nghệ hiện đại và quản 
lý tiên tiến để phát triển đất nước, uy tín 
của Việt Nam ngày càng tăng trên 
trường quốc tế. 
Thứ năm, quan điểm mới về hệ thống 
chính trị 
 Trước đây, trong các văn kiện của 
Đảng thường sử dụng cụm từ “hệ thống 
chuyên chính vô sản”. Lần đầu tiên ở 
nước ta, cụm từ “hệ thống chính trị” 
được sử dụng trong Nghị quyết Trung 
ương 6 khóa VI (năm 1998) và từ đó 
hầu như không còn sử dụng cụm từ “hệ 
thống chuyên chính vô sản”. Vấn đề ở 
đây không phải đơn giản thay đổi từ 
ngữ, mà còn hàm chứa sự thay đổi nội 
dụng của các cụm từ ấy. Điều đó thể 
hiện quan điểm mới về hệ thống chính 
trị; dẫn đến việc đổi mới quan điểm về 
vai trò, chức năng, quan hệ và hoạt động 
của cả hệ thống chính trị nói chung và 
của từng bộ phận trong hệ thống đó. 
Với tư cách là hạt nhân của hệ thống 
chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã 
tự đổi mới mình. Nếu quan niệm cũ coi 
Đảng là đội tiên phong của giai cấp 
công nhân Việt Nam thì quan niệm mới 
coi Đảng không chỉ là đội tiên phong 
của giai cấp công nhân mà còn là đội 
tiên phong của nhân dân lao động và của 
dân tộc Việt Nam. Nếu Điều lệ cũ coi 
một trong những tiêu chuẩn đảng viên 
phải là những công dân Việt Nam từ 18 
tuổi trở lên, gương mẫu trong lao động, 
không bóc lột đều có thể kết nạp vào 
Đảng, thì Điều lệ mới đã bỏ chữ “không 
bóc lột” và thừa nhận đảng viên được 
làm kinh tế tư nhân (thậm chí Đảng 
đang thực hiện thí điểm kết nạp những 
người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ 
tiêu chuẩn vào Đảng). Đó là những quan 
điểm rất mới. Nhưng để đi đến những 
quan điểm mới đó, Đảng ta đã trải qua 
hàng chục năm trăn trở, tranh luận. 
Quan điểm của Đảng về Nhà nước 
cũng có đổi mới: từ chỗ Nhà nước ta 
được coi là nhà nước của một giai cấp 
nhất định đến chỗ Nhà nước ta được coi 
là nhà nước của dân, do dân, vì dân; từ 
tên gọi nhà nước chuyên chính vô sản 
đổi thành nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa; từ chỗ chủ trương nhà nước 
can thiệp sâu vào quản lý kinh tế của 
các doanh nghiệp chuyển sang chủ 
trương nhà nước chỉ quản lý vĩ mô; Nhà 
nước từ chỗ quản lý đất nước theo các 
Nghị quyết, chỉ thị của Đảng chuyển 
sang quản lý theo pháp luật, coi hiến 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014 
 10 
pháp và pháp luật là tối thượng; từ cách 
quản lý theo mệnh lệnh hành chính, 
quan liêu chuyển sang cách quản lý dân 
chủ; v.v.. Đó là quan điểm tiến bộ phù 
hợp với xu thế chung của thời đại. 
Đổi mới phương thức hoạt động của 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn 
thể nhân dân thể hiện ở chỗ khắc phục 
dần dần tình trạng hành chính hóa, phô 
trương, hình thức chuyển sang làm công 
tác dân vận theo phương châm gần dân 
và có trách nhiệm với dân. Đặc biệt là, 
Đại hội X của Đảng chủ trương Nhà 
nước ban hành cơ chế để Mặt trận và 
các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai 
trò giám sát và phản biện xã hội. Nhờ có 
những đổi mới nói trên, Mặt trận và các 
đoàn thể nhân dân đang đóng vai trò 
quan trọng trong đại đoàn kết toàn dân 
tộc, hưởng ứng và thực hiện đường lối, 
chủ trương, chính sách và pháp luật của 
Đảng và Nhà nước nhằm mực tiêu dân 
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, 
văn minh. 
