Điện Biên Phủ và đại tướng Võ Nguyên Giáp dưới cách nhìn của người Mĩ

Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) đã đặt dấu chấm hết cho ách thống trị của

Pháp, làm thất bại âm mưu can thiệp của Mỹ vào Đông Dương. Chiến thắng vĩ đại đó gắn

liền với sự lãnh đạo tài tình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Do đó, Điện Biên Phủ - Võ

Nguyên Giáp đã tạo nên một sự kính trọng của toàn thể nhân loại. Người Mỹ cũng đã dành

một sự trân trọng và khâm phục đáng kể đối với vị tướng tài ba và chiến thắng oanh liệt

này. Tướng Westmoreland khâm phục cho rằng, Tướng Giáp – một thống soái vĩ đại. Còn

J. McCain thì xem Tướng Võ Nguyên Giáp là một chiến lược gia quân sự tài ba. Còn tờ

New York Times đã đặt Ông ngang hàng với MacArthur và những chỉ huy quân sự vĩ đại

khác của thế kỉ XX. Chủ tịch Đảng Cộng sản Mỹ cho rằng “thất bại tại Điện Biên Phủ là

thất bại lớn lao của kế hoạch chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ”. Rõ ràng, người Mỹ

đã rất khâm phục trí tuệ và tài năng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

pdf 8 trang kimcuc 15640
Bạn đang xem tài liệu "Điện Biên Phủ và đại tướng Võ Nguyên Giáp dưới cách nhìn của người Mĩ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điện Biên Phủ và đại tướng Võ Nguyên Giáp dưới cách nhìn của người Mĩ

