Điều khoản Hardship trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Bài viết nghiên cứu về điều khoản Hardship trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc

tế trên hai phương diện: Cơ sở pháp lý và thực tiễn vận dụng. Thông qua việc tìm hiểu các

quy định về Hardship trong PICC1, PECL2 và pháp luật Việt Nam, bài viết đã làm rõ: Khái

niệm về Hardship; Các điều kiện để công nhận Hardship; Các hệ quả pháp lý khi xảy ra

Hardship cũng như phân biệt giữa điều khoản Hardship và Force Majeure3. Ngoài ra, dựa

vào kết quả khảo sát 29 doanh nghiệp trên địa bàn TPHCM và phỏng vấn chuyên gia, bài

viết cũng đã đánh giá tình trạng soạn thảo, ký kết và vận dụng điều khoản này trong thực tế

tại các doanh nghiệp Việt Nam.

pdf 10 trang kimcuc 6060
Bạn đang xem tài liệu "Điều khoản Hardship trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều khoản Hardship trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Điều khoản Hardship trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
50 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 70 (02/2015)
1. Khái niệm về Hardship 
Khái niệm “Hardship” xuất hiện trong thực 
tiễn thương mại vào những năm 1960 và được 
trình bày lần đầu tiên trong các nghiên cứu của 
Marcel Fontaine, in trong quyển “Pháp luật hợp 
đồng quốc tế”, xuất bản năm 19894. Điều khoản 
Hardship được biết đến là điều khoản đàm phán 
lại hợp đồng khi có sự thay đổi hoàn cảnh dẫn 
đến khó khăn đặc biệt trong việc thực hiện hợp 
đồng. Ngày nay, điều khoản này trở nên phổ 
biến hơn trong thực tiễn thương mại quốc tế và 
đã trở thành cơ sở thực tiễn quan trọng trong 
PICC và PECL. Mặc dù vậy, khái niệm này cho 
đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Cụ thể:
Theo định nghĩa nêu tại Điều 6.2.2 của 
UNIDROIT trong PICC năm 2010 thì “Một 
ĐIỀU KHOẢN HARDSHIP TRONG HỢP ĐỒNG 
MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
Trần Thanh Tâm*, 
Nguyễn Minh Hiển**
* Giảng viên Trường Đại học Ngoại thương - Cơ sở II TP.HCM; Email: tranthanhtam.cs2@ftu.edu.vn
** Sinh viên Trường Đại học Ngoại thương - Cơ sở II TP.HCM
1 PICC là thuật ngữ viết tắt của Principles of International Commercial Contracts - Bộ nguyên tắc về hợp đồng 
thương mại quốc tế được ban hành bởi Viện Quốc tế về Nhất thể hóa pháp luật tư (UNIDROIT). PICC lần đầu 
tiên được ban hành vào năm 1994, sửa đổi, bổ sung lần lượt vào các năm 2004 và 2010.
2 PECL là thuật ngữ viết tắt của Principles of European Contract Law – Bộ nguyên tắc của Luật hợp đồng châu 
Âu, được soạn thảo bởi Ủy Ban Luật hợp đồng Châu Âu. Phần I và II của Bộ nguyên tắc này được thông qua 
vào năm 1999 và Phần III được sửa đổi vào năm 2002
3 Thường được biết đến với tên gọi là “Bất khả kháng”. Tùy theo nguồn luật điều chỉnh mà có thể tồn tại nhiều tên 
gọi khác nhau: PECL và Công ước của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1980 sử dụng 
thuật ngữ “Impediment”, trong khi Bộ luật Dân sự Đức sử dụng thuật ngữ “Impossibility” và Bộ luật thương mại 
thống nhất Hoa Kỳ (UCC) sử dụng thuật ngữ “Impracticability”.
4 Xem Ugo Draetta, Điều khoản về trường hợp bất khả kháng và điều khoản Hardship trong hợp đồng quốc tế, Kỷ 
yếu Hội thảo “Hợp đồng thương mại quốc tế” do Nhà pháp luật Việt –Pháp tổ chức tại Hà Nội, 13-14/12/2004, 
tr.181
Tóm tắt 
 Bài viết nghiên cứu về điều khoản Hardship trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc 
tế trên hai phương diện: Cơ sở pháp lý và thực tiễn vận dụng. Thông qua việc tìm hiểu các 
quy định về Hardship trong PICC1, PECL2 và pháp luật Việt Nam, bài viết đã làm rõ: Khái 
niệm về Hardship; Các điều kiện để công nhận Hardship; Các hệ quả pháp lý khi xảy ra 
Hardship cũng như phân biệt giữa điều khoản Hardship và Force Majeure3. Ngoài ra, dựa 
vào kết quả khảo sát 29 doanh nghiệp trên địa bàn TPHCM và phỏng vấn chuyên gia, bài 
viết cũng đã đánh giá tình trạng soạn thảo, ký kết và vận dụng điều khoản này trong thực tế 
tại các doanh nghiệp Việt Nam.
Từ khóa: Hardship, thay đổi hoàn cảnh, force majeure, mua bán hàng hóa quốc tế.
