Đôi điều suy ngẫm về học thuyết của Các Mác

Học thuyết của Các Mác là một hệ thống tri thức lý luận đồ sộ về nhiều lĩnh vực, trong đó tập trung

chủ yếu về kinh tế - chính trị học và triết học. Là một giảng viên có nhiều năm giảng dạy và nghiên

cứu môn học “Phương pháp nghiên cứu tình hình kinh tế và thị trường hàng hóa tư bản chủ nghĩa” và

sau này là môn học Marketing, bằng những trải nghiệm của mình, tôi nhận thấy những tri thức lý luận

trong học thuyết của C. Mác có quan hệ mật thiết với các môn khoa học khác và đem lại những giá trị

phương pháp luận quan trọng, nên đã vận dụng chúng để xem xét, lý giải những vấn đề thuộc lĩnh vực

nghiên cứu của mình. Trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ đôi điều suy ngẫm về học thuyết của C. Mác

trong ba vấn đề cốt lõi của Marketing cũng như việc ứng dụng học thuyết của ông để nghiên cứu những

lĩnh vực khoa học khác

pdf 8 trang kimcuc 8860
Bạn đang xem tài liệu "Đôi điều suy ngẫm về học thuyết của Các Mác", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đôi điều suy ngẫm về học thuyết của Các Mác

Đôi điều suy ngẫm về học thuyết của Các Mác
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
121Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016)
1. Học thuyết của Các Mác trong ba vấn 
đề cốt lõi của Marketing
Các Mác sinh ngày 5/5/1818 và mất ngày 
14/3/1883. Bởi vậy sẽ có người cho rằng: 
Thời đại C. Mác làm gì đã có Marketing mà 
người viết lại đề cập đến vấn đề này? Đúng 
vậy, Marketing mới chỉ xuất hiện vào đầu thế 
kỷ XX của thiên niên kỷ trước (khoảng vào 
năm 1920 gì đó), trước hết ở Hoa Kỳ sau đó 
phát triển rất nhanh chóng đến các nước phát 
triển khác. Vậy học thuyết của C. Mác có 
liên quan gì đến Marketing? Nghiên cứu học 
thuyết kinh tế của C. Mác, ta biết rằng:
C. Mác nghiên cứu xã hội tư bản bắt đầu từ 
một tế bào giản đơn nhất của nó - hàng hóa, 
vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của con người. 
C. Mác đã phát hiện ra hàng hóa có giá trị và 
giá trị sử dụng. Ông chỉ ra rằng, giá trị sử dụng 
Tóm tắt 
Học thuyết của Các Mác là một hệ thống tri thức lý luận đồ sộ về nhiều lĩnh vực, trong đó tập trung 
chủ yếu về kinh tế - chính trị học và triết học. Là một giảng viên có nhiều năm giảng dạy và nghiên 
cứu môn học “Phương pháp nghiên cứu tình hình kinh tế và thị trường hàng hóa tư bản chủ nghĩa” và 
sau này là môn học Marketing, bằng những trải nghiệm của mình, tôi nhận thấy những tri thức lý luận 
trong học thuyết của C. Mác có quan hệ mật thiết với các môn khoa học khác và đem lại những giá trị 
phương pháp luận quan trọng, nên đã vận dụng chúng để xem xét, lý giải những vấn đề thuộc lĩnh vực 
nghiên cứu của mình. Trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ đôi điều suy ngẫm về học thuyết của C. Mác 
trong ba vấn đề cốt lõi của Marketing cũng như việc ứng dụng học thuyết của ông để nghiên cứu những 
lĩnh vực khoa học khác.
Từ khóa: Học thuyết của C. Mác, marketing, nhu cầu, trao đổi, thị trường, nguyên lý, quy luật, 
phạm trù. 
Mã số: 227. Ngày nhận bài: 08/01/2016. Ngày hoàn thành biên tập: 24/02/2016. Ngày duyệt đăng: 15/03/2016.
Abstract 
Karl Marx's theory is a large knowledge system about many fields that focuses mainly on political 
economy and philosophy. As a lecturer has many years of teaching experiences and research on the 
course "Research methodology in economic status and commodity market in capitalism" and then the 
Marketing Course, from my experiences; I realized that the theoretical knowledge in Marxist theory have 
a very close relationship with other scientific courses and bring the values of important methodology; 
So I should have applied them to consider and explain the problems of my field of study. In this article, I 
want to share my thoughts about Karl Marx’s theory in 3 core issues of Marketing as well as application 
of his theory to study of other scientific fields. 
Key words: Karl Marx’s theory, Marketing, demands, exchange, market, principles, rules, 
category. 
Paper No.227. Date of receipt: 08/01/2016. Date of revision: 24/02/2016. Date of approval: 15/03/2016.
