Dịch vụ thư viện: Kinh nghiệm về hỗ trợ khai thác và phát triển tài nguyên thông tin

rong số các chức năng, nhiệm vụ

được giao cho Viện Thông tin Khoa học

Xã hội, có "Nghiên cứu những vấn đề lý

luận và thực tiễn công tác thông tin - thư

viện; ứng dụng các công nghệ thông tin

tiên tiến trong việc tổ chức, phát triển các

nguồn lực thông tin, lưu trữ, tra cứu và

dịch vụ thông tin thư viện". Chiến lược

phát triển Viện Thông tin Khoa học Xã hội

giai đoạn đến 2010 xác định “xây dựng

một thư viện hiện đại về khoa học xã hội

và nhân văn, ứng dụng các thành tựu của

công nghệ thông tin hiện đại và đa dạng

hoá các dịch vụ thông tin”3 (V. T. nhấn

mạnh).

Nằm trong h ệ thống các Thư viện

thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam,

Trung tâm Thông tin – Tư liệu – Thư viện

mới ra đời theo Quyết định số 231/QĐ-

HVKHXH ngày 18/4/2011 của Giám đốc

Học viện Khoa học Xã hội. Một trong các

nhiệm vụ chính của Trung tâm này được

xác định là “Tổ chức phục vụ, hướng dẫn

bạn đọc tìm kiếm, khai thác và sử dụng

hiệu quả nguồn tài liệu và các sản phẩm

dịch vụ Thông tin – Tư liệu – Thư viện

thông qua các hình thức phục vụ của

Trung tâm phù hợp với quy định của Học

viện” (V. T. nhấn mạnh).

pdf 7 trang kimcuc 5740
Bạn đang xem tài liệu "Dịch vụ thư viện: Kinh nghiệm về hỗ trợ khai thác và phát triển tài nguyên thông tin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dịch vụ thư viện: Kinh nghiệm về hỗ trợ khai thác và phát triển tài nguyên thông tin

