Đổi mới chính sách tín dụng xuất khẩu của nhà nước trong giai đoạn tái cơ cấu kinh tế hiện nay

Chính sách tín dụng xuất khẩu (TDXK) của Nhà nước là một bộ phận trong tổng thể các chính sách

kinh tế vĩ mô, được áp dụng nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chiến lược mà Nhà nước

khuyến khích. Trong từng giai đoạn, tuỳ thuộc vào tình hình thực tế và mục tiêu phát triển kinh tế nói

chung và mục tiêu phát triển hoạt động xuất khẩu nói riêng, mà Nhà nước có những điều chỉnh trong

chính sách này nhằm đáp ứng tốt yêu cầu phục vụ nền kinh tế. Bài viết này nhìn lại quá trình triển khai

chính sách TDXK của Nhà nước ở Việt Nam từ khi được ban hành đến nay và đề xuất những vấn đề cần

đổi mới để phù hợp với yêu cầu của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế hiện nay.

pdf 14 trang kimcuc 8860
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới chính sách tín dụng xuất khẩu của nhà nước trong giai đoạn tái cơ cấu kinh tế hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới chính sách tín dụng xuất khẩu của nhà nước trong giai đoạn tái cơ cấu kinh tế hiện nay

Đổi mới chính sách tín dụng xuất khẩu của nhà nước trong giai đoạn tái cơ cấu kinh tế hiện nay
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
89Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016)
1. Vài nét về chính sách TDXK của Nhà 
nước
Chính sách TDXK của Nhà nước lần đầu 
tiên được ban hành và đưa vào áp dụng ở 
nước ta theo Quyết định số 133/2001/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ và được giao 
cho Quỹ Hỗ trợ phát triển thực hiện. Theo 
đó, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và 
cá nhân sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu 
được Nhà nước hỗ trợ vốn tín dụng ưu đãi để 
thực hiện các dự án, phương án kinh doanh 
theo chính sách khuyến khích xuất khẩu của 
Nhà nước. Hình thức hỗ trợ được áp dụng 
theo Quyết định này bao gồm cả cấp tín dụng 
trung và dài hạn (cho vay đầu tư trung và 
dài hạn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh 
tín dụng đầu tư) và cấp tín dụng ngắn hạn 
(gồm cho vay ngắn hạn, bảo lãnh dự thầu và 
bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu). Đặc 
điểm dễ nhận ra của các hình thức TDXK 
theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg là đa 
dạng về thời hạn (cả ngắn hạn, trung hạn, dài 
hạn) và hàm chứa trong đó khá nhiều ưu đãi 
Tóm tắt 
Chính sách tín dụng xuất khẩu (TDXK) của Nhà nước là một bộ phận trong tổng thể các chính sách 
kinh tế vĩ mô, được áp dụng nhằm hỗ trợ hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chiến lược mà Nhà nước 
khuyến khích. Trong từng giai đoạn, tuỳ thuộc vào tình hình thực tế và mục tiêu phát triển kinh tế nói 
chung và mục tiêu phát triển hoạt động xuất khẩu nói riêng, mà Nhà nước có những điều chỉnh trong 
chính sách này nhằm đáp ứng tốt yêu cầu phục vụ nền kinh tế. Bài viết này nhìn lại quá trình triển khai 
chính sách TDXK của Nhà nước ở Việt Nam từ khi được ban hành đến nay và đề xuất những vấn đề cần 
đổi mới để phù hợp với yêu cầu của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế hiện nay.
Từ khóa: Nhà nước, chính sách tín dụng xuất khẩu, khuyến khích xuất khẩu, tái cơ cấu kinh tế. 
Mã số: 249. Ngày nhận bài: 01/04/2016. Ngày hoàn thành biên tập: 02/08/2016. Ngày duyệt đăng: 02/08/2016.
Abstract 
Export credit policy is a part of the State’s overall macro-economic policies, which is applied 
in order to support exporting strategic goods that the State encourages. In each stage, depending 
on the actual situation and development goals of the economy as well as export activities, the State 
makes adjustment to this policy to meet the requirements from the economy. This article reviews the 
implementation of the State’s export credit policy in Vietnam since it was promulgated for the first 
time up to now and proposes some issues that need to be changed to match the requirements of the 
process of restructuring the economy nowadays.
Key words: State, export credit policy, export encouraging, economy restructuring. 
Paper No.249. Date of receipt: 01/04/2016. Date of revision: 02/08/2016. Date of approval: 02/08/2016.
ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG XUẤT KHẨU CỦA NHÀ NƯỚC 
TRONG GIAI ĐOẠN TÁI CƠ CẤU KINH TẾ HIỆN NAY 
Nguyễn Cảnh Hiệp*
* 
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
90 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
của Nhà nước, đặc biệt là lãi suất cho vay và 
bảo đảm tiền vay1.