ĐÔI ĐIỀU SUY NGẪM VỀ HỌC THUYẾT CỦA CÁC MÁC
 Lê Đình Tường*
* PGS,TS, Trường Đại học Ngoại thương, email: ledinhtuongftu@yahoo.com.vn.
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
122 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016)
là do lao động cụ thể (lao động có ích dưới 
một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp 
chuyên môn nhất định) tạo ra, còn giá trị là do 
lao động trừu tượng (sự hao phí thể lực và trí 
lực nói chung của người lao động mà không 
xét đến các hình thức cụ thể của lao động) tạo 
ra. Về giá trị sử dụng, C. Mác đã viết: “Người 
ta mua hàng hóa vì nó có giá trị sử dụng để 
thỏa mãn một nhu cầu nhất định”1. Thế mà, 
nhu cầu của con người lại là vấn đề cốt lõi, 
cội nguồn của Marketing.
Một câu hỏi khác có thể được đặt ra là: 
Vì sao khi nghiên cứu xã hội tư bản C. Mác 
lại sử dụng khái niệm hàng hóa chứ không 
sử dụng khái niệm sản phẩm?. Rõ ràng có sự 
khác biệt giữa hai khái niệm này mà bất kỳ ai 
muốn nghiên cứu kinh tế cũng cần phải phân 
biệt. Sản phẩm là khái niệm để chỉ một vật 
phẩm do lao động cụ thể tạo ra, nhằm thỏa 
mãn một nhu cầu nhất định của con người, 
nhưng nó vẫn còn ở trong khâu sản xuất - một 
trong ba khâu của quá trình tái sản xuất (sản 
xuất - lưu thông - tiêu dùng). Còn hàng hóa là 
khi sản phẩm đã được đưa vào lưu thông để 
thực hiện việc trao đổi nhằm thỏa mãn nhu 
cầu. Vấn đề trao đổi là vấn đề cốt lõi thứ hai 
trong lý thuyết Marketing. Các nhà nghiên 
cứu Marketing khẳng định rằng, chỉ khi nào 
nhu cầu được thỏa mãn thông qua trao đổi thì 
mới được gọi là Marketing. Chính trong quá 
trình trao đổi C. Mác đã phát hiện ra giá trị 
trao đổi (giá trị thị trường) của hàng hóa. Giá 
trị trao đổi giải thích vì sao một cái rìu lại đổi 
được 5 cân thóc, mà không phải là 6 hay 7 
cân? Nguyên lý trao đổi trong học thuyết C. 
Mác là trao đổi ngang giá (cùng một lượng 
giá trị). Vì giá trị sử dụng mang giá trị nên giá 
trị trao đổi thể hiện sự tương quan giữa giá trị 
của cái rìu và giá trị của 5 cân thóc (cùng một 
lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để 
sản xuất ra số lượng 2 loại vật phẩm ấy) và khi 
giá trị trao đổi được thể hiện bằng tiền thì đó 
là giá cả của hàng hóa. Rõ ràng, đây là nguyên 
lý trao đổi phổ biến trong giai đoạn cạnh tranh 
tự do của chủ nghĩa tư bản. Khi chủ nghĩa tư 
bản tự do cạnh tranh càng chuyển sâu sang 
chủ nghĩa tư bản độc quyền thì nguyên lý trao 
đổi ngang giá trong trình độ xã hội phát triển 
thấp và trao đổi theo đúng giá cả sản xuất ở xã 
hội phát triển cao của C. Mác càng bị sự bóp 
méo thô bạo qua sự can thiệp của con người, 
nhất là khi các tập đoàn kinh tế thống trị nền 
kinh tế thế giới. Ta có thế thấy các loại giá 
như: giá hớt váng (skimming Pricing), giá tấn 
công (penetration pricing) và cả loại hình ma 
mãnh của hình thái giá –“chuyển giá (transfer 
pricing)” trong marketing là những ví dụ điển 
hình.
Việc trao đổi được diễn ra phổ biến trên thị 
trường, khi có sự tham gia của tiền tệ làm vật 
trung gian. Thị trường là vấn đề cốt lõi thứ 
ba trong Marketing, theo quan điểm của người 
viết bài này. Trong xã hội tư bản, C. Mác (trong 
thư gửi Ph. Ăngghen, ngày 6/7/1863) đã phân 
chia toàn bộ hàng hóa trên thị trường thành hai 
loại: tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất, đồng 
thời chỉ ra sự thống nhất giữa hai thị trường 
ấy: “Suy cho đến cùng thì toàn bộ hoạt động 
sản xuất của xã hội là do nhu cầu tiêu dùng cá 
nhân quyết định”2. Tương tự, nhà nghiên cứu 
marketing người Mỹ - Philip Kotler - cũng 
cho rằng, phát triển của thị trường tiêu dùng 
1 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Tư tưởng , M., tr. 387, (bản tiếng Nga).