Mã số: 74.110714; Ngày nhận bài: 11/07/2014; Ngày biên tập: 15/08/2014; Ngày duyệt đăng:10/01/2015
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
51Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 70 (02/2015)
hoàn cảnh được gọi là Hardship, nếu nó gây 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự cân bằng của 
hợp đồng, hoặc làm cho phí thực hiện tăng 
quá cao, hoặc giá trị nhận được do thực hiện 
nghĩa vụ giảm quá thấp”. 
Từ định nghĩa này có thể thấy một hoàn 
cảnh có được xem là Hardship hay không cần 
phải xem xét xem sự thay đổi hoàn cảnh đó 
có làm ảnh hưởng (tăng lên hoặc giảm xuống) 
50% hoặc hơn tổng giá trị hợp đồng sẽ được 
xem là sự thay đổi cơ bản. Như vậy, theo định 
nghĩa để phân tích sự mất cân bằng trong hợp 
đồng, nhóm tác giả sẽ phân tích việc gia tăng 
trong chi phí thực hiện và thiệt hại của bên có 
quyền do giá trị nhận được khi nghĩa vụ được 
thực hiện bị hạ xuống quá thấp.
Về gia tăng trong chi phí thực hiện: sự gia 
tăng chi phí trong việc thực hiện nghĩa vụ của 
bên có nghĩa vụ. Sự gia tăng đó có thể là sự 
gia tăng đáng kể trong chi phí, chẳng hạn sự 
tăng vọt trong giá nhiên liệu cần thiết cho việc 
sản xuất hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ, 
hoặc các quy định mới về an toàn được ban 
hành khiến cho bên thực hiện chịu nhiều chi 
phí hơn trong quá trình sản xuất.
Về thiệt hại của bên có quyền: Do biến 
động của thị trường nên việc thực hiện hợp 
đồng gây thua lỗ hoặc giảm đáng kể lợi nhuận, 
không thu được lợi nhuận chẳng hạn như ảnh 
hưởng của siêu lạm phát đối với giá cả hàng 
hoá đã thoả thuận trong hợp đồng hay mục 
đích của hợp đồng mà bên hưởng lợi đề ra 
không còn ý nghĩa, không còn phụ thuộc vào 
thực tiễn (ví dụ như ảnh hưởng của một lệnh 
cấm vận xuất khẩu đối với hàng hoá đã được 
dự định mua nhằm mục đích xuất khẩu).
Tuy nhiên, không phải việc giảm giá trị 
thực hiện nào cũng được viện dẫn làm lý do 
cho Hardship. Những sự kiện là giảm giá trị 
của việc thực hiện do sự chủ quan của bên có 
nghĩa vụ không được xem là Hardship. 
Theo PECL, điều khoản Hardship được 
quy định tại Điều 6: 111 với tên gọi “Change 
of Circumstances” (“Sự thay đổi hoàn cảnh”) 
Theo đó, “mỗi bên phải hoàn thành các nghĩa 
vụ của mình, ngay cả khi việc thực hiện hợp 
đồng trở nên tốn kém hơn, do chi phí thực 
hiện tăng hoặc do giá trị của khoản thanh toán 
giảm” (khoản 1), và khoản 2 quy định: “Tuy 
nhiên, nếu việc thực hiện hợp đồng trở nên 
quá khó khăn bởi vì có sự thay đổi về hoàn 
cảnh, các bên buộc phải tiến hành thoả thuận 
với quan điểm là chỉnh sửa hợp đồng hoặc 
chấm dứt hợp đồng”.
Mặc dù không nêu ra một khái niệm cụ 
thể về Hardship nhưng từ quy định này có thể 
thấy PECL cũng coi Hardship là một sự thay 
đổi hoàn cảnh, không phụ thuộc vào chủ quan 
của các bên, mà sự thay đổi hoàn cảnh này gây 
khó khăn cho việc thực hiện hợp đồng khiến 
các bên phải thỏa thuận lại với nhau để xem 
xét lại việc thực hiện hợp đồng có còn cần 
thiết nữa hay không.
Để xác định mức độ khó khăn của một 
hoàn cảnh có sự thay đổi được công nhận là 
Hardship, PECL cũng đã đưa ra ví dụ minh 
chứng: công ty Tsakiroglou và Noblee Thorl 
GMbH đã thỏa thuận mua bán đậu phộng 
Sudan giá CIF, tuy nhiên, kênh đào Suez bất 
ngờ đóng cửa làm cho lộ trình của tàu phải 
vòng qua Mũi Hảo Vọng. Như vậy, với lộ 
trình mới này, Người Mua phải chịu thêm 
một khoản phí lớn nữa so với dự tính ban đầu. 
Theo PECL, cả 2 bên cần đàm phán lại và điều 
chỉnh lại giá trị của hợp đồng đã ký kết.