Đến năm 2006, cùng với việc thành lập 
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT) trên 
cơ sở tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát triển, chính 
sách TDXK tại Quyết định nói trên của Thủ 
tướng Chính phủ đã được thay thế bằng Nghị 
định số 151/2006/NĐ-CP của Chính phủ và 
được giao cho NHPT thực hiện. Theo đó, việc 
tài trợ vốn TDXK của Nhà nước được thực 
hiện bằng các hình thức: cho vay xuất khẩu 
(gồm cả cho nhà xuất khẩu vay và cho nhà 
nhập khẩu vay), bảo lãnh TDXK, bảo lãnh 
dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất 
khẩu. So với chính sách TDXK được quy định 
tại Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg, thì chính 
sách TDXK tại Nghị định này đã loại bỏ các 
hình thức tài trợ trung và dài hạn; đồng thời 
bổ sung một số hình thức cấp tín dụng ngắn 
hạn như cho vay nhà nhập khẩu2 và bảo lãnh 
TDXK. Cùng với đó, các quy định về lãi suất 
cho vay và bảo đảm tiền vay cũng có sự thay 
đổi lớn mà theo đó, lãi suất cho vay TDXK 
được giao cho Bộ Tài chính quyết định theo 
nguyên tắc phù hợp với lãi suất thị trường, còn 
việc bảo đảm tiền vay của các khoản cho vay 
và bảo lãnh TDXK được thực hiện theo quy 
định chung của pháp luật về bảo đảm tiền vay.
Sau 5 năm thực hiện theo Nghị định nói 
trên, chính sách TDXK lại được Chính phủ 
tiếp tục điều chỉnh theo Nghị định số 75/2011/
NĐ-CP. So với Nghị định số 151/2006/NĐ-
CP, thì điểm thay đổi lớn về chính sách TDXK 
quy định tại Nghị định này là các hình thức 
tài trợ TDXK của Nhà nước đã được thu hẹp 
đáng kể, chỉ còn lại hình thức cho vay nhà 
xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu và cho vay 
nhà nhập khẩu nước ngoài có hợp đồng nhập 
khẩu hàng hóa thuộc Danh mục mặt hàng vay 
vốn TDXK do Chính phủ ban hành. Còn lại, 
cơ chế lãi suất cho vay và bảo đảm tiền vay 
về cơ bản vẫn được quy định tương tự như tại 
Nghị định số 151/2006/NĐ-CP mà theo đó, lãi 
suất cho vay được giao cho Bộ Tài chính công 
bố theo nguyên tắc phù hợp với lãi suất thị 
trường, còn việc bảo đảm tiền vay vốn TDXK 
được thực hiện theo quy định chung của pháp 
luật về giao dịch bảo đảm.
Mặc dù được thay đổi, bổ sung nhiều lần 
song nhìn chung, chính sách TDXK của Nhà 
nước được áp dụng ở nước ta những năm qua 
có một số đặc điểm nổi bật có thể dễ dàng 
nhận thấy như sau:
Một là: Đối tượng tài trợ vốn TDXK được 
giới hạn trong danh mục mặt hàng xuất khẩu 
do Nhà nước quy định và được thay đổi theo 
chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà 
nước trong từng thời kỳ.
1 Theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg, tài sản bảo đảm tiền vay trong cho vay trung và dài hạn là tài sản hình 
thành từ vốn vay, trong cho vay ngắn hạn là tài sản cầm cố, thế chấp có giá trị tối thiểu 30% số vốn vay; lãi suất 
cho vay trung và dài hạn được áp dụng theo lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, lãi suất cho vay 
ngắn hạn bằng 80% lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
 Lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ban đầu được quy định là 9%/năm (theo Nghị định số 43/1999/
NĐ-CP) và được giảm xuống còn 5,4%/năm (theo Nghị quyết số 05/2001/NQ-CP), sau đó được quy định là 
tương đương 70% lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân của các NHTM nhà nước trong từng thời kỳ (theo 
Nghị định số 106/2004/NĐ-CP). 
2 Theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg, đối tượng được vay vốn ngắn hạn là các đơn vị thực hiện xuất khẩu 
hàng hoá (nhà xuất khẩu) thuộc chương trình ưu tiên khuyến khích xuất khẩu do Thủ tướng Chính phủ quy định 
hàng năm hoặc trong từng thời kỳ. Còn theo Nghị định số 151/2006/NĐ-CP thì đối tượng vay vốn bao gồm cả 
nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu và nhà nhập khẩu có hợp đồng nhập khẩu hàng hoá thuộc Danh mục mặt 
hàng vay vốn TDXK do Chính phủ ban hành.
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
91Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016)
Hai là: Việc cho vay vốn TDXK chủ yếu 
gắn với doanh nghiệp xuất khẩu và dựa trên 
cơ sở các hợp đồng xuất khẩu hàng hoá đã 
được ký kết giữa nhà xuất khẩu Việt Nam và 
nhà nhập khẩu nước ngoài.