Dịch vụ thư viện: Kinh nghiệm về hỗ trợ khai thác và phát triển tài nguyên thông tin
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 5/2012 
32 
1. Dịch vụ là một nội dung hoạt 
động của thư viện 
Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 
6/8/2002 của Chính phủ đã quy định chi 
tiết thi hành Pháp lệnh thư viện. Trong số 
"Các hoạt động do thư viện tổ chức" được 
quy định ở điều 11, chương III, có "Hoạt 
động tuyên truyền, giới thiệu về thư viện, 
tài liệu và các dịch vụ thư viện nhằm thu 
hút người đọc tới sử dụng thư viên" (V. T. 
nhấn mạnh).1 
Sau đó, Nghị định số 159/NĐ-CP 
ngày 31/8/2004 của Chính phủ về hoạt 
động thông tin khoa học và công nghệ, tại 
điều 3 đã quy định "Nội dung hoạt động 
thông tin khoa học và công nghệ". có ghi 
rõ ở mục 3 là "Cung cấp các sản phẩm 
1 Bộ Văn hoá - Thông tin, Vụ Thư viện .- Về công 
tác thư viên - Các văn bản pháp quy hiện hành về 
thư viên. H., 2002, tr. 48 và 46. 
dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ 
trên cơ sở hợp đồng dịch vụ với các tổ 
chức, cá nhân" (V. T. nhấn mạnh)2. 
Trước đó, Pháp lệnh Phí và Lệ phí 
ngày 28/8/2001 của Uỷ ban Thường vụ 
Quốc hội đã được Nghị định 57/NĐ-CP 
ngày 3/6/2002 của Chính phủ quy định chi 
tiết thi hành. Và (cũng) căn cứ vào Pháp 
lệnh lưu trữ quốc gia ngày 4/4/2001 của 
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Tài chính 
đã ra Thông tư số 30/TT-BTC, ngày 
7/4/2004 "Hướng dẫn chế độ thu, nộp, 
quản lý, sử dụng phí khai thác và sử dụng 
tài liệu lưu trữ", theo đó, Nhà nước cho 
phép các cơ quan thông tin thư viện được 
sử dụng 90% số tiền thu được tăng cường 
cho hoạt động của mình. Ngày 18/1/2005, 
Bộ Tài chính cũng đã có Quyết định 
05/QĐ-BTC về "Quy định mức thu, nộp, 
2 Tc Thông tin KHXH, số 10/2004, tr. 4. 
DỊCH VỤ THƯ VIỆN: 
KINH NGHIỆM VỀ HỖ TRỢ 
KHAI THÁC VÀ PHÁT TRIỂN
TÀI NGUYÊN THÔNG TIN
PGS. TS. VƯƠNG TOÀN 
Nguyên Phó viện trưởng 
Viện Thông tin Khoa học Xã hội 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 5/2012 
33 
quản lý và sử dụng phí thư viện áp dụng 
tại Thư viện Quốc gia Việt Nam”. Đó là 
những hành lang pháp lý cho phép hoạt 
động dịch vụ thông tin thư viện triển khai 
thuận lợi. 
Trong số các chức năng, nhiệm vụ 
được giao cho Viện Thông tin Khoa học 
Xã hội, có "Nghiên cứu những vấn đề lý 
luận và thực tiễn công tác thông tin - thư 
viện; ứng dụng các công nghệ thông tin 
tiên tiến trong việc tổ chức, phát triển các 
nguồn lực thông tin, lưu trữ, tra cứu và 
dịch vụ thông tin thư viện". Chiến lược 
phát triển Viện Thông tin Khoa học Xã hội 
giai đoạn đến 2010 xác định “xây dựng 
một thư viện hiện đại về khoa học xã hội 
và nhân văn, ứng dụng các thành tựu của 
công nghệ thông tin hiện đại và đa dạng 
hoá các dịch vụ thông tin”3 (V. T. nhấn 
mạnh). 
Nằm trong hệ thống các Thư viện 
thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 
Trung tâm Thông tin – Tư liệu – Thư viện 
mới ra đời theo Quyết định số 231/QĐ-
HVKHXH ngày 18/4/2011 của Giám đốc 
Học viện Khoa học Xã hội. Một trong các 
nhiệm vụ chính của Trung tâm này được 
xác định là “Tổ chức phục vụ, hướng dẫn 
bạn đọc tìm kiếm, khai thác và sử dụng 
hiệu quả nguồn tài liệu và các sản phẩm 
dịch vụ Thông tin – Tư liệu – Thư viện 
thông qua các hình thức phục vụ của 
Trung tâm phù hợp với quy định của Học 
viện” (V. T. nhấn mạnh). 
Như thế, dịch vụ thông tin thư viện 
nằm trong số các nội dung hoạt động đã 
được xác định và kinh nghiệm cho thấy 
cần được triển khai mạnh để ngày càng 
3 Thư viện khoa học xã hội. Hà Nội, Nxb Khoa học 
xã hội, 2011, tr. 216. 
thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của người dùng 