Ở Việt Nam, pháp luật về hợp đồng hiện 
hành chưa quy định về Hardship theo đó cho 
phép các bên đàm phán lại, điều chỉnh nội dung 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
52 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 70 (02/2015)
của hợp đồng trong trường hợp hoàn cảnh có 
sự thay đổi làm mất cân bằng nghiêm trọng 
giữa các bên. Tuy vậy, điều khoản Hardship 
cũng đã được đề cập đến ở một mức độ nhất 
định. Có thể kể đến một số quy định cụ thể, 
như quy định cho phép điều chỉnh phí bảo 
hiểm khi xảy ra những biến cố làm tăng mức 
độ rủi ro của đối tượng được bảo hiểm trong 
Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi bổ 
sung năm 20105; quy định cho phép các bên 
thỏa thuận thay đổi giá bán trong hợp đồng 
khi có những thay đổi của Nhà nước về chính 
sách tiền lương, chính sách giá các mặt hàng 
do Nhà nước kiểm soát giá trong Điều 57 Luật 
Đấu thầu năm 20056 (nay đã được thay thế bởi 
Luật Đấu thầu năm 2013)7; hay việc cho phép 
điều chỉnh giá trong hợp đồng xây dựng theo 
“giá cố định” và theo “giá trọn gói” do giá vật 
liệu xây dựng biến động ngoài khả năng kiểm 
soát của chủ đầu tư và nhà thầu8. Tuy nhiên, 
đây chỉ là những quy định tương đối đặc thù 
để giải quyết các tranh chấp liên quan trong 
các hợp đồng chuyên biệt và không phải là 
căn cứ chung để giải quyết các tranh chấp liên 
quan trong các hợp đồng khác.
Như vậy, dù tên gọi khác nhau, nhưng 
PICC và PECL đều công nhận Hardship với 
cách hiểu như nhau. Tuy nhiên, PECL cho 
phép cả hai bên đàm phán lại, nhưng và chỉ 
khi các bên không đàm phán lại thì tòa án mới 
5 Xem Điều 20, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Điều 20: Thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm.
 “1. Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì 
bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp 
đồng bảo hiểm.
 Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền 
đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh nghiệp 
bảo hiểm.
 2. Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì 
doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong 
trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn 
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm.”
6 Xem Điều 57, Luật Đấu thầu 2005: Điều chỉnh hợp đồng
 “1. Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng đối với hình thức hợp đồng theo đơn giá, hình thức hợp đồng theo thời 
gian và được thực hiện theo quy định sau đây:
 a) Trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về thuế, tiền lương ảnh hưởng trực tiếp đến giá hợp đồng thì được 
điều chỉnh theo các chính sách này kể từ thời điểm các chính sách này có hiệu lực;
 b) Trường hợp có khối lượng, số lượng tăng hoặc giảm trong quá trình thực hiện hợp đồng nhưng trong phạm vi 
của hồ sơ mời thầu và không do lỗi của nhà thầu gây ra thì việc tính giá trị tăng hoặc giảm phải căn cứ vào đơn 
giá của hợp đồng;
 c) Trường hợp giá nhiên liệu, vật tư, thiết bị nêu trong hợp đồng do Nhà nước kiểm soát có biến động lớn ảnh 
hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng thì phải báo cáo người có thẩm quyền xem xét, quyết định.
 2. Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng trong thời gian thực hiện hợp đồng theo hợp đồng đã ký và phải được 
người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Giá hợp đồng sau điều chỉnh không được vượt dự toán, tổng dự toán 
hoặc giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu được duyệt, trừ trường hợp được người có thẩm quyền cho phép.
 3. Trường hợp có phát sinh hợp lý những công việc ngoài phạm vi hồ sơ mời thầu thì chủ đầu tư thoả thuận với 
nhà thầu đã ký hợp đồng để tính toán bổ sung các công việc phát sinh và báo cáo người có thẩm quyền xem xét, 
quyết định. Trường hợp thoả thuận không thành thì nội dung công việc phát sinh đó hình thành một gói thầu mới 
và tiến hành lựa chọn nhà thầu theo quy định của Luật này.”
7 Luật đấu thầu năm 2013 có quy định về các nguyên tắc điều chỉnh hợp đồng tại Điều 67, tuy nhiên không còn 
liệt kê rõ các trường hợp như Điều 57 của Luật đấu thầu năm 2005
8 Xem Điều 2.1 của Thông tư 09/2008/TT-BXD về hướng dẫn điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng do biến động 
giá nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu xây dựng
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
53Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 70 (02/2015)
“cho chấm dứt” hoặc “sửa đổi hợp đồng theo 
một cách công bằng”. Trong khi đó, pháp luật 
Việt Nam chưa có một điều khoản cụ thể về 
Hardship hoặc chưa đưa ra một định nghĩa 
về Hardship trong các văn bản pháp luật hiện 
hành mặc dù đã có một số quy định liên quan 
đến các trường hợp khó khăn do thay đổi hoàn 
cảnh và cho phép có sự điều chỉnh hợp đồng 
sau khi ký kết.