Ba là: Hình thức và thời hạn tài trợ tín dụng 
thoạt tiên được quy định tương đối phong phú 
nhưng càng ngày càng bị thu hẹp theo hướng 
tập trung vào việc cấp tín dụng ngắn hạn dưới 
hình thức cho vay.
Bốn là: Các ưu đãi trong chính sách TDXK 
của Nhà nước, đặc biệt là lãi suất cho vay và 
bảo đảm tiền vay, ngày càng giảm dần và có 
xu hướng tiến gần với cơ chế cho vay theo 
thông lệ thị trường.
2. Tình hình triển khai chính sách TDXK 
của Nhà nước thời gian qua
a) Những kết quả đạt được
Quá trình triển khai chính sách TDXK của 
Nhà nước 15 năm qua đã mang lại những kết 
quả tích cực đối với lĩnh vực xuất khẩu nói 
riêng và hoạt động kinh tế nói chung của đất 
nước, đặc biệt là từ sau khi VDB được thành 
lập để thực hiện chính sách này. Chỉ tính riêng 
trong 10 năm (2006-2015), VDB đã cấp tín 
dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu gần 
150.000 tỷ đồng từ nguồn vốn TDXK của Nhà 
nước, bình quân mỗi năm khoảng 15.000 tỷ 
đồng.
Thông qua chính sách TDXK của Nhà 
nước, hàng trăm doanh nghiệp xuất khẩu 
thuộc đối tượng vay vốn đã được cấp tín dụng 
để thực hiện HĐXK với các đối tác nước 
ngoài, đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất 
khẩu của đất nước trong nhiều năm, đặc biệt 
là giai đoạn 2008-2010; tạo công ăn việc làm 
cho hàng chục vạn lao động; góp phần đưa 
hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu đến hơn 
150 quốc gia và vùng lãnh thổ, từ các thị 
trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, các 
nước EU đến các thị trường mới như Trung 
Đông, Châu Phi... Bên cạnh việc tài trợ cho 
các doanh nghiệp xuất khẩu lớn có vai trò đòn 
bẩy đối với ngành hàng xuất khẩu và nền kinh 
tế, nguồn vốn TDXK của Nhà nước còn tài 
trợ cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và 
vừa, doanh nghiệp hoạt động ở các địa bàn 
khó khăn và đặc biệt khó khăn. Hiện nay, số 
doanh nghiệp thuộc các vùng miền khó khăn 
chiếm trên 40% tổng số doanh nghiệp đang 
vay vốn TDXK của Nhà nước.
Không chỉ có tác dụng thúc đẩy sự phát 
triển của các doanh nghiệp xuất khẩu, hoạt 
động cho vay vốn TDXK của Nhà nước thời 
gian qua đã có những tác động quan trọng vào 
việc thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển 
từng ngành hàng cũng như kế hoạch phát triển 
kinh tế - xã hội của các địa phương và vùng 
kinh tế. Tại vùng Tây Nam Bộ, nơi được coi là 
vựa thủy sản của Việt Nam với các sản phẩm 
xuất khẩu đa dạng như tôm, cá tra, cá basa..., 
kim ngạch xuất khẩu thủy sản được tài trợ từ 
nguồn vốn TDXK của Nhà nước đã tăng lên 
một cách đáng kể, từ 7% năm 2006 lên 30% 
trong các năm 2010-2012. Riêng mặt hàng cá 
tra, cá basa, nguồn vốn này thường xuyên tài 
trợ 30-40% kim ngạch xuất khẩu, góp phần 
đưa cá tra trở thành mặt hàng xuất khẩu chiến 
lược của Việt Nam. Tại khu vực Tây Nguyên, 
nguồn vốn TDXK của Nhà nước đã hỗ trợ tích 
cực các doanh nghiệp trên địa bàn để thu mua 
nông sản, sản xuất kinh doanh hàng nông sản 
xuất khẩu, đóng góp vào việc tăng thu ngân 
sách, nâng cao đời sống của nhân dân trên địa 
bàn, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số
Bên cạnh đó, nguồn vốn TDXK còn có 
những đóng góp trong việc thực hiện các 
nhiệm vụ chính trị, ngoại giao thông qua việc 
tài trợ xuất khẩu một số mặt hàng sang Cuba 
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
92 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
Bốn là: Mức độ rủi ro tín dụng trong hoạt 
động TDXK của Nhà nước cao hơn so với mặt 
bằng chung của hệ thống ngân hàng, một số 
giai đoạn nợ xấu TDXK có xu hướng tăng, 
trong đó có những trường hợp khó xử lý.
c) Nguyên nhân của những tồn tại, hạn 
chế
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nói 
trên bắt nguồn trước hết từ tác động tiêu cực 
của tình hình suy thoái kinh tế trong thời gian 
qua khiến nhu cầu tiêu dùng thế giới sụt giảm, 
ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá 
của Việt Nam nói chung, trong đó có cả những 
mặt hàng thuộc đối tượng vay vốn TDXK của 
Nhà nước. Xu hướng bảo hộ thương mại gia 
tăng thông qua các rào cản như áp thuế chống 
bán phá giá, kiểm tra dư lượng kháng sinh đối 
với mặt hàng thủy sản... cũng làm giảm khả 
năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Các 
như gạo, bóng đèn và máy tính, góp phần tăng 
cường mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa 
Chính phủ hai nước.
b) Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những kết quả tích cực đạt được 
nói trên, quá trình thực hiện chính sách TDXK 
của Nhà nước những năm qua cũng còn một 
số hạn chế, thể hiện trên các mặt:
Một là: Quy mô tài trợ nguồn vốn này nhìn 
chung còn nhỏ nếu so với quy mô cấp tín dụng 
của các ngân hàng thương mại (NHTM) đối 
với hoạt động xuất khẩu.