2 Dẫn theo F. G. Pítscoppen, Cơ sở lý luận nghiên cứu tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, Nxb IMO, M., 1960 (bản 
tiếng Nga).
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
123Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016)
quyết định sự phát triển của thị trường doanh 
nghiệp.
Từ những vấn đề cốt lõi trên, Marketing đã 
phát triển thêm nhiều khía cạnh khác để thành 
một lĩnh vực hoàn chỉnh. Chẳng hạn như từ 
vấn đề nhu cầu, người ta đi sâu vào các thang 
bậc của nhu cầu từ thấp đến cao. Từ vấn đề 
trao đổi sản phẩm - hàng hóa, người ta tìm 
ra các chiến lược sản phẩm, thương hiệu, các 
kênh phân phối, chiến lược giá, hay từ vấn đề 
thị trường người ta định ra những tiêu thức 
phân đoạn thị trường, xác định thị trường 
mục tiêu,v.v.. Như vậy có thể thấy rằng, dù 
Marketing ra đời rất lâu sau học thuyết của 
C. Mác nhưng ta vẫn tìm thấy những khái 
niệm đồng nhất. Điều đó cũng có nghĩa là các 
lĩnh vực khoa học đều có sự kế thừa lẫn nhau 
và phát triển, chứ không mang tính phủ định 
hoàn toàn. Ví như Logistics là một lĩnh vực ra 
đời sau Marketing nhưng người ta cũng thấy 
bóng dáng Marketing trong đó. Đó là vì sự ra 
đời của cái mới cũng như sự phát triển không 
bao giờ từ hư vô, mà từ cái đã có, đang có. 
Vấn đề là người ta có tìm ra những yếu tố hợp 
lý, có giá trị trong những cái đã có và đang có 
để làm tiền đề thúc đẩy sự ra đời của cái mới 
tiến bộ và rút ngắn sự phát triển hay không. Vì 
thế, sẽ là sai lầm, phi khoa học nếu trong nhận 
thức và thực tiễn người ta lại xem xét vấn đề 
một cách phiến diện, cực đoan, phủ định sạch 
trơn. Điều này càng tồi tệ hơn nếu xẩy ra trong 
nhận thức khoa học.
2. Những nguyên lý, quy luật, phạm trù 
trong triết học C. Mác - kiến thức nền để 
nghiên cứu những lĩnh vực khoa học khác
Triết học của C. Mác và Ph. Ăngghen (sau 
này được V. I. Lênin bổ sung, phát triển), bao 
gồm nhiều nội dung nhưng trước hết phải kể 
đến Chủ nghĩa duy vật biện chứng (phần này 
nghiên cứu cả về tự nhiên, xã hội và tư duy). 
Đó là hệ thống các nguyên lý, quy luật và 
phạm trù, đem lại thế giới quan khoa học và 
phương pháp luận biện chứng trong nhận thức 
và hành động. Nó vũ trang cho các nhà khoa 
học ở tất cả các ngành tri thức một lý luận 
hoàn chỉnh và triệt để khoa học để tư duy, một 
phương pháp luận phổ biến để nghiên cứu. Ph. 
Ăngghen cũng đã viết trong tác phẩm “ Phép 
biện chứng của tự nhiên”, rằng: “Chính phép 
biện chứng mới là phương pháp giải thích 
những quá trình phát triển xảy ra trong giới tự 
nhiên, những bước quá độ từ lĩnh vực nghiên 
cứu này sang lĩnh vực nghiên cứu khác”3, dẫn 
đến việc ra đời những ngành khoa học khác 
nhau, trong đó có ngành khoa học công nghệ 
thông tin, để cho ai đó giờ đây có thể viết bình 
luận trên tài khoản facebook của mình rằng 
“Chủ nghĩa duy vật biện chứng có cái gì mà 
người ta cứ nhai mãi thế”. Đúng là, cái ta biết 
chỉ là hữu hạn, còn cái ta chưa biết là vô hạn!
Chưa cần nói đến những nguyên lý, quy 
luật của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, mà 
chỉ cần xem xét các phạm trù trong đó cũng 
thấy rõ vai trò quan trọng của nó như thế nào 
đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn. 
Những phạm trù triết học trong Chủ nghĩ duy 
vật biện chứng là những khái niệm chung 
nhất được áp dụng trong bất cứ khoa học nào. 