2. Các điều kiện để được công nhận 
Hardship
- Điều kiện công nhận Hardship trong 
PICC
Theo Điều 6.2.2 của PICC năm 2010, hoàn 
cảnh được coi là Hardship phải thỏa mãn bốn 
điều kiện được quy định trong Điều 6.2.2: (1) 
Các sự kiện này xảy ra hoặc được bên bị thiệt 
hại biết đến sau khi giao kết hợp đồng; (2) Bên 
bị bất lợi đã không thể dự đoán đến các sự 
kiện đó khi giao kết hợp đồng; (3) Các sự kiện 
này nằm ngoài sự kiểm soát của bên bị bất lợi; 
(4) Rủi ro về các sự kiện này không được bên 
bị bất lợi gánh chịu. Phân tích bốn điều kiện 
trên có thể thấy:
Thứ nhất, theo mục (1) của Điều 6.2.2 
Hardship phải xảy ra sau, hoặc chỉ được 
bên có khó khăn biết đến sau khi đã giao kết 
hợp đồng. Nếu họ đã biết được các sự kiện 
Hardship vào lúc giao kết hợp đồng, họ đã có 
thể xem xét lại hợp đồng tại thời điểm giao 
kết, và sau đó thì không thể nói là đã bị bất lợi 
do hoàn cảnh thay đổi nữa. 
Thứ hai, nếu Hardship xảy ra sau khi ký 
kết hợp đồng, thì mục (2) của điều khoản này 
khẳng định rõ ràng rằng bên gặp Hardship vẫn 
không thể viện dẫn điều này để được miễn 
trách nếu họ biết hay phải biết trước điều kiện 
bất lợi này vào thời điểm giao kết hợp đồng. 
Ví dụ: A đồng ý cung cấp cho B dầu thô từ 
nước X với giá cố định trong vòng 5 năm, 
mặc dù đang có các biến động về chính sách 
chính trị tại khu vực. Hai năm sau khi giao kết 
hợp đồng, một cuộc chiến tranh nổ ra giữa các 
nước láng giềng. Cuộc chiến tranh đưa đến 
cuộc khủng hoảng năng lượng trên thế giới và 
giá dầu tăng vọt. A không có quyền viện dẫn 
hoàn cảnh bất lợi, bởi vì A biết hay buộc phải 
biết trước việc gia tăng giá dầu thô. Hoặc một 
ví dụ khác được công nhận Hardship trong 
một hợp đồng mua bán hàng hóa giữa A và 
B, giá cả được ghi rõ bằng đồng tiền của nước 
X, một đồng tiền mà giá trị của nó đã mất giá 
rất chậm so với một số ngoại tệ mạnh khác 
trước khi giao kết hợp đồng. Một tháng sau 
khi có cuộc khủng hoảng về chính trị xảy ra 
tại nước X đưa đến sự giảm giá đến 80% đồng 
tiền nước này. Trừ khi các bên có thoả thuận 
khác hay pháp luật có quy định khác, việc lạm 
phát này là một trường hợp về hoàn cảnh khó 
khăn, bởi vì các bên không thể đoán trước sự 
mất giá đồng tiền nhanh chóng như vậy. 
Thứ ba, theo mục (3) của Điều 6.2.2 
Hardship chỉ có thể phát sinh nếu các sự kiện 
gây ra hoàn cảnh khó khăn nằm ngoài tầm 
kiểm soát của bên bị bất lợi. Đương nhiên việc 
giảm giá trị do sự thay đổi ý kiến cá nhân của 
bên có hưởng lợi từ giá trị hợp đồng không 
thể coi là cơ sở viện dẫn hoàn cảnh khó khăn. 
Thứ tư, theo mục (4) có thể không chấp 
nhận Hardship nếu bên bị khó khăn đã chấp 
nhận rủi ro về Hardship. “Chấp nhận” được 
hiểu là các rủi ro này không cần phải được 
chấp nhận một cách rõ ràng, nhưng điều này 
có thể được suy ra từ bản chất của hợp đồng. 
Một bên tham gia vào một thương vụ có tính 
đầu cơ xem như chấp nhận một mức độ rủi ro 
nhất định, ngay cả khi bên đó đã không nhận 
ra các rủi ro đó vào thời điểm giao kết hợp 
đồng. Ví dụ, A - Một công ty bảo hiểm chuyên 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
54 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 70 (02/2015)
bảo hiểm các rủi ro của tàu bè, yêu cầu một 
phí bảo hiểm phụ trội đối với những khách 
hàng có những hợp đồng liên quan đến các rủi 
ro về chiến tranh và các bạo động trong nước, 
để đáp ứng các rủi ro lớn hơn đáng kể xảy 
ra sau khi các cuộc chiến tranh và bạo động 
trong nước nổ ra đồng thời ba nước trong 
cùng một khu vực. A không có quyền đòi sửa 
đổi hợp đồng và viện dẫn khó khăn khi chiến 
tranh xảy ra, do khoản tiền yêu cầu nộp thêm 
trong phí bảo hiểm về chiến tranh và bạo động 
trong nước đã ngầm chỉ rõ rằng công ty bảo 
hiểm chấp nhận rủi ro này dù cả ba nước bị 
ảnh hưởng chiến tranh cùng lúc.
- Điều kiện công nhận Hardship của PECL
Trong PECL phiên bản 1999 - 2002, tại 
khoản 2, Điều 6:111 quy định về điều khoản 
Hardship: Nếu việc thực hiện hợp đồ ... cảnh Hardship quá rõ 
ràng (Khoản 1 Điều 6.2.3 PICC).