tin (NDT) trong xã hội tri thác. 
2. Hai hình thức dịch vụ thông tin 
thư viện 
Thư viện có thể có hai hình thức 
dịch vụ cơ bản, đó là hỗ trợ khai thác 
(dành cho NDT) và hỗ trợ phát triển tài 
nguyên thông tin (dành cho cả các tổ chức 
đồng nghiệp). 
2.1. Hỗ trợ khai thác tài nguyên 
thông tin là hoạt động giúp cho NDT dễ 
dàng tiếp cận chính xác và nhanh chóng 
với thông tin cần khai thác để thông tin 
được sử dụng có hiệu quả. Điều này đặc 
biệt có ý nghĩa đối với những người mới 
đến thư viện lần đầu (có thể là thư viện 
mới lạ). 
Từ việc bạn đọc được hướng dẫn 
cách thức và những nới có thể tìm tài liệu 
cần cho mình - ngay từ khi thư viện còn 
hoạt động phương thức cổ truyền, nay 
NDT còn được chỉ dẫn cách tra cứu cơ sở 
dữ liệu tại thư viện, để có thể tìm được 
thông tin mong muốn nhanh nhất và đầy 
đủ nhất. 
Những chỉ dẫn khai thác có thể 
niêm yết công khai, song với NDT chưa 
quen sử dụng máy tính - thường là người 
cao tuổi, cũng nên có nhân viên thư viện 
hỗ trợ "khách hàng" những khi cần thiết. 
Không chỉ do khoảng cách về địa lý 
mà do thiếu tính chuyên nghiệp nên nhiều 
khi NDT cần đến dịch vụ tìm kiếm, khai 
thác và chuyển giao. Trong những hoàn 
cảnh này, việc sử dụng dịch vụ thư viện 
(nếu có) còn tiết kiệm và hiệu quả hơn tự 
mình khai thác. 
Có thể dẫn trường hợp sau làm ví 
dụ: Một nhà máy nọ chuẩn bị cho lễ kỷ 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 5/2012 
34 
niệm 100 năm hoạt động. Nhiều nhân viên 
được phái đi các thư viện lớn ở thành phố 
để lần tìm những tư liệu về cái thưở ban 
đầu song thất bại (vì không mang được gì 
về cả!). Sau khi được gợi ý, Giám đốc nhà 
máy nọ đã ký hợp đồng với một nhóm thủ 
thư. Bằng những kỹ năng có nghiệp vụ, 
một tập hợp hàng trăm tư liệu (với hàng 
ngàn trang) về hoạt động vào khoảng 
những năm đầu thế kỷ XX– kể cả những 
hình ảnh về người thầu khoán đầu tiên của 
nhà máy này - đã được lập thành thư mục 
rồi trích sao chuyển giao, góp phần viết lại 
lịch sử nhà máy ra đời. 
Sự "cởi mở" của thư viện đối với 
NDT là rất cần thiết, để tránh cho NDT bớt 
đi sự ngại ngùng - lúng túng khiến mất 
thời gian, bởi ý nghĩ đã cũ là đến thư viện 
thì phải "nhờ vả"(!). Hoặc NDT không 
trình bày hết được nhu cầu thông tin của 
mình thì việc đáp ứng nhu cầu này có thể 
còn thiếu hoặc chưa trúng! 
Thư viện phục vụ cho số đông 
nhưng dối tượng của dịch vụ là nhu cầu cá 
nhân NDT. Vì thế, tại Trung tâm Thông 
tin Hoa Kỳ ở Hà Nội có Thư viện ảo. Bạn 
đọc có thể đăng ký để được quyền khai 
thác miễn phí Thư viện này. Tuy nhiên 
NDT lại không được trao tài khoản 
(account) hay mật lệnh (pass word) của 
mình cho người khác cũng như việc khai 
thác tài liệu giúp người khác, chẳng hạn 
như giáo viên không được khai thác tài 
liệu cho học sinh của mình, bởi mỗi người 
đều có quyền trực tiếp đăng ký cho bản 
thân mình. Như thế, thư viện có thể nắm 
chắc về NDT mà mình đã phục vụ. 
2.2. Hỗ trợ phát triển tài nguyên 
thông tin là góp phần tích cực làm giàu 
thêm kho tài nguyên thông tin của NDT cá 
nhân. Hoạt động này cũng có thể dành cho 
cả các tổ chức đồng nghiệp (thư viện) 
thông qua việc chia sẻ thông tin vô điều 
kiện hay có điều kiện (như thu phí chuyển 
giao). 
Thông tin được chia sẻ không chỉ là 
những bản sao chụp toàn văn mà có thể là 
danh mục, cũng có thể là cơ sở dữ liệu thư 
mục hay toàn văn. 
Những chi phí cần thiết cho việc 
ghi nhận, tìm kiếm và chuyển giao tài 
nguyên thông tin, trong đó có quyền khai 
thác là hoàn toàn hợp lý. 
NDT cũng có quyền “đặt hàng” với 
thư viện về những sản phẩm thông tin đáp 
ứng cho nhu cầu khai thác của mình như 