Điện Biên Phủ và đại tướng Võ Nguyên Giáp dưới cách nhìn của người Mĩ
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014 
67 
ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP 
DƯỚI CÁCH NHÌN CỦA NGƯỜI MĨ 
LÊ TÙNG LÂM 
(*) 
LÊ HẮC TÙNG (**) 
TÓM TẮT 
Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) đã đặt dấu chấm hết cho ách thống trị của 
Pháp, làm thất bại âm mưu can thiệp của Mỹ vào Đông Dương. Chiến thắng vĩ đại đó gắn 
liền với sự lãnh đạo tài tình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Do đó, Điện Biên Phủ - Võ 
Nguyên Giáp đã tạo nên một sự kính trọng của toàn thể nhân loại. Người Mỹ cũng đã dành 
một sự trân trọng và khâm phục đáng kể đối với vị tướng tài ba và chiến thắng oanh liệt 
này. Tướng Westmoreland khâm phục cho rằng, Tướng Giáp – một thống soái vĩ đại. Còn 
J. McCain thì xem Tướng Võ Nguyên Giáp là một chiến lược gia quân sự tài ba. Còn tờ 
New York Times đã đặt Ông ngang hàng với MacArthur và những chỉ huy quân sự vĩ đại 
khác của thế kỉ XX. Chủ tịch Đảng Cộng sản Mỹ cho rằng “thất bại tại Điện Biên Phủ là 
thất bại lớn lao của kế hoạch chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ”. Rõ ràng, người Mỹ 
đã rất khâm phục trí tuệ và tài năng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. 
Từ khoá: Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp, Mỹ, Pháp, Westmoreland 
ABSTRACT 
Dien Bien Phu Victory (May 7, 1954) put an end to the domination of France and 
stopped the plot of U.S. intervention in Indochina. This great victory is associated with the 
gifted leadership of General Vo Nguyen Giap. Therefore, Dien Bien Phu - Vo Nguyen Giap 
has received a respect of the world. The Americans themselves have had a sincere respect 
for the genius general and this glorious victory. General Westmoreland admiringly said that 
General Giap is a great commander-in-chief. Meanwhile, J. McCain considered Vo Nguyen 
Giap as a talented military strategist. Besides, the New York Times placed him alongside 
MacArthur and the other greatest military commanders of the twentieth century. The 
Chairman of the Communist Party of the United States said that "the failure at Dien Bien 
Phu is the great failure of the aggressive war plans of the U.S. imperialism". Apparently, the 
Americans have admired the wisdom and talents of General Vo Nguyen Giap. 
Keywords: Dien Bien Phu, Vo Nguyen Giap, the U.S., France, Westmoreland 
Ngày 7-5-1954, quân dân Việt Nam 
*làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng 
lẫy năm châu, chấn động đ a cầu. Chiến 
thắng Điện Biên Phủ đã đặt dấu chấm hết 
(*)ThS.NCS, Trường Đại học Sài Gòn. 
(**)ThS, Trường THPT Dầu Tiếng, Bình Dương. 
cho ách thống tr gần 100 năm của Pháp 
trên đất nước ta. Đồng thời, nó cũng làm 
thất bại âm mưu của Pháp – Mĩ trong việc 
biến Đông Dương thành căn cứ quân sự 
chống cộng sản ở Đông Nam Á. Chiến 
thắng này gắn liền với tên tuổi của v Đại 
tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp. Vậy, 
 68 
chiến thắng Điện Biên Phủ và Đại tướng Võ 
Nguyên Giáp đã được người Mĩ nhìn nhận 
và đánh giá như thế nào? Nhân d p kỉ niệm 
60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, việc tìm 
hiểu góc nhìn của người Mĩ về Điện Biên 
Phủ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp càng 
làm tăng thêm ý nghĩa thời đại của chiến 
thắng Điện Biên Phủ cũng như vai trò to lớn 
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. 