Hai là: Số vốn TDXK của Nhà nước cho vay 
chiếm tỉ trọng không lớn và không ổn định 
trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của 
các mặt hàng thuộc đối tượng vay vốn.
Ba là: Tốc độ tăng trưởng doanh số và dư nợ 
cho vay vốn TDXK của Nhà nước có chiều 
hướng giảm trong những năm gần đây (Biểu 
đổ 1).
Biểu đồ 1. Quy mô cho vay TDXK của Nhà nước giai đoạn 2011-2015
(Nguồn: Báo cáo cho vay TDXK hàng năm của VDB)
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
93Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016)
mặt hàng có doanh số cho vay lớn những năm 
trước đây như hạt điều, cà phê, đồ gỗ đang 
gặp khó khăn, bị các doanh nghiệp nước ngoài 
cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường Những 
ảnh hưởng bất lợi nói trên của tình hình kinh 
tế đã dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp 
xuất khẩu hoạt động kém hiệu quả, kim ngạch 
xuất khẩu giảm sút, mất cân đối tài chính, 
không đủ điều kiện vay vốn theo quy định về 
TDXK của Nhà nước.
Trong khi đó, mô hình sản xuất hàng xuất 
khẩu đang được các doanh nghiệp nước ta áp 
dụng hiện nay cũng chưa thật sự thuận lợi cho 
việc tài trợ vốn TDXK. Sự liên kết thiếu chặt 
chẽ giữa các khâu từ nuôi trồng, chế biến, thu 
mua, cung ứng, sản xuất, xuất khẩu các mặt 
hàng thuộc đối tượng vay vốn TDXK của Nhà 
nước một mặt không tạo ra được sự ổn định 
trong quá trình cung ứng và tiêu thụ các yếu 
tố đầu vào cũng như sản phẩm đầu ra, mặt 
khác không tạo điều kiện để các doanh nghiệp 
áp dụng các công nghệ và mô hình quản lý 
hiện đại vào quá trình sản xuất để nâng cao 
chất lượng và hạ giá thành sản phẩm xuất 
khẩu. Hậu quả của tình trạng này là các doanh 
nghiệp xuất khẩu của Việt Nam thường xuyên 
bị thua thiệt khi trong cạnh tranh với doanh 
nghiệp xuất khẩu của các quốc gia khác, dẫn 
tới thua lỗ, không trả được nợ vay. Do đó, việc 
mở rộng quy mô tài trợ vốn TDXK của Nhà 
nước gặp nhiều khó khăn, nhất là trong việc 
đảm bảo an toàn vốn vay.
Bên cạnh nguyên nhân bắt nguồn từ môi 
trường kinh tế như trên, hạn chế trong hoạt 
động cho vay vốn TDXK của Nhà nước còn 
có những nguyên nhân bắt nguồn từ chính bản 
thân chính sách này. Dễ nhận thấy nhất trong 
số đó là việc lãi suất TDXK không được điều 
chỉnh kịp thời theo diễn biến của thị trường 
tiền tệ dẫn đến nhiều lúc lãi suất này cao hơn 
cả lãi suất cho vay của các NHTM, do đó 
không có tác dụng khuyến khích các doanh 
nghiệp xuất khẩu vay vốn (Biểu đồ 2).
Biểu đồ 2. Diễn biến lãi suất cho vay xuất khẩu giai đoạn 2011-2015
(Nguồn: Tổng hợp từ các Quyết định, Thông tư của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
94 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
Cơ chế cho vay vốn TDXK của Nhà nước 
đòi hỏi doanh nghiệp vay vốn phải đáp ứng 
những điều kiện khắt khe hơn về hồ sơ, thủ 
tục so với NHTM (chẳng hạn, phải kiểm toán 
báo cáo tài chính, phải có HĐXK đã ký kết, 
phải xuất trình bộ chứng từ hàng xuất phù hợp 
với HĐXK để chứng minh mục đích sử dụng 
vốn vay) trong khi lại thiếu vắng các dịch 
vụ ngân hàng đi kèm (như thanh toán quốc tế, 
mua bán ngoại tệ, chiết khấu bộ chứng từ xuất 
khẩu) cũng là một nguyên nhân quan trọng 
làm cho nguồn vốn này không thu hút được 
các doanh nghiệp do thiếu tính tiện ích. Việc 
nguồn vốn TDXK của Nhà nước chỉ tập trung 
vào cho vay đối với khâu cuối cùng của chuỗi 
sản xuất - xuất khẩu cũng là một điểm hạn chế 
của chính sách này bởi cách tài trợ đó một 
mặt không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn 
của các khâu còn lại trong quá trình tạo ra sản 
phẩm xuất khẩu, mặt khác làm giảm khả năng 
mở rộng quy mô tài trợ nguồn vốn TDXK của 
Nhà nước do nguồn vốn này không cho vay 
đối với những hoạt động góp phần tạo nên sản 
phẩm xuất khẩu mà không gắn trực tiếp với 
hoạt động xuất khẩu.