Thứ sáu, quan điểm mới về việc thực 
hiện dân chủ 
 Trong các di sản tư tưởng Hồ Chí 
Minh để lại, tư tưởng về dân chủ rất 
đáng chú ý và đóng vai trò định hướng 
để thực hiện dân chủ ở nước ta. Trong 
quan niệm của Hồ Chí Minh, “Dân là 
gốc”, “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”, 
“Nước ta là nước dân chủ”, “thực hiện 
dân chủ là “viên đá thử vàng” đối với 
một chính đảng cách mạng”. Khẳng 
định dân là chủ, Hồ Chí Minh đã xác 
định vị thế, tư cách chủ thể xã hội của 
nhân dân và khẳng định phải làm cho 
nhân dân được hưởng quyền làm chủ xã 
hội trên thực tế. Từ “dân là chủ” tiến lên 
thành “dân làm chủ” là một bước tiến về 
chất, một quá trình phấn đấu vượt qua 
rất nhiều khó khăn, trở ngại. Phải làm 
sao để người dân có điều kiện và biết 
hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền 
dân chủ của mình đúng lúc, đúng chỗ, 
dám nói, dám làm. Để thực hiện quyền 
dân chủ, nhân dân không những phải có 
quyền, mà điều quan trọng là nhân dân 
phải có năng lực làm chủ. Người dân 
muốn làm chủ, thì họ chẳng những cần 
phải biết hưởng quyền làm chủ, mà còn 
cần phải biết dùng quyền làm chủ, dám 
nói, dám làm. Đảng phải tạo ra cơ chế 
thích hợp để người dân có được các yếu 
tố cơ bản để làm chủ, đó là: trình độ 
hiểu biết về dân chủ, phương pháp thực 
hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân 
chủ... Có như vậy, nhân dân mới có 
quyền dân chủ thực sự, tránh tình trạng 
dân chủ hình thức, dân chủ chung 
chung. Đó chính là thước đo, là tiêu chí 
đánh giá mức độ dân chủ mà người dân 
có được. 
Để các hành vi gây tác hại đến quyền 
dân chủ của nhân dân được xử lý kịp 
thời, đúng đắn, theo Hồ Chí Minh, các 
quyền đó phải được thể chế hóa thành 
hiến pháp, thành pháp luật và được thực 
hiện bằng những thiết chế tương ứng 
của nhà nước. Ở đây, dân chủ và pháp 
luật, dân chủ và kỷ cương không bài trừ 
và phủ định nhau; trái lại, chúng nằm 
trong sự thống nhất biện chứng, là điều 
kiện, tiền đề tồn tại và phát triển của 
nhau. Không thể có dân chủ mà lại thiếu 
Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam... 
 11 
pháp luật, kỷ luật, kỷ cương. 
Đại hội VI của Đảng là một bước 
ngoặt lịch sử trong việc nhấn mạnh phát 
huy dân chủ. Bài học “lấy dân làm gốc” 
là sự thể hiện sự kế thừa tư tưởng Hồ 
Chí Minh. Các Đại hội tiếp theo của 
Đảng tiếp tục bổ sung và đưa ra cơ chế 
cụ thể để thực hiện phương châm “Dân 
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối 
với các chủ trương, chính sách lớn của 
Đảng và Nhà nước: thực hiện các cơ chế 
làm chủ của nhân dân thông qua các cơ 
quan dân cử và các đoàn thể; làm chủ 
trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự 
quản, bằng các quy ước, hương ước tại 
cơ sở phù hợp với pháp luật nhà nước; 
Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong 
cách đảm bảo dân chủ trong quá trình 
chuẩn bị ra Nghị quyết và thi hành Nghị 
quyết; Đảng và Nhà nước cũng bàn bạc 
và tham khảo ý kiến của Mặt trận về 
những quyết định và chủ trương lớn. 
Thực hiện dân chủ là thừa nhận 
quyền tự do, bình đẳng của công dân, 
thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền 
lực. Nội dung đó của dân chủ đạt được ở 
mức độ nào là tùy thuộc vào trình độ 
phát triển kinh tế - xã hội và tính chất 
của thể chế chính trị tương ứng, vào nội 
dung của pháp luật. Những yêu cầu dân 
chủ của nhân dân được thể chế hóa 
thành các chuẩn mực pháp luật, thành 
nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà 
nước và các thiết chế chính trị khác. 
Qua 28 năm đổi mới, quan điểm về 
dân chủ của Đảng và Nhà nước đã có 
những bước tiến căn bản trong làm chủ 
về chính trị, về kinh tế và về văn hóa – 
xã hội. Trên lĩnh vực pháp luật, Nhà 
nước đã thể chế hóa đường lối của Đảng 
thành hiến pháp và pháp luật; bỏ bớt 
những quy định pháp luật lỗi thời; sửa 
đổi và ban hành nhiều văn bản pháp luật 
quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt 
động của các cơ quan quyền lực nhà 
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các 
thành phần kinh tế; cụ thể hóa và thể 
chế hóa nhiều quyền công dân và quyền 
con người; tiến hành đổi mới nền hành 
chính quốc gia trên cả bốn phương diện 
là thể chế hành chính, bộ máy làm công 
tác hành chính, cán bộ của bộ máy hành 
chính, tài chính công; từng bước hoàn 
thiện các hình thức thực hiện dân chủ; 
đặc biệt đã xây dựng và hoàn thiện quy 
chế dân chủ ở cơ sở; chú ý nhiều hơn 
đến dân chủ trong Đảng... 