Không có nhà khoa học tự nhiên, nhà sử học, 
nhà kinh tế học, nhà nghiên cứu văn học,
nào lại có thể không cần đến những khái niệm 
chung nhất như: vật chất, vận động, không 
gian, thời gian, tư duy, quy luật, tính quy luật, 
mâu thuẫn, lượng, chất, bản chất, hiện tượng, 
nguyên nhân, kết quả, cái chung, cái riêng, 
đơn nhất, phổ biến, tất nhiên, ngẫu nhiên, 
khả năng, hiện thực, thực tiễn, v.v.. Và những 
3 Nguyên lý triết học Mácxit – Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Nxb Sự thật, H.,1962, tr.47
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
124 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016)
nguyên tắc phương pháp luận mà Chủ nghĩa 
duy vật biện chứng đưa ra đều được vận dụng 
một cách tự giác hoặc tự phát ở những mức 
độ khác nhau trong hoạt động nhận thức và 
thực tiễn. Đó là: Nguyên tắc khách quan (yêu 
cầu phải xem xét sự vật một cách khách quan, 
nghĩa là phải phản ánh đúng sự vật như nó 
đang tồn tại trên thực tế; chống chủ quan, duy 
ý chí); Nguyên tắc toàn diện (yêu cầu xem xét 
sự vật trong tính toàn diện, chỉnh thể, nghĩa 
là phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên 
hệ, tìm ra các mặt cơ bản, các mối liên hệ 
bản chất để nhận thức đúng sự vật; chống cực 
đoan, phiến diện); Nguyên tắc phát triển (yêu 
cầu phải xem xét sự vật trong sự vận động và 
phát triển; chống bảo thủ, trì trệ, giáo điều); 
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể (yêu cầu xem xét 
sự vật trong tính lịch sử và tính cụ thể, nghĩa là 
phải nhìn nhận sự vật trong những điều kiện, 
hoàn cảnh, môi trường ở thời gian và không 
gian cụ thể; chống giáo điều, phiến diện, chủ 
nghĩa hư vô và bệnh chung chung trừu tượng); 
Nguyên tắc thực tiễn (yêu cầu xem xét sự vật 
phải gắn với tình hình thực tiễn, coi trọng 
thực tiễn, dùng thực tiễn để kiểm tra nhận 
thức; chống chủ quan, duy ý chí, giáo điều, 
kinh viện, xa rời thực tế). Trong nghiên cứu 
khoa học, để đạt được kết quả tin cậy, phản 
ánh đúng bản chất của vấn đề, ngoài việc sử 
dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp, 
dù muốn hay không người ta đều chịu sự định 
hướng theo những cách khác nhau của các 
nguyên tắc phương pháp luận nói trên. Không 
thể có một kết quả nghiên cứu đúng nếu người 
nghiên cứu lại không khách quan mà chủ quan 
hóa, phiến diện, không bám sát sự vận động 
của đối tượng nghiên cứu, không đặt vấn đề 
nghiên cứu trong không gian, thời gian cụ thể 
với những điều kiện, hoàn cảnh, môi trường 
xác định, không gắn với thực trạng, thực tiễn 
của vấn đề. Vì thế, các nguyên tắc phương 
pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng 
trở thành phương pháp luận chung nhất của 
nhận thức khoa học và thực tiễn (phương pháp 
luận chứ không phải phương pháp, phải nói: 
Nghiên cứu này sử dụng “phương pháp luận 
duy vật biện chứng”, chứ không phải sử dụng 
“phương pháp duy vật biện chứng” ). Sự thật 
là vậy, chỉ có điều người ta có nhận ra và thừa 
nhận điều đó hay không mà thôi!
Về phần mình, trong quá trình giảng dạy 
môn học “Phương pháp nghiên cứu tình hình 
kinh tế và thị trường hàng hóa tư bản chủ 
nghĩa”, từ năm 1967-1991 ở Trường Đại học 
Ngoại thương, bằng những trải nghiệm của 
chính bản thân, người viết đã nhận thức được 
hết sức sâu sắc những điều khẳng định trên và 
đã vận dụng những kiến thức từ những phạm 
trù trong Triết học Mác - Lênin để xem xét, lý 
giải những vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu 
của mình. Trong bài viết này xin nêu một số 
trường hợp về việc vận dụng ấy.
* Về mối quan hệ giữa bản chất và hiên 
tượng
Có thể khẳng định rằng, không quá nhiều 
người có thể đưa ra khái niệm đầy đủ về tình 
hình kinh tế (Economic conjuncture) mặc dù 
trong cuộc sống người ta vẫn thường nghe, 
nói, đọc và viết cụm từ này. Những nhà nghiên 
cứu về tình hình kinh tế đã đưa ra khái niệm: 
tình hình kinh tế đó là trạng thái tổng hợp của 
nền kinh tế ở một thời điểm hay một giai đoạn 
nhất định. Về trạng thái tổng hợp của nền 
kinh tế, không nên hiểu là số cộng đơn thuần 
tình hình của tất cả các bộ phận cấu thành nền 
kinh tế: công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, 
thương mại, giao thông vận tải,và cả tình 
hình đời sống của người lao động - tình hình 
thất nghiệp, mà là sự sàng lọc tình hình ở mỗi 
bộ phận khác nhau của nền kinh tế qua sự 
tương tác của nhiều nhân tố khác nhau. Cũng 
có thể dùng hình ảnh bức tranh toàn cảnh của 
nền kinh tế cho khái niệm này. Điều đặc biệt 
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
125Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016)
là bức tranh toàn cảnh ấy không phải được 
vẽ bằng những màu sắc thể hiện những gam 
màu khác nhau, mà được vẽ bằng những chỉ 
tiêu kinh tế, thể hiện mặt lượng của tình hình. 