N ... t một mức lãi 
suất cho mọi món vay tại cùng thời điểm như 
hiện nay.
- Áp dụng cơ chế điều chỉnh lãi suất TDXK 
linh hoạt theo diễn biến thị trường thay vì cơ 
chế cố định lãi suất trong suốt thời hạn vay 
vốn như hiện nay, đặc biệt là đối với những 
khoản vay vốn trung và dài hạn, để phòng 
ngừa rủi ro lãi suất và rủi ro tín dụng cho cơ 
quan thực thi chính sách TDXK.
Thứ năm, mở rộng thẩm quyền xử lý rủi 
ro của cơ quan thực thi chính sách TDXK
Tài trợ xuất khẩu là một lĩnh vực chứa đựng 
nhiều rủi ro xuất phát từ những rủi ro vốn 
có của hoạt động thương mại quốc tế (biến 
động về tỷ giá hối đoái, sự mất ổn định chính 
trị, rào cản về kỹ thuật của nước nhập khẩu, 
tranh chấp thương mại quốc tế...). Trong khi 
đó, chính sách về xử lý rủi ro trong hoạt động 
TDXK của Nhà nước thời gian qua vẫn còn 
nhiều hạn chế mà theo đó, phần lớn các biện 
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
99Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016)
pháp xử lý rủi ro là do Thủ tướng Chính phủ 
và Bộ Tài chính quyết định; còn thẩm quyền 
của cơ quan thực thi chính sách TDXK chủ 
yếu là quyết định việc điều chỉnh thời hạn trả 
nợ, kỳ hạn trả nợ, mức trả nợ và gia hạn nợ6.
Với thẩm quyền bị giới hạn như trên, việc 
xử lý rủi ro của cơ quan thực thi chính sách 
TDXK thời gian qua gặp không ít vướng 
mắc bởi các biện pháp mà cơ quan này được 
áp dụng (điều chỉnh thời hạn trả nợ, kỳ hạn 
trả nợ, mức trả nợ và gia hạn nợ) nhiều khi 
không có tác dụng đáng kể trong việc hỗ trợ 
doanh nghiệp vay vốn khắc phục khó khăn về 
tài chính để duy trì hoạt động sản xuất kinh 
doanh và tạo nguồn thu trả nợ cho Nhà nước. 
Trong khi đó, việc áp dụng các biện pháp xử 
lý rủi ro triệt để hơn (khoanh nợ, xoá nợ lãi, 
xoá nợ gốc) đòi hỏi nhiều hồ sơ, thủ tục và 
phải trải qua quá trình xét duyệt của nhiều cơ 
quan nên không đáp ứng được yêu cầu về tính 
kịp thời của việc xử lý rủi ro.
Để bảo đảm rủi ro tín dụng được xử lý một 
cách chủ động, kịp thời và hỗ trợ có hiệu quả 
trong việc tháo gỡ khó khăn cho khách hàng 
vay vốn TDXK của Nhà nước, Chính phủ nên 
xem xét mở rộng hơn nữa thẩm quyền của cơ 
quan thực thi chính sách TDXK trong việc 
sử dụng các biện pháp xử lý rủi ro phù hợp 
với mức độ rủi ro phát sinh và nguồn lực tài 
chính của cơ quan này. Theo đó, có thể xem 
xét bổ sung quyền quyết định xử lý rủi ro của 
cơ quan thực thi chính sách TDXK đối với 
một số trường hợp trên nguyên tắc phù hợp 
với quy mô quỹ dự phòng rủi ro TDXK và 
không làm tăng số phí quản lý mà ngân sách 
nhà nước phải cấp, chẳng hạn:
- Gia hạn nợ vượt thời hạn cho vay tối 
đa theo quy định về TDXK để hỗ trợ doanh 
nghiệp vay vốn phục hồi sản xuất;
- Khoanh nợ và xoá lãi vay nếu không làm 
tăng phí quản lý phải cấp từ ngân sách nhà nước;
- Xoá nợ gốc trong phạm vi số dự phòng 
chung và dự phòng cụ thể đã trích cho khoản 
nợ cần xoá;
- Bán nợ trong trường hợp giá bán không 
thấp hơn giá trị sổ sách của khoản nợ và 
trong trường hợp giá bán thấp hơn giá trị sổ 
sách của khoản nợ nhưng phần chênh lệch 
còn thiếu nằm trong phạm vi số dự phòng 
chung và dự phòng cụ thể đã trích cho khoản 
nợ cần bán
Ngoài ra, đối với các trường hợp doanh 
nghiệp gặp rủi ro khách quan bất khả kháng 
nhưng có phương án sản xuất kinh doanh khả 
thi và hiệu quả, thì Chính phủ nên cho phép cơ 
quan thực thi chính sách TDXK được quyền 
xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ và tiếp tục 
cho vay để tạo điều kiện cho doanh nghiệp 
duy trì hoạt động sản xuất - xuất khẩu, tạo 
nguồn thu để trả nợ cho Nhà nước.