Thứ hai, Bên bị bất lợi không có quyền tạm 
đình chỉ thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Quyền 
được yêu cầu đàm phán lại không có tương 
đương với quyền tạm đình chỉ thực hiện nghĩa 
vụ hợp đồng (Khoản 2 Điều 6.2.3 PICC)
Thứ ba, Các bên không thỏa thuận được 
trong một thời hạn hợp lý tùy vào mức độ 
phức tạp của tình hình thì mỗi bên có quyền 
yêu cầu tòa án giải quyết (Khoản 3 Điều 6.2.3 
PICC)
Thứ tư, Nếu xác định có hoàn cảnh 
Hardship và nếu thấy hợp lý, tòa án có thể: 
Chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo các điều 
kiện do Tòa án quyết định (Điểm a Khoản 4 
Điều 7.3.1 PICC) hoặc sửa đổi hợp đồng nhằm 
thiết lập lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ hợp 
đồng (Điểm b Khoản 4 Điều 7.3.1 PICC). 
PECL cũng xử lý hậu quả của việc áp dụng 
quy định về sự thay đổi hoàn cảnh, như quy 
định tại Điều 6:111, khoản 3 PECL: “Nếu các 
bên không đạt được thoả thuận trong khoảng 
thời gian hợp lý, toà án có thể: (a) chấm dứt 
hợp đồng vào ngày và theo những điều kiện 
do toà án xác định; hoặc (b) sửa đổi hợp đồng 
nhằm phân chia thiệt hại và lợi ích phát sinh 
do hoàn cảnh thay đổi cho các bên theo một 
cách thức công bằng và bình đẳn
4. Phân biệt Hardship và Force Majeure
Trong giao kết hợp đồng, các trường hợp 
Hardship và Force Majeure thường gây ra 
nhiều sự nhầm lẫn, bởi vì hai trường hợp này 
có khá nhiều nét tương đồng, và đều được 
áp dụng trong các trường hợp khi hoàn cảnh 
thay đổi. Tuy nhiên, giữa Hardship và Force 
Majeure có sự khác nhau. Đó là:
Thứ nhất, Force majeure và Hardship đều 
là những trường hợp thay đổi hoàn cảnh thực 
hiện hợp đồng nhưng sự thay đổi đó tác động 
vào việc thực hiện hợp đồng theo các cách 
khác nhau. Trong trường hợp Force Majeure, 
sự thay đổi hoàn cảnh này làm cho một bên 
hoàn toàn không thể thực hiện nghĩa vụ hợp 
đồng, ít nhất là trong một khoảng thời gian 
nhất định; trong khi đó, đối với trường hợp 
Hardship, sự thay đổi hoàn cảnh làm cho việc 
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trở nên khó khăn 
hơn, tốn nhiều chi phí hơn, nhưng không phải 
là không thể thực hiện được như trường hợp 
Force majeure.
Thứ hai, về điều kiện áp dụng, điều kiện 
áp dụng của điều khoản Force Majeure là khi 
có sự gia tăng trong chi phí thực hiện hợp 
đồng mà sự gia tăng chi phí đó không gây ảnh 
hưởng đến lợi ích của bên hưởng lợi từ nghĩa 
vụ được thực hiện, dẫn đến sự mất cân bằng 
tổng thể giữa chi phí của bên thực hiện nghĩa 
vụ và lợi ích của bên hưởng lợi từ nghĩa vụ 
được thực hiện. Ngược lại, điều kiện áp dụng 
của điều khoản Hardship là khi có sự gia tăng 
trong chi phí thực hiện hợp đồng mà trong 
chính trường hợp này, sự gia tăng chi phí đó 
có gây ảnh hưởng đến lợi ích của bên hưởng 
lợi từ nghĩa vụ được thực hiện và làm giảm 
giá trị sẽ nhận được từ bên còn lại. Như vậy, 
sự khác nhau cơ bản giữa hai điều khoản này 
là trong tình huống gánh nặng đặt lên một bên 
hay là đặt lên cả hai bên trong hợp đồng.
Thứ ba, trong các hoàn cảnh thay đổi có 
thể xảy ra, Force Majeure đề cập đến những 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
56 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 70 (02/2015)
tình huống trong thực tế như chiến tranh, thiên 
tai, sự cản trở của chính quyền trong khi đó 
Hardship lại đề cập đến sự kiện khách quan 
xảy ra sau khi ký kết hợp đồng, ngoài khả 
năng dự kiến và làm ảnh hưởng nghiêm trọng 
tới việc thực hiện hợp đồng theo những gì đã 
thỏa thuận giữa hai bên lúc ban đầu. Sự khác 
biệt có thể nhận thấy rõ nhất ở đây là trong 
khi Force Majeure đưa ra những điều kiện áp 
dụng cụ thể nhất, chỉ rõ những trường hợp 
trong thực tế thì Hardship chỉ đưa ra những dự 
đoán chung.