1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ 
Từ những năm 50 của thế kỉ XX, tình 
hình châu Á có nhiều biến động quan trọng, 
đe dọa chính sách toàn cầu của Mĩ như: 
1- Nước Cộng hòa Nhân dân Trung 
Hoa ra đời (1-10-1949) và Hiệp ước hữu 
ngh liên minh tương trợ Xô – Trung được 
ký kết (2-1950) đã làm cho khối Xã hội 
chủ nghĩa được nối liền từ châu Âu sang 
châu Á. 
2- Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ (25-
6-1950), chính phủ Hàn Quốc đứng trước 
nguy cơ b xóa sổ. Từ 25-10-1950, Trung 
Quốc gửi chí nguyện quân sang giúp Bắc 
Triều Tiên. 
3- Ở Đông Dương, ngày 18-1-1950, 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa 
Nhân dân Trung Hoa đã thiết lập quan hệ 
ngoại giao cấp nhà nước. Ngày 30-1-1950, 
Liên Xô công nhận và đặt quan hệ ngoại 
giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Những sự kiện trên đã chứng minh ảnh 
hưởng của Liên Xô ngày càng tăng đối với 
châu Á và đặc biệt quan trọng là những dấu 
hiệu gia tăng sự ủng hộ của Chủ nghĩa xã 
hội ở Đông Dương. Do đó, Mĩ phải mở 
rộng chính sách toàn cầu sang châu Á. 
Ngày 30-12-1949, Tổng thống H.Truman 
phê chuẩn Văn kiện NSC 48/2 của Hội 
đồng An ninh Quốc gia và xác đ nh “phải 
đặc biệt chú ý đến vấn đề Đông Dương 
thuộc Pháp” và “đường lối chính sách của 
Mĩ là chặn đứng sự bành trướng hơn nữa 
của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á”[7, tr.9]. 
Như vậy, nguyên nhân quan trọng nhất để 
Mĩ phải mở rộng chính sách toàn cầu sang 
châu Á là sự xuất hiện và đe dọa (theo cách 
hiểu của giới cầm quyền Mĩ) đến thế giới 
tự do của họ bởi Chủ nghĩa cộng sản. Vì 
vậy, Washington phải xem xét và đánh giá 
lại v trí của Đông Dương trong chính sách 
chống cộng của Mĩ. 
Ngày 27-2-1950, Hội đồng An ninh 
Quốc gia Mĩ thông qua NSC 64 và xác đ nh 
“Đông Dương là một khu vực then chốt và 
đang trực tiếp b đe dọa Do đó, Mĩ phải 
ưu tiên một chương trình gồm những biện 
pháp thực tế nhằm bảo vệ lợi ích an ninh 
của Mĩ ở Đông Dương [5.tr.96]. Mĩ phải 
tăng cường viện trợ cho Pháp tại Đông 
Dương. Đây là điều “tối cần thiết vì sự hiện 
diện của Trung Quốc ở biên giới phía Bắc 
Đông Dương mà người Pháp thì không đủ 
sức đương đầu với lực lượng Việt Minh”[4, 
tr.81]. Rõ ràng, người Mĩ không đủ “lòng 
tin” vào một thắng lợi cần thiết của Pháp tại 
Đông Dương trước những người cộng sản - 
lực lượng nhận được sự hậu thuẫn từ Trung 
Quốc và Liên Xô. 
Ngày 26-5-1952, Tổng thống Truman 
đã xác đ nh lại vành đai phòng thủ của Mĩ 
phải bao gồm cả Triều Tiên, Đài Loan và 
Đông Dương. Trong đó, Đông Dương giữ 
vai trò then chốt vì nếu Đông Dương sụp đổ 
sẽ là “một tai họa không những đối với việc 
cung cấp nguyên liệu và đối với tinh thần 
nhân dân Đông Nam Á mà còn là một tai 
họa, ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần các 
lực lượng của Liên Hiệp Quốc ở (Nam) 
Triều Tiên nữa”[9, tr.12]. Như vậy, sau sự 
“biến mất” Trung Quốc và chiến tranh Triều 
 69 
Tiên bùng nổ, Washington phải xác đ nh lại 
v trí phòng thủ của Mĩ ở châu Á-Thái Bình 
Dương. Đối với Mĩ, Đông Dương trở thành 
v trí then chốt trong chính sách toàn cầu 
ngăn chặn Chủ nghĩa Cộng sản lan rộng 
xuống vùng Đông Nam châu Á. 
Tại Đông Dương, Mĩ ra sức tăng 
cường viện trợ về kinh tế lẫn quân sự để 
giúp Pháp giành thắng lợi trong cuộc chiến 
tại nơi này. Tính đến năm 1954, chương 
trình viện trợ quân sự của Mĩ cho Pháp lên 
đến 1,1 tỷ USD, gánh ch u 78% chiến phí 
của Pháp [7, tr.10]. Năm 1953, Mĩ giúp 