Việc quy định thẩm quyền như trên một 
mặt đưa cơ chế xử lý rủi ro vốn TDXK của 
Nhà nước tiến gần hơn tới thông lệ chung về 
6 Quy định về xử lý rủi ro vốn TDXK của Nhà nước có sự thay đổi qua các thời kỳ khác nhau:
 - Theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg: Đối với các dự án vay vốn, bảo lãnh tín dụng trung và dài hạn, Tổng 
giám đốc Quỹ Hỗ trợ phát triển quyết định gia hạn nợ; Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định miễn, giảm lãi tiền 
vay; Thủ tướng Chính phủ quyết định khoanh nợ, xoá nợ. Đối với các khoản vay vốn ngắn hạn, bảo lãnh dự thầu 
và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu, Tổng giám đốc Quỹ Hỗ trợ phát triển quyết định gia hạn nợ, miễn, 
giảm lãi tiền vay; Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định khoanh nợ, xoá nợ.
 - Theo Nghị định số 151/2006/NĐ-CP: Tổng giám đốc NHPT quyết định điều chỉnh thời hạn trả nợ, kỳ hạn trả 
nợ và mức trả nợ trong mỗi kỳ hạn, gia hạn nợ; Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định khoanh nợ, xoá nợ lãi; Thủ 
tướng Chính phủ quyết định các trường hợp xóa nợ gốc. 
 - Theo Nghị định số 75/2011/NĐ-CP: Tổng Giám đốc NHPT quyết định điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ; 
Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định khoanh nợ; Thủ tướng Chính phủ quyết định xóa nợ (gốc, lãi) và bán nợ.
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
100 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
quản trị ngân hàng và khắc phục được những 
tồn tại trong công tác xử lý rủi ro TDXK thời 
gian qua, mặt khác cũng phù hợp với định 
hướng hoạt động được đặt ra tại Chiến lược 
phát triển của cơ quan thực thi chính sách 
TDXK mà theo đó, Chính phủ sẽ tăng cường 
phân cấp cho cơ quan này trong việc xử lý 
rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, để đảm bảo nguồn 
lực cho việc thực hiện giải pháp nói trên, thì 
chính sách dự phòng rủi ro TDXK cũng cần 
có những điều chỉnh phù hợp như phần sau 
của bài viết sẽ trình bày.
Thứ sáu, trích lập dự phòng phù hợp với 
mức độ rủi ro và năng lực tài chính của cơ 
quan thực thi chính sách TDXK
Dự phòng rủi ro là một cơ sở quan trọng 
nhằm đảm bảo khả năng tài chính của tổ chức 
cho vay trong việc thực hiện các biện pháp 
xử lý rủi ro, đặc biệt là xoá nợ. Yêu cầu của 
việc dự phòng rủi ro là phải phù hợp với tính 
chất của khoản nợ để có thể bù đắp được tổn 
thất của mỗi khoản nợ gây ra nhưng không 
làm tăng chi phí dự phòng một cách không 
cần thiết.
Tuy nhiên, chính sách về dự phòng rủi ro 
trong cho vay vốn TDXK của Nhà nước từ 
trước đến nay chưa bao giờ đáp ứng được 
yêu cầu này, thể hiện ở việc quy định tỷ lệ dự 
phòng rất thấp so với dư nợ và không phân 
biệt các khoản nợ có mức độ rủi ro khác 
nhau7. Đây cũng chính là nguyên nhân làm 
cho việc xử lý rủi ro TDXK của Nhà nước 
thời gian qua gặp nhiều vướng mắc do không 
đủ nguồn lực để thực hiện biện pháp triệt để 
đối với các khoản nợ không có khả năng thu 
hồi. Mặt khác, do chi phí dự phòng rủi ro 
TDXK được lấy từ phí quản lý mà ngân sách 
nhà nước cấp hàng năm cho cơ quan thực 
thi chính sách TDXK nên việc sử dụng quỹ 
dự phòng rủi ro của cơ quan này để xoá nợ 
thường mất nhiều thời gian bởi đó thực chất 
là khoản chi tiêu ngân sách nhà nước, phải 
tuân thủ những quy định chặt chẽ về hồ sơ, 
thủ tục và thẩm quyền quyết định.