Thứ tư, xét về hệ quả pháp lý thì khi xảy 
ra sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm được 
hoàn toàn miễn trách nhiệm hoặc các bên có 
thể gia hạn một khoảng thời gian hợp lý để 
tiếp tục thực hiện hợp đồng khi sự kiện bất 
khả kháng kết thúc. Với Force Majeure, mọi 
nghĩa vụ trong hợp đồng được giải phóng mà 
không phải chịu bất cứ chế tài gì. Còn khi gặp 
phải hoàn cảnh Hardship thì các bên vẫn phải 
tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ của mình. Theo 
PICC năm 2010, khi gặp hoàn cảnh Hardship 
thì các bên chỉ có quyền yêu cầu đàm phán lại 
hợp đồng, chứ không có quyền chấm dứt hợp 
đồng. Hợp đồng có thể được chấm dứt nhưng 
phải do phán quyết của tòa án. Ngoài ra, tòa 
án có thể sửa đổi các điều khoản của hợp đồng 
nhằm làm cho các nghĩa vụ của hợp đồng có 
thể được cân bằng, tạo điều kiện cho việc tiếp 
tục thực hiện hợp đồng.
Thứ năm, khi sự kiện bất khả kháng xảy 
ra, việc thông báo và chứng minh là yếu tố 
cần thiết để sự viện dẫn miễn trách được chấp 
thuận. Việc thông báo này phải nhanh chóng 
và hợp lý (có thể có thỏa thuận trước về vấn 
đề này). Kèm theo sự thông báo là sự chứng 
minh dưới dạng văn bản xác nhận của chính 
quyền sở tại, các văn bản có liên quan có thể 
có giá trị chứng minh hoặc sự đưa tin tức, hình 
ảnh của báo chí để việc thông báo là chính xác 
cũng như hỗ trợ chính đáng cho việc viện dẫn 
cho sự miễn trách của bên bị ảnh hưởng. Việc 
chấp thuận hay không chấp thuận cho sự giải 
phóng nghĩa vụ, trách nhiệm từ sự vi phạm 
thực tế của bên kia còn tùy thuộc vào khả năng 
đàm phán, nếu như hai bên không thể đưa ra 
kết quả thống nhất thì việc viện dẫn luật áp 
dụng tại tòa án theo sự thỏa thuận trong hợp 
đồng sẽ là bước tiếp theo.
Với Hardship, việc thông báo cũng là cần 
thiết trong thời gian hợp lý. Việc thông báo 
không làm cho việc thực hiện hợp đồng bị 
trì hoãn. Bên bị ảnh hưởng của sự thay đổi 
hoàn cảnh sẽ phải yêu cầu đối tác đàm phán 
lại các điều khoản của hợp đồng và cần nêu 
rõ lý do của yêu cầu đó. Các bên sẽ đàm phán 
lại hợp đồng trên cơ sở công bằng và đảm bảo 
không bên nào phải chịu thiệt hại quá mức. 
Sự đàm phán lại có thể diễn ra trong vòng 90 
ngày (Điều 2 - Ấn phẩm 421 của ICC về force 
majeure và hardship) hoặc theo một thời hạn 
thỏa thuận. Nếu việc đàm phán lại không đi 
đến quyết định thống nhất giữa các bên thì vụ 
việc có thể được giải quyết tại Trọng tài hoặc 
Tòa án, tùy vào sự thỏa thuận giữa các bên.
5. Việc áp dụng điều khoản Hardship 
trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 
tại Việt Nam
- Cơ sở xem xét
Để thực hiện đánh giá tình hình sử dụng 
điều khoản Hardship trong hợp đồng mua 
bán hàng hóa quốc tế, nhóm tác giả thực hiện 
phỏng vấn hai chuyên gia Nguyễn Công Phú 
– Phó Chánh Toà Kinh tế - Tòa án nhân dân 
Thành phố Hồ Chí Minh và Châu Việt Bắc 
– Phó Tổng Thư ký của Trung tâm Trọng tài 
Quốc tế Việt Nam để nắm bắt tình hình chung 
ở Việt Nam và khảo sát 29 doanh nghiệp trên 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
57Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 70 (02/2015)
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh để nghiên 
cứu thực trạng áp dụng và diễn giải hiện nay.
Hiện nay điều khoản Hardship vẫn chưa 
được pháp luật Việt Nam công nhận. Cũng vì 
lý do trên, trong các doanh nghiệp được khảo 
sát, chỉ có 3/29 doanh nghiệp (10,34%) đã biết 
đến điều khoản này. Toàn bộ những doanh 
nghiệp này hiện tại không sử dụng điều khoản 
Hardship với những lý do như: mẫu hợp đồng 
không có sẵn điều khoản này; cách hiểu không 
đồng bộ, dễ gây tranh cãi; mối quan hệ làm 
ăn lâu năm không muốn gây phiền phức trong 
quá trình soạn thảo hợp đồng; lo ngại đối tác 
sẽ lạm dụng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này 
cũng cho rằng sẽ cân nhắc việc sử dụng điều 
khoản này trong tương lai. Đây có thể xem 
là dấu hiệu đáng mừng cho các doanh nghiệp 
Việt Nam.