Pháp thực hiện Kế hoạch Navarre với trọng 
tâm của Kế hoạch Navarre là xây dựng tập 
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ nhằm giành 
thắng lợi trong cuộc chiến tranh này. Ngay 
Thủ tướng Pháp - Laniel cũng cho rằng: 
“Kế hoạch Navarre chẳng những được 
chính phủ Pháp mà cả những người bạn Mĩ 
cũng tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ 
mọi điều” [8, tr.61]. Vậy, với người Mĩ, 
Điện Biên Phủ có vai trò như thế nào? 
2. ĐIỆN BIÊN PHỦ DƯỚI GÓC NHÌN 
CỦA NGƯỜI MĨ 
Trước khi Pháp cử Navarre sang Đông 
Dương để th sát tình hình và vạch ra một 
kế hoạch mới nhằm giành thắng lợi trong 
cuộc chiến tranh tại đây, ngày 24-3-1953, 
Ngoại trưởng Mĩ - J.F.Dulles đã từng lưu ý 
rằng “Đông Dương còn quan trọng hơn cả 
Triều Tiên vì kết quả của cuộc chiến ở 
vùng đất này sẽ tác động đến cả khu vực 
Đông Nam Á” [11, tr.135]. Ngay tổng 
thống Eisenhower cũng cho rằng "vào thời 
mùa xuân năm 1953, công việc chính của 
chúng tôi là thuyết phục thế giới rằng cuộc 
chiến ở Đông Nam Á là một hành động 
xâm lược của Cộng sản nhằm khuất phục 
cả vùng” [4, tr.87]. Rõ ràng, trong nhận 
thức của giới cầm quyền Mĩ, Đông Dương 
giữ một trí trí then chốt, là quân cờ chủ 
chốt trong ván bài domino của Mĩ ở Đông 
Nam châu Á. Bây giờ, nhiệm vụ quan 
trọng nhất của Mĩ là phải giúp Pháp, cùng 
chung vai với Pháp để tìm thấy một chiến 
thắng cần thiết tại Đông Dương. 
Ngày 29-4-1953, Hội đồng An ninh 
Quốc gia Mĩ thông qua Văn kiện NSC-
149/2. Theo đó, Mĩ rất có khả năng sẽ can 
thiệp trực tiếp vào Đông Dương, trong 
trường hợp xảy ra một cuộc tiến công của 
Trung Quốc ở đây, hoặc tình hình trải qua 
những thay đổi sâu sắc [11, tr.138]. Như vậy, 
quan điểm của chính phủ Mĩ đã rất rõ ràng là 
sẽ can thiệp vào Đông Dương nếu điều kiện 
đòi hỏi: sự tấn công của Trung Quốc vào khu 
vực này. Mối quan ngại lớn nhất của 
Washington không phải từ sự lớn mạnh của 
lực lượng Việt Minh tại Đông Dương mà 
chính là sự ủng hộ từ phía sau của Bắc Kinh. 
Người Mĩ rất ngại khi phải chạm trán với lực 
lượng Quân giải phóng Nhân dân Trung 
Quốc nếu chiến tranh xảy ra. 
Đầu năm 1954, kế hoạch Navarre lâm 
vào khó khăn khi Navarre phải căng lực 
lượng Pháp ra để đối phó với các cuộc tấn 
công chiến lược của lực lượng giải phóng ở 
Lai Châu, Trung Lào, Thượng Lào và Bắc 
Tây Nguyên. Trong đó, Pháp phải tập trung 
một lực lượng quân sự lớn cho Tập đoàn 
cứ điểm Điện Biên Phủ. Theo Douglas 
Johnson, giáo sư nghiên cứu tại Viện 
nghiên cứu chiến lược Đại học Chiến tranh 
Quân đội Mĩ thì “Đó là nỗ lực nhằm cắt 
hậu phương đ ch, ngăn nguồn tiếp tế và chi 
viện để thiết lập v trí cố thủ tại hậu 
phương và cắt đứt phòng tuyến của đ ch. 
Như vậy, kẻ đ ch sẽ b lừa vào trận đ a 
chết” [15]. Thế nhưng, thực trạng chiến 
trường không như người Pháp mong muốn. 
 70 
Pháp ngày càng “lún sâu vào vũng lầy 
Đông Dương” và ngày càng gặp nhiều khó 
khăn khi kéo dài cuộc chiến ở đây. 
Paris bắt đầu tính đến một giải pháp 
kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương khi 
ngoại trưởng Pháp Georges Bidault đã “tự 
đặt mình vào v thế thực sự khẩn cầu 
Molotov đưa Đông Dương vào chương 
trình ngh sự ở Geneva” [4, tr.89]. Tuy 
nhiên, phía Mĩ không đồng ý với giải pháp 
này. Dulles khăng khăng đòi chỉ bàn đến 
vấn đề Đức và Áo, gạt bỏ ý kiến triệu tập 
Hội ngh 5 nước lớn (trong đó có Trung 
Quốc) bàn việc giảm tình hình căng thẳng 
ở Viễn Đông. Cuối cùng, các nước thỏa 
thuận việc sẽ triệu tập một Hội ngh quốc 