Để giải quyết được vấn đề này, Chính phủ 
nên xem xét thay đổi chính sách dự phòng rủi 
ro TDXK của Nhà nước theo hướng:
- Chuyển dần nguồn trích lập dự phòng 
rủi ro TDXK từ phí quản lý do ngân sách nhà 
nước cấp hiện nay sang lấy từ lãi cho vay, phí 
bảo lãnh và từ chênh lệch thu - chi của cơ quan 
thực thi chính sách TDXK.
- Thực hiện việc phân biệt mức trích lập dự 
phòng rủi ro đối với mỗi khoản nợ phù hợp 
với kết quả phân loại nợ và kết quả đánh giá 
tài sản bảo đảm tiền vay của khoản nợ đó.
- Nâng dần mức trích lập dự phòng rủi ro 
TDXK để tiệm cận với mức áp dụng cho các 
tổ chức tín dụng (bao gồm cả dự phòng chung 
và dự phòng cụ thể)8.
Việc điều chỉnh chính sách dự phòng rủi 
ro như trên có ý nghĩa từng bước tăng cường 
nguồn lực tài chính để xử lý rủi ro TDXK mà 
không làm tăng gánh nặng cho ngân sách nhà 
nước, mặt khác tạo điều kiện để mở rộng thẩm 
quyền của cơ quan thực thi chính sách TDXK 
7 Tỷ lệ trích dự phòng rủi ro TDXK của Nhà nước được áp dụng qua các thời kỳ như sau:
 - Theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg: trích 2% từ nguồn thu lãi cho vay hàng năm đối với cho vay các dự án 
đầu tư trung và dài hạn; trích 10% nợ quá hạn dưới 181 ngày, 20% nợ quá hạn từ 181 đến dưới 361 ngày, 30% 
nợ quá hạn từ 361 ngày trở lên đối với cho vay vốn ngắn hạn; trích 10% số tiền trả nợ thay chưa thu hồi được 
trong thời gian dưới 61 ngày, 20% số tiền trả nợ thay chưa thu hồi được trong thời gian từ 61 ngày đến dưới 181 
ngày, 30% số tiền trả nợ thay chưa thu hồi được từ 181 ngày trở lên đối với bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực 
hiện hợp đồng xuất khẩu.
 - Theo Quyết định số 59/2005/QĐ-TTg: trích 0,2% dư nợ bình quân TDXK hàng năm.
 - Theo Quyết định số 44/2007/QĐ-TTg: trích 0,5% dư nợ bình quân TDXK hàng năm.
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
101Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 85 (10/2016)
trong việc xử lý rủi ro bằng biện pháp xoá nợ 
nhằm đẩy nhanh tiến độ và phát huy tác dụng 
của biện pháp xử lý rủi ro này.
Thứ bảy, thực hiện các giải pháp hỗ trợ 
từ Nhà nước nhằm đảm bảo nguồn vốn cho 
chính sách TDXK
Một trong những điều kiện quan trọng quyết 
định sự thành công của chính sách TDXK của 
Nhà nước là sự đảm bảo về quy mô và tính 
ổn định của nguồn vốn với chi phí huy động 
hợp lý để đáp ứng các nhu cầu cấp tín dụng đa 
dạng về thời hạn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay 
thì việc tạo lập nguồn vốn của cơ quan thực 
thi chính sách TDXK của Nhà nước vẫn còn 
nhiều khó khăn, nhất là trong việc huy động 
các nguồn vốn có chi phí thấp.
Với các thay đổi về đối tượng và hình thức 
tài trợ tín dụng được đề xuất ở phần trên của 
bài viết, chắc chắn nhu cầu về vốn cho chính 
sách TDXK của Nhà nước thời gian tới sẽ 
tăng lên tương ứng với sự mở rộng về quy 
mô tài trợ vốn TDXK cho các doanh nghiệp. 
Cùng với đó, yêu cầu về việc giảm thiểu chi 
phí huy động vốn cũng được đặt ra cao hơn 
nhằm đáp ứng đòi hỏi về giảm lãi suất cho vay 
để khuyến khích doanh nghiệp cũng như đòi 
hỏi về tăng chênh lệch thu - chi của cơ quan 
thực thi chính sách TDXK để bổ sung quỹ dự 
phòng rủi ro.
Để thoả mãn được yêu cầu đó, Nhà nước 
cần ưu tiên cho cơ quan thực thi chính sách 
TDXK huy động các nguồn vốn có lãi suất 
thấp dành cho hỗ trợ xuất khẩu (kể cả các 
nguồn vốn có thời hạn ngắn), đồng thời tạo 
điều kiện để cơ quan này phát hành trái phiếu 
và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh có kỳ 
hạn đa dạng để phục vụ hoạt động cho vay 
trung và dài hạn đối với các dự án đầu tư trong 
lĩnh vực xuất khẩu. Ngoài ra, trong trường hợp 
cơ quan thực thi chính sách TDXK tìm kiếm 
được các nguồn vốn có giá rẻ từ các tổ chức 
tài chính, tín dụng quốc tế, Chính phủ cần tạo 
điều kiện thuận lợi để cơ quan này huy động 
vốn từ các tổ chức đó, đồng thời xem xét cấp 
bảo lãnh của Chính phủ khi bên cung ứng vốn 
có yêu cầu.