Tức là các chỉ tiêu kinh tế ấy phản ánh những 
biến động của các bộ phận cấu thành nền kinh 
tế. Ví dụ, tình hình tăng giảm của GDP, của 
sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thương 
mại, giao thông vận tải,  ở một thời điểm 
nhất định (thời gian gần nhất khi tiến hành 
nghiên cứu) hay một giai đoạn nhất định (một 
khoảng thời gian nhất định : 1,2,3năm).
Quan sát tình kinh tế tư bản chủ nghĩa 
(TBCN) người ta thấy nó luôn biến động, 
và câu hỏi đặt ra là: Cái gì ẩn náu đằng sau 
những biến động ấy và quyết định sự biến 
động của tình hình kinh tế? Các nhà nghiên 
cứu về tình hình kinh tế và thị trường hàng 
hóa đã chỉ ra rằng sự biến động của tình hình 
kinh tế TBCN có mối quan hệ đến sự vận 
động của quá trình tái sản xuất TBCN. Đó là 
mối quan hệ giữa hiện tượng và bản chất ( 
một cặp phạm trù trong triết học). Bản chất ở 
đây chính là sự vận động của quá trình tái sản 
xuất TBCN và được phản ánh ra hiện tượng 
vận động bên ngoài của nó là những biến 
động về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế. 
Khi chúng ta nói một nền kinh tế đang ở vào 
giai đoạn khủng hoảng hay hưng thịnh tức là 
chúng ta đã căn cứ vào thực trạng các chỉ tiêu 
kinh tế phản ảnh các thời kỳ đó, chúng ta đã 
đi từ hiện tượng để tìm ra bản chất của vấn đề. 
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tình hình kinh 
tế cũng lưu ý mọi người rằng mối quan hệ 
giữa tình hình kinh tế và tái sản xuất TBCN 
không phải lúc nào cũng phù hợp với nhau vì 
như C. Mác đã nói: “Nếu hiện tượng và bản 
chất luôn phù hợp với nhau thì mọi khoa học 
trở nên thừa”.4 Như vậy, giữa tình hình kinh 
tế và tái sản xuất TBCN có những lúc không 
thống nhất với nhau, tức là hiện tượng không 
phù hợp với bản chất – điều đã được đề cập 
trong cặp phạm trù bản chất và hiện tượng 
của triết học.
Đúng vậy. quan sát tình hình kinh tế ta thấy 
có những lúc quá trình tái sản xuất TBCN ở 
vào giai đoạn khủng hoảng của chu kỳ kinh 
tế, nhưng những chỉ tiêu của tình hình kinh tế 
lại phản ánh trái ngược, chẳng hạn sản xuất 
công nghiệp có thể vẫn tăng lên và con số 
thất nghiệp có thể giảm xuống và ngược lại 
khi tái sản xuất ở vào giai đoạn hưng thịnh 
thì lại có những chỉ tiêu kinh tế suy giảm. Tại 
sao lại có sự khác nhau ấy? Vấn đề là ở chỗ, 
tình hình kinh tế ngoài chịu sự tác động chủ 
yếu là sự vận động của quá trình tái sản xuất 
TBCN, trong từng giai đoạn nhất định còn 
chịu tác động của rất nhiều các loại nhân tố 
khác (một quả được tạo thành bởi nhiều nhân 
- cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả trong 
triết học). Chính các nhân tố này đã tạo nên 
đặc điểm của tình hình kinh tế ở thời điểm 
hay giai đoạn đó.
Các nhà nghiên cứu tình hình kinh tế 
chung và tình hình các thị trường hàng hóa 
(conjuncture of commodity markets) đã chia 
các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình kinh tế 
chung làm 3 loại: nhân tố chu kỳ (tức quá 
trình tái sản xuất), nhân tố tình hình (có rất 
nhiều) và nhân tố thời vụ. Hay cũng có thể 
chia thành: các nhân tố tác động lâu dài, các 
nhân tố tác động tạm thời và nhân tố thời vụ. 