tế với sự tham gia của CHND Trung Hoa 
tại Geneva từ ngày 26-4-1954 để bàn giải 
pháp chính tr cho vấn đề Triều Tiên và 
giải quyết cuộc chiến ở Đông Dương. 
Tháng 3-1954, cuộc tấn công của Việt 
Minh vào Điện Biên Phủ bắt đầu, Navarre 
hiểu rất rõ rằng “nếu Bộ chỉ huy Pháp thất 
bại tại Điện Biên Phủ thì Việt Minh sẽ 
thắng cuộc chiến tranh về mặt chính tr ” 
[6, tr.14]. Do đó, người Pháp cố gắng duy 
trì tình hình ở đây và mong chờ sự viện trợ 
từ phía Mĩ. Trước nguy cơ thất bại của 
Pháp tại Điện Biên Phủ, ngày 25-3-1954, 
Hội đồng An ninh Quốc gia Mĩ đã xác đ nh 
hai mục tiêu quan trọng trước mắt là: 
1- Soạn thảo một kế hoạch về một 
hành động thống nhất có thể có nhằm hỗ 
trợ hay thậm chí thay Pháp ở Đông Dương; 
2- Xem xét những đường lối hành 
động khác nhau trong trường hợp Pháp 
quyết đ nh rút khỏi đây. Ngh quyết cũng 
nhấn mạnh rằng "Mĩ sẽ sử dụng mọi 
phương tiện có thể có để tác động lên chính 
phủ Pháp nhằm chống lại việc kết thúc 
cuộc chiến theo những điều kiện không 
phù hợp với các mục tiêu căn bản của Mĩ” 
[4, tr.90]. 
Như vậy, Mĩ đã xem xét khả năng 
hành động cần thiết để cứu nguy cho Pháp. 
Mục tiêu quan trọng nhất của Mĩ là không 
để Pháp kết thúc cuộc chiến tranh Đông 
Dương theo hướng nguy hại cho sứ mệnh 
chống cộng của họ. Lúc này, Đô đốc 
Radford – Chủ t ch Hội đồng tham mưu 
trưởng liên quân đã chuẩn b một kế hoạch 
giải vây cho Pháp tại Điện Biên Phủ với 
mật danh Vulture. 
Đồng thời, Washington cũng bắt đầu 
tính đến một giải pháp “thay Pháp” nếu 
tình hình bắt buộc. Tuy nhiên, quan điểm 
này của Mĩ đã vấp phải những khó khăn 
không thể vượt qua là: 
1- Quốc hội Mĩ chỉ ủng hộ chính phủ 
trong vấn đề giải vây cho Pháp tại Điện 
Biên Phủ trong sự liên minh với các nước 
tự do khác ở Đông Nam Á, Philippines và 
Khối Th nh Vượng chung của Anh. 
2- Người Pháp phải đồng ý xúc tiến 
nhanh chương trình trao trả độc lập cho các 
quốc gia liên kết để mọi người không diễn 
d ch rằng sự trợ giúp của Mĩ đồng nghĩa 
với sự ủng hộ chủ nghĩa thực dân Pháp. 
3- Người Pháp phải đồng ý không rút 
lực lượng của họ ra khỏi cuộc chiến, nếu 
chúng ta đưa lực lượng chúng ta vào 
[4, tr.91-92] 
Khó khăn lớn nhất mà Mĩ vấp phải là 
sự không đồng thuận của Anh trong việc 
gửi quân trực tiếp giải vây cho Điện Biên 
Phủ. Mặt khác, Pháp lúc này cũng không 
thể thực hiện được việc trao trả độc lập cho 
Việt Nam như phía Mĩ yêu cầu. Rõ ràng, 
đây là những khó khăn không thể vượt qua 
 71 
của Mĩ về vấn đề Điện Biên Phủ. Cuối 
cùng, ngày 23-4-1954, Eisenhower trả lời 
dứt khoát rằng “Sẽ không có chuyện can 
thiệp mà không có đồng minh”. Ngày 25-
4-1954, chính phủ Anh cũng công bố lập 
trường là “Chúng ta không sẵn sàng đưa ra 
trước khi Hội ngh Geneva nhóm họp bất 
kì lời hứa nào liên quan đến hành động 
quân sự của Anh ở Đông Dương”[4, tr.94]. 
Như vậy, cuối cùng Mĩ không thể gửi quân 
giải vây cho Điện Biên Phủ. 
Chiều ngày 7-5-1954, Tướng De Castries 
và toàn bộ hơn 16.200 quân đã b thất bại tại 
Điện Biên Phủ. De Castries, một v tướng 
lĩnh đã được 21 lần vinh danh công trạng, 
một nhà thể thao đua ngựa tài ba đã khóc vì 
“ngã ngựa” tại Điện Biên Phủ xa xôi. Điện 
Biên Phủ sụp đổ đã khiến cả nước Pháp 
bàng hoàng và chấm dứt đô hộ gần một thế 
kỉ của Pháp tại Đông Dương. 
Theo Tạp chí The Diplomat “Điện 
Biên Phủ là một chiến thắng thay đổi l ch 
sử. Trước hết, nó đập tan tư tưởng cố hữu 
cho rằng phương Tây là bất khả chiến bại. 