5. Một số vấn đề đặt ra đối với cơ quan 
thực thi chính sách TDXK
Giống như bất kỳ một chính sách nào khác, 
những đề xuất đổi mới chính sách TDXK của 
Nhà nước được trình bày trong bài viết sẽ chỉ 
có thể phát huy tác dụng như mong muốn nếu 
được tổ chức triển khai bởi một chủ thể có 
năng lực đủ mạnh. Do đó, để đảm bảo nguồn 
vốn TDXK của Nhà nước có thể hỗ trợ tốt đối 
với hoạt động xuất khẩu của nền kinh tế, thì 
cơ quan thực thi chính sách này phải không 
ngừng đầu tư để nâng cao năng lực của mình 
về mọi mặt, mà trong đó quan trọng nhất là 
năng lực cung cấp các dịch vụ ngân hàng tiện 
ích và năng lực quản trị rủi ro.
Bên cạnh các sản phẩm tín dụng theo quy 
định của Chính phủ, cơ quan thực thi chính sách 
TDXK của Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào 
việc cung cấp các dịch vụ thanh toán (bao gồm 
cả thanh toán trong nước và thanh toán quốc 
tế). Việc làm này có tác dụng một mặt nâng cao 
tính tiện ích của nguồn vốn TDXK phù hợp với 
nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng của doanh 
nghiệp vay vốn, mặt khác hỗ trợ tích cực cho 
công tác quản trị rủi ro của cơ quan thực thi 
chính sách TDXK thông qua việc giám sát và 
quản lý dòng tiền của khách hàng. Ngoài ra, 
việc mở rộng cung ứng dịch vụ thanh toán cũng 
8 Theo quy định tại Thông tư số 02/2013/TT-NHNN, các tổ chức tín dụng phải trích dự phòng chung bằng 0,75% 
tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4, trích dự phòng cụ thể theo tỷ lệ lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50%, 
100% cho các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5 tính trên phần chênh lệch giữa số dư nợ gốc của khoản nợ và giá 
trị khấu trừ của tài sản bảo đảm tương ứng
kinh tEÁ VAØ hOÄi nhAÄP
102 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 85 (10/2016)
tạo điều kiện để cơ quan này tiết kiệm chi phí 
huy động vốn thông qua việc tận dụng nguồn 
vốn trong thanh toán của khách hàng, từ đó tạo 
cơ sở để giảm lãi suất cho vay.
Cùng với đó, cơ quan thực thi chính sách 
TDXK của Nhà nước cũng cần chú trọng xây 
dựng và vận hành các chính sách, quy trình về 
quản trị rủi ro (bao gồm cả rủi ro tín dụng, rủi 
ro lãi suất và rủi ro thanh khoản) nhằm kiểm 
soát và duy trì ở mức thấp các rủi ro phát sinh 
trong quá trình huy động và sử dụng vốn, góp 
phần giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng 
tín dụng và hiệu quả hoạt động.
Nếu thực hiện thành công các giải pháp nói 
trên, thì năng lực của cơ quan thực thi chính 
sách TDXK sẽ được nâng cao một cách đáng 
kể. Điều đó không chỉ góp phần vào việc hoàn 
thành các mục tiêu đã đặt ra tại Chiến lược 
phát triển cơ quan này theo Quyết định phê 
duyệt của Thủ tướng Chính phủ, mà còn là cơ 
sở vững chắc để chính sách TDXK của Nhà 
nước được triển khai một cách hiệu quả. Đây 
chính là điều kiện quan trọng để đẩy mạnh 
hoạt động xuất khẩu các mặt hàng mà Nhà 
nước khuyến khích theo đúng định hướng tái 
cơ cấu và chiến lược phát triển của các ngành 
kinh tế đã đề cập ở phần đầu của bài viết.q
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tổng kết năm 2014, 2015 của NHPT;
2. Nghị định số 75/2011/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu 
của Nhà nước;
3. Nghị định số 151/2006/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu 
của Nhà nước;
4. Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển 
nông nghiệp, nông thôn
5. Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế tín 
dụng hỗ trợ xuất khẩu
6. Quyết định số 339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề 
án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng 
cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020
7. Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê 
duyệt Chiến lược phát triển NHPT đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
8. Quyết định số 879/QĐ-TTg ngày 09/06/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến 
lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035
9. Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án 
tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững
10. Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 
Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030
11. Quyết định số 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về 
chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp theo Nghị quyết 14/NQ-
CP ngày 05/3/2014 của Chính phủ
12. Thông tư số 02/2013/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về phân loại 
tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để 
xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_chinh_sach_tin_dung_xuat_khau_cua_nha_nuoc_trong_gia.pdf