Nhân tố chu kỳ quyết định sự vận động mang 
tính quy luật của tình hinh kinh tế chung, nhân 
tố tình hình có rất nhiều và rất đa dạng, tạo 
nên đặc điểm của tình hình. Ví dụ như, khi 
tình hình kinh tế chung phản ánh giai đoạn 
tiêu điều của chu kỳ kinh tế, nhưng do tác 
4 Nguyên lý triết học Mácxit – Chủ nghĩa duy vật bện chứng, Nxb Sự thật, H., 1962, tr. 523.
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
126 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016)
động của nhân tố tình hình, chẳng hạn như 
chính sách đầu tư của nhà nước vào những 
ngành công nghiệp nhất định, đã có tác dụng 
rút ngắn giai đoạn tiêu điều để chuyển nhanh 
sang giai đoạn phục hồi. Còn nhân tố thời vụ, 
về mặt thời gian nó có tính chu kỳ, tức là hàng 
năm cứ vào thời điểm nhất định nó lại xuất 
hiện và tác động đến tình hình kinh tế chung, 
như đối với chỉ tiêu về sản lượng nông nghiệp 
của tình hình kinh tế chung, hàng năm cứ vào 
vụ thu hoạch thì chỉ tiêu này tăng lên, hay vào 
những tháng nhất định thì thường xảy ra bão 
lụt ,v.v.. Như vậy, ở đây đã vận dụng nguyên 
tắc toàn diện – một trong những nguyên tắc 
phương pháp luận của Chủ nghĩ duy vật biện 
chứng để nghiên cứu. 
Mối quan hệ giữa hiện tượng và bản chất 
trong Triết học Mác - Lênin cũng được vận 
dụng để xem xét các phạm trù kinh tế khác 
như vấn đề tiền lương trong chế độ TBCN. Về 
hiện tượng, tiền lương là giá cả của lao động, 
nhưng bản chất của tiền lương là giá cả của 
sức lao động, hay bản chất sự biến động của 
giá cả trên thị trường là do quy luật giá trị là 
bản chất quyết định.
* Về phạm trù sự vận động của vật chất, 
tính lôgic và lịch sử
Những phạm trù này đã giúp cho các nhà 
nghiên cứu về tình hình kinh tế xây dựng 
phương pháp nghiên cứu của mình là:
- Phải nghiên cứu tình hình kinh tế trong 
trạng thái vận động của nó. Tinh hình ngày 
hôm nay không giống với ngày hôm qua và 
cũng sẽ khác với ngày mai. Ph. Ăngghen đã 
viết “Chỉ có một mình sự vận động là có ý 
nghĩa tuyệt đối phổ biến”.5
- Khi xem xét các chu kỳ kinh tế thì phải 
xét đến những điều kiện lịch sử cụ thể trong 
tồn tại của các chu kỳ ấy. Chẳng hạn, khi xem 
xét các chu kỳ kinh tế trước chiến tranh thế 
giới lần thứ hai ta thấy chúng thường có độ 
dài trên dưới 10 năm và sự thể hiện của các 
giai đoạn trong chu kỳ rất rõ rệt. Nhưng các 
chu kỳ từ sau chiến tranh thế giới II thì lại có 
xu hướng rút ngắn, thường dưới 10 năm, thậm 
chí chỉ còn 4 đến 5 năm. Có chu kỳ giai đoạn 
tiêu điều rút ngắn đến mức có người cho rằng 
không còn giai đoạn này trong chu kỳ nữa. 
Khủng hoảng sản xuất thừa là biểu hiện trực 
tiếp nhất mâu thuẫn giữa cung và cầu. Trong 
các chu kỳ trước chiến tranh người ta thấy rõ 
sự dư thừa ấy và đã dùng những biện pháp 
cưỡng bức tạo ra sự thích ứng cung cầu, bằng 
cách tiêu hủy các sản phẩm đã được sản xuất 
ra. Nhưng trong các chu kỳ sau chiến tranh thế 
giới người ta không thấy hiện tượng dư thừa 
như thế nữa. Nhờ những tiến bộ của khoa học 
- kỹ thuật, người ta đã tính toán rất chính xác 
nhu cầu tiêu dùng để sản xuất. Vậy có còn sản 
xuất thừa trong các chu kỳ từ sau chiến tranh 
thế giới II nữa không? Vẫn có. Sản xuất thừa 
này được biểu hiện trong sự dư thừa công suất 
máy móc, thiết bị. Ngoài ra, các chu kỳ sau 
chiến tranh thế giới II còn có các cuộc khủng 
hoảng thiếu, thể hiện sự hỗn loạn xảy ra trong 
các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, như 
khủng hoảng về năng lượng, khủng hoảng 
về nguyên liệu, khủng hoảng về môi trường, 
những cuộc khủng hoảng này đã xảy ra trong 
chu kỳ kinh tế thế giới TBCN 1971-1975. Đặc 
điểm của các cuộc khủng hoảng này là không 
có tính chất chu kỳ và các cuộc khủng hoảng 
này lại tạo ra những mối quan hệ nhân quả 
khác nhau đối với nền kinh tế của các nước.
Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, một 
số nhân tố sẽ không tồn tại khi chúng không 
còn ảnh hưởng đến tình hình kinh tế. Đồng 
5 Nguyên lý triết học Mácxit – Chủ nghĩa duy vật biện chứng,, Nxb Sự thật, H.,1962, tr.354.
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
127Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016)
thời, cũng xuất hiện những nhân tố mới quyết 
định đặc điểm của tình hình kinh tế lúc đó. Ví 
như, vào thời kỳ diễn ra chu kỳ kinh tế 1971-
1975, khi ấy người ta không thể cứ lấy ảnh 
hưởng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II 
để đánh giá tình hình kinh tế của những nước 
tư bản phát triển chủ yếu, những nhân tố mới 
quyết định đặc điểm tình hình kinh tế của các 
nước ấy lúc bấy giờ là các cuộc khủng hoảng 
về năng lượng, khủng hoảng về nguyên liệu 
và khủng hoảng về môi trường. Vậy là, một 
trong những nguyên tắc phương pháp luận của 
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, đó là nguyên 
tắc lịch sử - cụ thể cũng đã được vận dụng để 
nghiên cứu các vấn đề của môn học. 
* Về cái đơn nhất, đặc thù và phổ biến, 
mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
Như ở phần trên đã nói tới sự tồn tại của 
môn học “Phương pháp nghiên cứu tình hình 
kinh tế và thị trường hàng hóa TBCN”. Tức 
là lĩnh vực nghiên cứu này gồm hai phần: 
Nghiên cứu tình hình kinh tế chung và nghiên 
cứu tình hình các thị trường hàng hóa. Các 
nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực này đã nhận 
thấy mối quan hệ giữa hai phần là mối quan hệ 
giữa cái chung và cái riêng – một cặp phạm trù 
trong Triết học Mác - Lênin. Tình hình kinh tế 
chung là cái chung, tình hình các thị trường 
hàng hóa là cái riêng, mà cái riêng lại tồn tại 
trong mối quan hệ với cái chung, không có cái 
riêng nào tồn tại tách rời cái chung (cặp phạm 
trù cái chung và cái riêng trong triết học đã đề 
cập). Vì vậy, khi nghiên cứu tình hình các thị 
trường hàng hóa phải đặc biệt chú ý đến mối 
quan hệ đó, V.I. Lênin đã chỉ ra trong tác phẩm 
“ Bút ký triết học” rằng: “Bất kể cái chung 
nào cũng chỉ bao quát gần hết tất cả những sự 
vật riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia 
nhập hết vào cái chungBất cứ cái riêng nào 
cũng có liên hệ với những cái riêng (những sự 
vật, những hiện tượng, những quá trình) loại 
khác bằng hàng nghìn bước quá độ”6.
Khi phân tích vấn đề đạo đức và văn hóa 
trong kinh doanh, nhiều người đã không thấy 
mối quan hệ này. Ví dụ, người ta cho rằng đạo 
dức trong kinh doanh là cái gì đó riêng biệt, 
không liên quan gì đến đạo đức mang tính xã 
hội - một phạm trù của Triết học Mác - Lênin, 
là những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm 
điều chỉnh hành vi đối xử giữa người với người 
trong xã hội, giữa cá nhân với tập thể, với gia 
đình, bạn bè,  và để đánh giá những hành vi 
ấy, đạo đức xã hội sử dụng những phạm trù: 
thiện, ác, tốt, xấu, vinh dự, nghĩa vụ, lương 
tâm, v.v.. Đạo đức xã hội chính là cái chung, 
cần thiết phải có với bất kỳ ai, với trình độ học 
vấn nào. Còn đạo đức kinh doanh là cái riêng, 
mang tính nghề nghiệp cần phải có, chẳng hạn 
như ngành dịch vụ y tế người ta nêu y đức của 
người thầy thuốc là “Lương y như từ mẫu”, 
trong lĩnh vực kinh doanh hàng hóa người ta 
đề cao sự trung thực. Chẳng phải trong ca dao 
của dân tộc ta đã từng có những câu phê phán 
hành vi gian lận trong thương mại như: “ Thật 
thà như thể lái trâu”, hay “đếm cá con” (người 
bán cá con giống đếm: hai mươi, hai mốt, con 
này tốt, tám mốt, tám hai). Ngày nay có người 
cho rằng kinh doanh đúng pháp luật là có đạo 
đức. Điều đó là đúng nhưng chưa đủ, bởi đạo 
đức cao hơn pháp luật ở chỗ: Pháp luật do nhà 
nước đặt ra và bắt buộc mọi người phải theo, 
còn đạo đức là xuất phát từ nền tảng giá trị 
chung của xã hội, của tập quán, của truyền 
thống, của giáo dục và được thực hiện một 
cách tự nguyện với sự kiểm soát của lương 
tâm. Có một câu danh ngôn rất hay là: “Pháp 
luật là hàng rào ngăn con người với nhà tù. 