Chiến thắng đó còn cổ vũ cho những cuộc 
chiến chống chế độ thực dân trên khắp thế 
giới”[12]. Rõ ràng, chiến thắng Điện Biên 
Phủ năm 1954 đã kết thúc chế độ thống tr 
của Pháp ở Đông Dương và buộc Pháp 
phải rút quân đội về nước. Vì vậy, nó cỗ vũ 
mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân 
tộc trên thế giới. Chiến thắng oanh liệt này 
gắn liền với công lao to lớn và sự lãnh đạo 
tài ba của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. 
3. ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP 
DƯỚI CÁCH NHÌN CỦA NGƯỜI MĨ 
Trong chiến d ch Điện Biên Phủ 1954, 
Đại tướng Võ Nguyên Giáp là chỉ huy tối 
cao, trực tiếp trên chiến trường. Với tài 
năng sáng tạo, linh hoạt của mình, Đại 
tướng đã cùng quân dân ta tạo nên một 
chiến công oanh liệt. Tài năng xuất chúng 
của Người đã khiến đối phương - Tướng 
De Castries phải thốt lên rằng “tôi thấy 
Tướng Giáp không những giỏi về chỉ huy 
đánh du kích, mà còn giỏi cả về chỉ huy 
trận đ a chiến, chỉ huy tác chiến hiệp đồng 
binh chủng, và cả về nghi binh đánh lừa 
tình báo đối phương” [14]. Tài năng đó của 
Đại tướng cũng đã được rất nhiều người 
Mĩ biết đến và khâm phục. 
Từ năm 1964, Washington đã giao cho 
công ty RAND1 thực hiện một dự án tìm 
hiểu về “động cơ và tinh thần chiến đấu của 
Việt Cộng”. Sau sáu tháng nghiên cứu, 
Joseph asloff đã kết luận chỉ có “tinh thần 
chiến đấu cao” mới là thứ vũ khí lợi hại 
nhất của quân Việt Cộng. Và sau khi nghe 
Daniel Ellsberg thuật lại bản báo cáo ấy, 
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ 
McNaughton đã thốt lên: “Nếu những điều 
anh nói là đúng sự thật thì có nghĩa là chúng 
ta đã đánh không đúng đối thủ rồi” 
[3, tr.230]. 
Từ tháng 3-1965, những đơn v lính Mĩ 
được trực tiếp đưa sang Việt Nam để tiến 
hành những cuộc càn quét, bình đ nh và 
tiêu diệt lực lượng giải phóng miền Nam 
Việt Nam. Cuộc chiến tranh Việt Nam – 
Mĩ kéo dài từ 1954 – 1975 đã thu hút rất 
nhiều tướng lĩnh tài giỏi của Mĩ như 
McNamara, William Westmorelandtham 
gia. Cuối cùng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, 
linh hoạt của Đảng và Bộ Tổng Tham mưu, 
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, quân dân Việt 
Nam đã buộc Mĩ phải ký Hiệp đ nh Paris 
và chấp nhận rút quân đội về nước, tạo 
điều kiện để ta tiến tới thống nhất nước 
nhà. Do đó, Đại tướng đã nhận được quan 
tâm và nể phục từ phía Mĩ. 
 72 
Khi nói về tài năng của Đại tướng, 
William Westmoreland đã phải thừa nhận 
rằng “những phẩm chất làm nên một nhà 
lãnh đạo quân sự vĩ đại là khả năng đưa ra 
quyết đ nh, sức mạnh tinh thần, khả năng 
tập trung và một trí tuệ hội tụ được những 
phẩm chất này. Tướng Giáp đã sở hữu tất 
cả”[14]. Đây là một đánh giá rất quan trọng 
của một Đại tướng chỉ huy quân đối 
phương khi nhận đ nh về tài năng đối thủ 
của mình. Không những thế, Cecil B. 
Currey – một sử gia quân sự Mĩ cũng thừa 
nhận rằng “Võ Nguyên Giáp là một thiên 
tài quân sự. Trong suốt sự nghiệp của 
mình, ông vạch ra chiến thuật, chiến lược 
đã giúp đất nước ông chiến thắng những kẻ 
thù mạnh nhất. Những thử thách mà Tướng 
Giáp vượt qua đã khiến ông trở thành bậc 
thầy chiến lược, chiến thuật và nghệ thuật 
quân sự” [2, tr.21]. Với những thắng lợi 
vang dội của Việt Nam trong kháng chiến 
chống Mĩ, Currey đã phải thừa nhận Người 
là một “chuyên gia hiện hữu vĩ đại nhất về 
chiến tranh nhân dân. Ông không chỉ trở 
thành một huyền thoại mà có lẽ còn trở 
thành một thiên tài quân sự lớn nhất thế kỉ 