Hầu hết các doanh nghiệp chưa biết đến 
điều khoản Hardship (89,66%). Điều này 
chứng tỏ rằng khái niệm Hardship vẫn còn 
xa lạ đối với những cá nhân tham gia soạn 
thảo hợp đồng của các doanh nghiệp. Lý do 
26 doanh nghiệp đó (chiếm 89,66%) chưa biết 
đến được thống kê ở Bảng 1:
Bảng 1. Bảng thống kê lý do doanh nghiệp 
được khảo sát chưa biết đến điều khoản 
Hardship
Đơn vị: phần trăm (%)
Lý do chưa biết đến
Tỉ lệ phần 
trăm (%)
Chưa có sự nghiên cứu trước 76,92%
Dùng mẫu hợp đồng sẵn 
không có điều khoản này
100%
Nguồn: Kết quả khảo sát do nhóm tác giả 
thực hiện trong 12/2013-03/2014
Như đã được đề cập ở trên, chính vì pháp 
luật Việt Nam chưa công nhận điều khoản 
Hardship nên các hợp đồng mua bán nội địa 
cũng không hề có điều khoản có nội dung 
tương tự như Hardship và trong chương trình 
đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học hay những lớp 
bồi dưỡng trình độ tay nghề ở nhiều nơi cũng 
không đề cập đến vấn đề này. Điều này làm 
ảnh hưởng đến việc sử dụng Hardship trong 
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thậm chí 
khi pháp luật của bên đối tác đã công nhận 
điều khoản này. Vì vậy, có đến 76,92% doanh 
nghiệp thiếu sự nghiên cứu từ trước. Tuy vậy, 
lý do chính là vì mẫu hợp đồng sẵn không có 
điều khoản này (100%) đã dẫn tới việc hợp 
đồng thiếu điều khoản này. Điều này một lần 
nữa thể hiện sự phụ thuộc quá mức vào hợp 
đồng mẫu và hợp đồng do các bên đối tác soạn 
thảo. Thêm vào đó, khi được khảo sát rằng 
liệu các doanh nghiệp có ý định sử dụng điều 
khoản Hardship trong tương lai hay không, 
toàn bộ doanh nghiệp cho rằng sẽ không có 
dự định sử dụng trong tương lai với những lý 
do khác nhau như:
Bảng 2 – Bảng thống kê lý do doanh nghiệp 
sẽ không sử dụng điều khoản Hardship
Đơn vị: phần trăm (%)
Lý do sẽ không sử dụng
Tỉ lệ phần 
trăm (%)
Sẽ không có trường hợp 
Hardship diễn ra
19,23%
Pháp luật Việt Nam chưa công 
nhận
88,46%
Đã có điều khoản Force 
Majeure
84,61%
Có những biện pháp khắc 
phục như bảo hiểm, trái phiếu 
đảm bảo, đàm phán
100%
Nguồn: Kết quả khảo sát nhóm tác giả thực 
hiện trong 12/2013-03/2014
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
58 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 70 (02/2015)
Từ kết quả trên, có thể nhận thấy rằng 
việc giải quyết hay phòng ngừa tranh chấp 
có thể được thực hiện bằng nhiều cách trong 
đó có thể kể đến: đàm phán được sử dụng 
vô cùng phổ biến và rộng rãi trong việc giải 
quyết các tranh chấp, mâu thuẫn; hoặc trái 
phiếu bảo đảm (có giá trị từ 2-5% giá trị hợp 
đồng) khi các bên không muốn tiếp tục thực 
hiện nghĩa vụ của mình như được quy định 
trong hợp đồng trong các ngành công nghiệp 
như ngành xây dựng. Đây là những cách thức 
được các doanh nghiệp tin tưởng sử dụng 
hoàn toàn do tính thiện chí, dễ tiến hành 
và tốn ít chi phí và thời gian. Thế nhưng, 
ta không thể hoàn toàn loại trừ tình huống 
những cách khắc phục hay phòng chống 
trên mang lại kết quả không như mong đợi. 
Trong tình huống như vậy, việc giải quyết 
tranh chấp bằng toà án hay trọng tài là không 
thể tránh khỏi. Vì vậy, việc thêm điều khoản 
Hardship vào hợp đồng là cần thiết. Điều 
khoản Force Majeure không thể giải quyết 
những tranh chấp nảy sinh trong trường hợp 
của Hardship bởi như đã đề cập ở trên, mức 
độ công nhận và cả hệ quả pháp lý của hai 
điều khoản là hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, 
việc các doanh nghiệp dựa vào điều khoản 
Force Majeure (22/26, chiếm 84,61%) là 
hoàn toàn bất cẩn. Một khó khăn cơ bản đã 
được nhắc đến từ ban đầu đó chính là việc 
pháp luật Việt Nam chưa công nhận (23/26, 
chiếm 88,46%). Tuy nhiên, điều đáng lưu 
ý rằng nếu những quy định trong hợp đồng 
không trái với pháp luật Việt Nam quy định, 
toà án hay trọng tài đều sẽ tôn trọng thoả 
thuận các bên được quy định trong hợp đồng. 
Vì vậy, việc thêm vào điều khoản Hardship 
do các bên tự thoả thuận với nhau hoàn toàn 
có thể khắc phục khó khăn này.