Đạo dức là tấm vải che không cho con người 
thấy nhà tù” (khuyết danh).
Về văn hóa kinh doanh, cũng có người cho 
GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO
128 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016)
rằng văn hóa kinh doanh mang tính đặc thù, 
nhất là văn hóa doanh nghiệp, nó thể hiện “cái 
hồn” của doanh nghiệp,”cá tính” và “bản sắc” 
của doanh nghiệp. Nhưng họ quên rằng những 
cái đó, tuy đều đúng, nhưng cũng đều bắt 
nguồn từ cái chung là văn hóa dân tộc. Không 
phải ngẫu nhiên mà trong lĩnh vực nghiên cứu 
Marketing quốc tế có cả một nội dung về môi 
trường văn hóa dân tộc để giúp các doanh 
nghiệp thích ứng trong hoạt động kinh doanh 
quốc tế của mình.
Trên đây chỉ là một số ví dụ về việc vận 
dụng kiến thức của Chủ nghĩa duy vật biện 
chứng trong Triết học Mác - Lênin vào việc 
nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung môn học 
chuyên ngành mà bản thân đã thực hiện. Đọc 
và suy ngẫm sẽ thấy, các nguyên lý, quy luật, 
phạm trù trong Chủ nghĩa duy vật biện chứng 
thực sự là kiến thức nền, đem lại phương pháp 
luận cho việc nghiên cứu các lĩnh vực khoa 
học khác. Nhưng triết học là môn khoa học có 
đối tượng nghiên cứu rộng nhất (nghiên cứu 
cả về tự nhiên, xã hội và tư duy), nên tri thức 
triết học có tính khái quát và trừu tượng cao. 
Có lẽ cũng vì thế mà khi bắt đầu học môn Triết 
học Mác - Lênin, không ít sinh viên cho rằng 
môn học này nội dung khô cứng, người học 
mang tâm trạng bất đắc dĩ. Nhưng khi học đến 
những môn chuyên ngành, họ mớí thấy hết ý 
nghĩa nền tảng của những kiến thức từ những 
nguyên lý, quy luật, phạm trù triết học, điều rất 
cần thiết giúp họ tiếp thu sâu sắc hơn các môn 
học chuyên ngành. Nhất là sau khi ra trường 
phải va đập với thực tiễn, với cuộc sống, họ 
sẽ càng thấm thía hơn ý nghĩa của những kiến 
thức triết học đó, nó cần thiết cho họ tựa như 
bản cửu chương trong suốt cả cuộc đời.
Thay cho lời kết
Phil Gasper đã viết: “Những vấn đề về toàn 
cầu hóa, bất bình đẳng, tham nhũng chính trị, 
chủ nghĩa độc quyền, tiến bộ công nghệ, 
Đó là những vấn đề các nhà kinh tế hiện nay 
đang phải đối mặt, mà đôi khi họ không nhìn 
ra rằng mình đang đi theo con đường của C. 
Mác”7. Và chẳng riêng gì Phil Gasper, ngay 
Thomas L. Friedman cũng lấy làm kinh ngạc 
khi đọc “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đã 
thấy: “ Sự mô tả chi tiết và sâu sắc của C. Mác 
về các nhân tố làm phẳng thế giới vào thời kỳ 
hưng thịnh của cách mạng công nghiệp, cũng 
như khả năng dự đoán siêu phàm của ông về 
việc các lực lượng này sẽ tiếp tục làm phẳng 
thế giới cho đến ngày nay”8.q 
7 N Notre Phil Gasper - Giáo sư triết học, Đại học dam de Namur, California (Báo “Tuổi trẻ” 28/11/2005).
8 Thomas L. Friedan, Thế giới phẳng, Nxb Trẻ,Tp HCM, 2006, tr. 350./.
Tài liệu tham khảo
1. Báo Tuổi trẻ, ngày 28/11/2005.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb Tư tưởng, M., (bản tiếng Nga).
3. Nguyên lý triết học Mácxit – Chủ nghĩa duy vật biện chứng, 1962, Nxb Sự thật, H. 
4. F. G. Pítscoppen, 1960, Cơ sở lý luận nghiên cứu tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, 
Nxb IMO, M, bản tiếng Nga.
5. Thomas L. Friedan, 2006, Thế giới phẳng, Nxb Trẻ, Tp HCM.

File đính kèm:

  • pdfdoi_dieu_suy_ngam_ve_hoc_thuyet_cua_cac_mac.pdf