20 và một trong những thiên tài lớn nhất 
của mọi thời đại” [2, tr.450]. 
Trong cuộc sống hàng ngày, Người 
còn là một v chỉ huy rất thân thiện, hoạt 
bát. Theo New York Times: “Ông là một 
người rất lôi cuốn và hoạt bát, một nhà 
quân sự uyên bác và một người theo chủ 
nghĩa dân tộc quyết liệt. Ông có thể dùng 
sức hút của bản thân để lên tinh thần cho 
quân sỹ, làm bùng cháy trong họ sự sẵn 
sàng cống hiến cho đất nước. Những người 
hâm mộ ông đặt ông ngang hàng với 
MacArthur, Rommel và những chỉ huy 
quân sự vĩ đại khác của thế kỉ 20” [13]. 
Còn Thượng ngh sĩ John McCain thì xem 
"Tướng Võ Nguyên Giáp là một chiến lược 
gia quân sự tài ba và Người từng xem Mĩ 
là những kẻ thù danh dự" [17]. 
Tạp chí TIME đã bình chọn Võ Nguyên 
Giáp là một trong số những người hùng châu 
Á với những lời nhận xét sâu sắc: “Ngày 
nay, vẫn chỉnh tề trong bộ quân phục, tướng 
Giáp vẫn khiêm tốn từ chối việc tôn vinh 
ông như một người anh hùng nhờ những 
chiến thắng quân sự đó. Ông khẳng đ nh, 
đơn giản là những chiến thắng ấy chứng 
minh rằng “nhân dân Việt Nam, với tinh 
thần yêu nước, có thể làm nên những điều 
phi thường”. Đúng vậy, nhưng Giáp đã chỉ 
cho họ con đường ấy”[1, tr.10] 
Ngày nay, khi chiến tranh dần lùi vào 
quá khứ, người Mĩ đã dành nhiều sự kính 
trọng đối với v tướng tài ba này. Trên 
Washington Post, một độc giả có biệt danh 
Countrydoctor viết cho rằng “Con người 
này (Đại tướng –ND) rõ ràng là v tư lệnh 
xuất sắc nhất của thế kỉ XX. Ông đã lãnh 
đạo quân đội của quốc gia nhỏ bé đó tới 
chiến thắng trước cả Pháp và Mĩ” [16]. 
Đồng quan điểm này, Joe R, một độc giả 
có hơn 30 năm phục vụ trong quân đội 
chính quy cũng rằng: “Tướng Võ Nguyên 
Giáp đã xếp ngang hàng với Alexander đại 
đế và Napoleon Bonaparte với tư cách một 
trong những v Nguyên soái chiến trường 
vỹ đại của l ch sử”[16]. 
Một cựu chiến binh Mĩ từng tham gia 
cuộc chiến tại Việt Nam có biệt danh 
Openminded1 cũng tỏ rõ sự kính phục Đại 
tướng Võ Nguyên Giáp: “Là một cựu chiến 
binh tại Việt Nam, tôi kính trọng sự thông 
minh và lòng yêu nước của người đàn ông 
này. Ông đã có một cuộc đời đầy thành tựu 
và trường thọ. Nhưng tôi không thể khóc 
bởi tôi đã mất quá nhiều bạn bè tại đất 
nước của ông ấy”[16]. 
 73 
Tóm lại, Đại tướng Võ Nguyên Giáp 
không chỉ nhận được sự kính trọng, nể phục 
bởi tài năng quân sự kiệt xuất, cuộc sống 
giản d và gần gũi với binh sĩ của người Việt 
Nam mà còn được cả thế giới nể trọng. 
Trong đó, người Mĩ cũng đã có nhiều công 
trình nghiên cứu, đánh giá về Đại tướng. 
Người Mĩ đã dành cho Đại tướng sự kính 
phục như tướng Westmoreland - nguyên 
Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mĩ trên chiến 
trường Đông Dương, đối thủ trực tiếp của 
tướng Giáp cũng đã nói: “Mọi đức tính tạo 
thành một thống lĩnh quân sự lớn, như sự 
quyết đoán, sức mạnh tinh thần, khả năng tập 
trung trí tuệ và hành động, trí thông minh, tất 
cả đều có ở tướng Giáp – một thống soái vĩ 
đại”[1, tr.10]. Chúng tôi xin lấy nhận đ nh đó 
của Wesmoreland để kết luận về cách nhìn 
của người Mĩ về Đại tướng Võ Nguyên Giáp 
– anh hùng của thế kỉ XX. 
“Võ Nguyên Giáp - Điện Biên Phủ” 
cụm từ gây chấn động đ a cầu và tác động 
mạnh mẽ đến phong trào giải phóng dân 
tộc ở khắp các nước Á – Phi – Mĩ Latinh. 
Chiến thắng Điện Biên Phủ là bản anh 
hùng ca bất hủ của thời đại. Chiến thắng vĩ 
đại đó gắn liền với sự lãnh đạo tài tình của 
Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Do đó, Điện 