Trên đây là những quan điểm của 
Đảng và Nhà nước ta thời kỳ đổi mới về 
đấu tranh giai cấp, về đại đoàn kết toàn 
dân tộc, về quan hệ giữa các quốc gia, 
về hệ thống chính trị, về dân chủ. Đây là 
những quan điểm mới cơ bản trong hệ 
tư tưởng chính trị. Ngoài những quan 
điểm mới, trong hệ tư tưởng chính trị 
của Đảng và Nhà nước ta thời kỳ đổi 
mới còn có nhiều quan điểm mới khác. 
Nhờ có những quan điểm mới trong hệ 
tư tưởng chính trị cho nên bộ mặt chính 
trị nước ta đã thay đổi theo hướng ngày 
càng tiến bộ hơn; điều đó đã tác động 
tích cực đến đời sống kinh tế, xã hội, 
văn hóa của đất nước; góp phần quan 
trọng vào sự phát triển của đất nước. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7(80) - 2014 
 12 
Lĩnh vực hệ tư tưởng chính trị là lĩnh 
vực phức tạp, tế nhị, không thể dễ dàng 
thay đổi theo sự thay đổi của thực tế 
khách quan. Trong hệ tư tưởng chính trị, 
mặc dù Đảng và Nhà nước đã có sự đổi 
mới nhưng nhiều người vẫn còn tư 
tưởng giáo điều, bảo thủ và biệt phái; 
chưa nhận thức đầy đủ sự thay đổi lớn 
lao của tình hình chính trị trong nước và 
thế giới; chưa dám mạnh dạn tiếp thu có 
chọn lọc những tư tưởng chính trị tiến 
bộ của nhân loại và kinh nghiệm của các 
nước trên thế giới để vận dụng sáng tạo 
ở Việt Nam. Nhiều quan điểm chính trị 
mới của Đảng chưa được thể chế hóa 
thành pháp luật, thành quy chế cụ thể và 
tổ chức thực hiện. Ví dụ, về vấn đề dân 
chủ Đại hội IX của Đảng chủ trương 
thực hiện quy chế dân chủ trong nghiên 
cứu và sáng tạo khoa học; Đại hội X chủ 
trương bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi 
hoạt động sáng tạo văn hóa, văn học, 
nghệ thuật, Nhà nước ban hành cơ chế 
để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân 
thực hiện tốt vai trò giám sát và phản 
biện xã hội. Nhưng thời gian cứ trôi đi 
năm này qua năm khác, cho đến nay 
những chủ trương đúng đắn mà bao 
người mong đợi đó vẫn chỉ nằm trên 
giấy, vẫn dừng lại ở các văn bản nghị 
quyết. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề lý luận 
chính trị quan trọng vẫn chưa được các 
nhà lý luận làm rõ. Chẳng hạn như: 
Chức năng lãnh đạo của Đảng khác 
chức năng quản lý của Nhà nước như 
thế nào? Cơ chế nhân dân làm chủ là thế 
nào? Nếu dân có quyền làm chủ thì dân 
có quyền quyết định tối hậu không? 
Muốn xã hội vững mạnh và phát triển 
thì có nhất thiết phải xây dựng ba trụ cột 
là kinh tế thị trường, nhà nước pháp 
quyền và xã hội dân sự không? Tại sao 
Đảng ta chỉ chủ trương xây dựng hai trụ 
cột là kinh tế thị trường và nhà nước 
pháp quyền, còn chưa có chủ trương xây 
dựng xã hội dân sự? Như vậy, trong hệ 
tư tưởng chính trị còn nhiều vấn đề cần 
được làm rõ hơn. 
Tài liệu tham khảo 
1. Hoàng Chí Bảo (2006), “Một số lý luận 
về đinh hướng xã hội chủ nghĩa và đổi mới hệ 
thống chính trị ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận 
chính trị, số 5. 
2. Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, 
Đoàn Trọng Truyến (đồng chủ biên) (1999), 
Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước 
ta trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
3. Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính 
trị cơ sở đặc điểm, xu hướng và giải pháp, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
4. Nguyễn Ngọc Hà (2010), “Về vai trò 
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong hệ 
thống chính trị ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí 
Triết học, số 2. 
5. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2011), 
Đảng Cộng sản cầm quyền: nội dung và 
phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb Chính 
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
6. Nguyễn Ngọc Long (2009), “Một số vấn 
đề lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam”,Tạp 
chí Lý luận chính trị, số 2. 
7. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (2012), 
Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính 
trị ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Đổi mới hệ tư tưởng chính trị ở Việt Nam... 
 13 

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_he_tu_tuong_chinh_tri_o_viet_nam_tu_nam_1986_den_nay.pdf