- Một số nhận xét
Sau khi tổng hợp ý kiến của hai chuyên gia 
và kết quả nghiên cứu và khảo sát, có thể rút 
ra một số nhận xét sau đây:
Thứ nhất, do quy mô doanh nghiệp nhỏ và 
mong muốn giữ vững mối quan hệ làm ăn lâu 
năm, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu giao 
kết hợp đồng dựa trên mẫu có sẵn từ những 
thương vụ làm ăn trước hay để đối tác tự soạn 
thảo. Bên cạnh đó, rất ít các doanh nghiệp, trừ 
trường hợp những doanh nghiệp lớn, có chỗ 
đứng thương mại vững vàng và có khả năng 
chi trả, có bộ phận pháp lý hay nhờ đến sự 
hỗ trợ hay tư vấn của các công ty tư vấn luật. 
Các doanh nghiệp Việt Nam hiếm khi tự chủ 
động đàm phán, đưa những điều khoản như 
Hardship hay những điều khoản có nội dung 
tương tự vào hợp đồng. Vì vậy việc giao kết 
hợp đồng thường được thực hiện thiếu cẩn 
trọng và có nhiều rủi ro cho doanh nghiệp Việt 
Nam. Thậm chí trong trường hợp xảy ra tranh 
chấp, doanh nghiệp Việt Nam sẵn sàng chịu 
thua thiệt để giữ gìn mối quan hệ làm ăn lâu 
dài với đối tác.
Thứ hai, mẫu hợp đồng chuẩn có thể áp 
dụng cho nhiều ngành và có những điều khoản 
có thể bảo vệ lợi ích toàn diện cho doanh 
nghiệp Việt Nam hiện nay không có. Nếu có 
tồn tại, những mẫu hợp đồng chỉ tồn tại trên 
mặt lý thuyết, tức là trên giáo trình và sách vở 
có nội dung liên quan đến hợp đồng, do những 
nhà học giả nghiên cứu và soạn thảo. Những 
mẫu hợp đồng này chỉ mang tính chất tham 
khảo và ít được dùng trong những trường hợp 
thực tế. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt 
Nam cũng ít chịu đầu tư tìm hiểu, đề xuất 
những điều khoản nhằm bảo vệ lợi ích của 
doanh nghiệp.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
59Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 70 (02/2015)
Thứ ba, hiện nay những tranh chấp liên 
quan đến điều khoản Hardship ở Việt Nam 
chưa phổ biến. Về phía Toà án Kinh tế Thành 
phố Hồ Chí Minh, hơn 20 năm kinh nghiệm 
xét xử, Thẩm phán Nguyễn Công Phú chưa 
hề giải quyết hay chứng kiến bất tranh chấp 
liên quan đến điều khoản Hardship của doanh 
nghiệp Việt Nam với đối tác nước ngoài, mặc 
dù vẫn xảy ra những tranh chấp giữa các doanh 
nghiệp Việt Nam với nhau. Về phía Trung tâm 
Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Phó tổng thư ký 
Châu Việt Bắc chỉ ghi nhận một tranh chấp 
xảy ra nhưng liên quan đến Force Majeure 
chứ không phải là Hardship.
Thứ tư, việc đào tạo hay kiểm tra trình độ 
chuyên môn của những bộ phận soạn thảo 
hợp đồng hay những cá nhân, bộ phận có liên 
quan chưa được thực hiện nghiêm chỉnh và 
mang lại kết quả như mong đợi. Hằng năm, 
các doanh nghiệp cử đại diện tham gia vào các 
lớp huấn luyện và bồi dưỡng trình độ chuyên 
môn và kiến thức về luật do Toà án Kinh tế tổ 
chức. Tuy nhiên, việc tham gia là tự nguyện 
và cuối mỗi khoá học cũng không có bất kì 
hình thức kiểm tra kiến thức/trình độ/kỹ năng 
của người tham gia khoá huấn luyện.
Thứ năm, việc soạn thảo và giao kết hợp 
đồng ở Việt Nam vẫn chưa được xem trọng. 
Bản thân doanh nghiệp Việt Nam chưa hiểu 
hết tầm quan trọng của việc chủ động trong 
soạn thảo hợp đồng, chưa xem xét từng trường 
hợp cụ thể khi soạn thảo hơp đồng, thường 
dựa vào hợp đồng mẫu hay được soạn thảo bởi 
đối tác, chưa xây dựng quy trình chính thức 
cụ thể mà chỉ dựa vào những tập quán, quy 
trình được sử dụng quen trước đó mà chưa chú 
trọng cải thiện với mục đích bảo vệ lợi ích của 
chính mình.
Thứ sáu, điều khoản Hardship nhìn chung 
vẫn còn lạ lẫm với doanh nghiệp Việt Nam. 
Điều này chủ yếu bởi sự chưa công nhận điều 
khoản Hardship ở Việt Nam, do mẫu hợp đồng 
đối tác chưa có điều khoản này, sự tin tưởng 
quá mức vào điều khoản Force Majeure và các 
biện pháp khắc phục hậu quả khác. Để khắc 
phục điều này, các doanh nghiệp cần nâng cao 
trình độ chuyên môn, chủ động đàm phán với 
đối tác để điều chỉnh hợp đồng phù hợp để 
đảm bảo lợi ích của bên doanh nghiệp và cần 
cẩn trọng hơn trong cách giải quyết các tranh 
chấp có thể xảy ra.q 

File đính kèm:

  • pdfdieu_khoan_hardship_trong_hop_dong_mua_ban_hang_hoa_quoc_te.pdf