Biên Phủ - Võ Nguyên Giáp đã tạo nên 
một sự kính trọng cho toàn thể nhân loại. 
Trong đó, người Mĩ cũng đã dành một sự 
trân trọng và khâm phục đáng kể đối với v 
tướng tài ba của Việt Nam. Chúng tôi xin 
lấy đánh giá của Chủ t ch Đảng cộng sản 
Mĩ đăng trên Báo Công nhân Mĩ ngày 10-
5-1954 để nói lên ý nghĩa của chiến thắng 
Điện Biên Phủ 1954: “Thất bại tại Điện 
Biên Phủ không chỉ là thất bại thảm hại của 
Pháp mà trước hết là thất bại lớn lao của 
kế hoạch chiến tranh xâm lược của đế quốc 
Mĩ Giải phóng Điện Biên Phủ là thắng 
lợi trọng yếu trong sự nghiệp đấu tranh cho 
tự do và hoà bình thế giới”[10, tr.84-85]. 
Nhân d p kỉ niệm 60 năm chiến thắng Điện 
Biên Phủ, xin dâng lên anh linh của Đại 
tướng và những người anh hùng dân tộc đã 
hi sinh xương máu cho hòa bình, độc lập 
dân tộc tấm lòng tri ân sâu sắc nhất. 
Chú thích: 
1RAND: Reserch and Development, 
một công ty nghiên cứu chiến lược thuộc 
Bộ Quốc phòng Mĩ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Thái Bình (2013), Võ Nguyên Giáp hào khí trăm năm, Nxb Trẻ, Hà Nội. 
2. Cecil B. Currey (2013), Chiến thắng bằng mọi giá – Thiên tài quân sự Việt Nam: 
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Sự d ch, NxbThế Giới, Hà Nội. 
3. Georges Boudarel (2012), Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Sự d ch, Nxb Thế Giới, 
Hà Nội. 
4. Lê Phụng Hoàng (2008), L ch sử Quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á từ sau chiến tranh 
thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh (1945 – 1991), Nxb Đại học Sư phạm 
TP.HCM. 
 74 
5. Phan Văn Hoàng, (2004), Việt Nam trong chính sách của Mĩ từ 1940 đến 1956, Luận 
án Tiến sĩ l ch sử, Trường ĐHSP. TPHCM. 
6. Michael Macear (1989), Việt Nam cuộc chiến mười ngàn ngày: Hồ sơ mới về Điện 
Biên Phủ, Nxb Thông Tin, HN. 
7. Neil Sheehan (1971), The Pentagon Papers as Published by the New York 
Times.New York: Bantam Books, 1971. 
8. Đỗ Thiện, Đinh Kim Khánh (1984), Tiếng sấm Điện Biên Phủ, Nxb Quân đội Nhân 
dân, Hà Nội. 
9. Trần Trọng Trung (1986), Một cuộc chiến tranh sáu đời tổng thống, tập 1, 
Nxb Văn Nghệ, TP.HCM. 
10. Việt Nam-Điện Biên Phủ: Bản anh hùng ca của thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội 1984. 
11. William J.Duiker (1994), U.S. Containment Policy and the Conflict in Indochina, 
Standford University Press, Standford California. 
12. Chiến thắng Điện Biên Phủ dưới góc nhìn báo chí quốc tế,Thứ tư, 08/05/2013, 
Nguồn: 
quoc-te.html 
13. Lê Cường (theo BBC, AP, AFP), John McCain: Tướng Võ Nguyên Giáp và chúng 
tôi là "kẻ thù danh dự", Nguồn: 
McCain-Tuong-Vo-Nguyen-Giap-va-chung-toi-la-ke-thu-danh-du/319481.gd. 
14. Phạm Khánh - Minh Thu - Tùng Lâm - Phan Sương (Infonet), Những tướng bại trận 
dưới tay Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nguồn: 
tran-duoi-tay-dai-tuong-vo-nguyen-giap.html 
15. Ngọc Sơn (theo CNN), Điện Biên Phủ - trận đánh làm thay đổi l ch sử Việt Nam, 
Việt Báo, Nguồn: 
lich-su-Viet-Nam/10861065/162/, Thứ tư, 05 Tháng năm 2004. 
16. Thanh Tùng, Độc giả thế giới kính phục, tiếc thương Đại tướng Võ Nguyên Giáp. 
Nguồn:
tuong-vo-nguyen-giap-787080.htm 
17. TTXVN, Dư luận thế giới về việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần. Nguồn: 
tran-786960.htm 
* Ngày nhận bài: 21/3/2014. Biên tập xong: 15/5/2014. Duyệt đăng: 22/5/2014 

File đính kèm:

  • pdfdien_bien_phu_va_dai_tuong_vo_nguyen_giap_duoi_cach_nhin_cua.pdf