chất lượng (sao chụp,), giới hạn số 
lượng, nội dung thông tin (lĩnh vực, thời 
điểm,), kể cả công lao tìm kiếm và tập 
hợp thông tin, không phải lúc nào cũng dễ 
dàng. 
Thí dụ như có trường nọ luôn tự 
hào về truyền thống quá nửa thế kỷ của 
mình, thế nhưng các bậc thầy đang còn 
sống lại không ai chịu ai về cái ngày chính 
xác thành lập trường (để lấy làm ngày kỷ 
niệm truyền thống). Đã cử nhiều người lần 
tìm nhưng vẫn đành chịu. Thế rồi, khi nhờ 
được một thủ thư có kinh nghiệm, văn bản 
ghi Quyết định thành lập trường này đã 
được tìm thấy. Vậy dịch vụ này đáng bao 
nhiêu tiền khi bản sao chụp chỉ hết 200 
VND (thời giá khi đó cho 2 trang sao 
chụp)! 
Quản lý tri thức và đáp ứng các nhu 
cầu đa dạng của NDT không những không 
thể mâu thuẫn mà phải gắn kết với nhau 
trong nhiệm vụ chức năng của một thư 
viện hiện đại. 
Vào mùa hoàn thành khóa học, ở 
những nơi gần các cơ sở đào tạo lớn 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 5/2012 
35 
thường rộ lên dịch vụ sao chép luận văn 
tốt nghiệp, báo cáo và cả đồ án thực 
tậpvà dường như là môn nào, ngành gì 
cũng có 
Báo chí đã lên án cách làm ăn 
này Song theo tôi, mới chỉ đúng một 
phần! Vấn đề đặt ra là cần tìm nguyên 
nhân sâu xa để có được những giải pháp 
hữu hiệu. Đó là do trong nền kinh tế thị 
trường, dù là theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa, có cầu ắt có cung. Nhu cầu tìm hiểu 
tất cả những gì người đi trước đã làm luôn 
là một yêu cầu buộc người học phải biết để 
kế thừa có phê phán và sáng tạo. 
Sự việc trên cho thấy nhu cầu thông 
tin về các "sản phẩm trí tuệ" đã ra đời - dù 
ở trình độ nào - vẫn rất cần được tham 
khảo, để rồi "chế biến" thành sản phẩm 
mới, trình "làng" thày cô. Và thế là chúng 
ta đã chứng kiến sự tự phát nảy sinh dịch 
vụ xã hội đáp ứng nhu cầu này. 
Thư viện ở các cơ sở đào tạo đại 
học và trên đại học có nơi còn bỏ qua nhu 
cầu này của sinh viên, học viên và nghiên 
cứu sinh là một trở ngai đối với họ, Ngược 
lại, nếu biết cách đáp ứng nhu cầu này thì 
đây chính là một hoạt động dịch vụ có thể 
tăng thêm nguồn thu cho thư viện. 
Đừng lo người học sẽ chỉ sao chép 
luận án, luận văn và khóa luận bởi trách 
nhiệm đánh giá không thuộc người làm 
công tác thư viện, mà thuộc các Hội đồng 
đánh giá (ở bậc tiến sĩ là hai cấp, chưa kể 
phản biện độc lập). 
Nếu quí vị ở các Hội đồng chấm thi 
không có điều kiện theo dõi thông tin và 
cập nhật thông tin thì cũng có thể không 
phân biệt được trường hợp bị học trò “vượt 
mặt” làm liều với trường hợp học trò đã 
sáng tạo, nhưng ngẫu nhiên trùng với 
người đi trước. Và ở trờng hợp thứ hai 
này, trách nhiệm không chỉ thuộc về phía 
người học. 
Để xã hội hoá giáo dục, Nhà nước 
ta rộng mở cho phép nhiều cơ sở cùng đào 
tạo một chuyên ngành - không thể nào 
khác - thì việc thông tin các "sản phẩm trí 
tuệ" càng cần được chú trọng và cập nhật. 
Đáng tiếc là cho đến nay, có thư 
viện đại học gần như vẫn ở tình trạng 
"đóng cửa" - sinh viên khó tiếp cận, có khi 
còn do thái độ của người phục vụ chưa cởi 
mở đối với lớp học trò - hay đúng hơn là 
chưa chú trọng đúng mức đến nhu cầu này 
của NDT. Được biết những khóa luận tốt 
nghiệp thường chỉ được lưu ở thư viên 
khoa. Sinh viên có thể đọc chứ không 
được phép sao chụp! 
Và thế là thị trường tự do đã nắm 
bắt được nhu cầu này. Không phải là thư 
viện, nhưng một số cửa hàng đánh vi tính 
và sao chụp đã tìm mọi cách "tích hợp" 
cho mình, hình thành những "cơ sở dữ 
liệu" đủ loại, đủ cỡ, cốt để phục vụ nhu 
cầu tham khảo của "thượng đế" người học, 
và - đương nhiên - cũng để thu được tiền 
từ dịch vụ này. 
Tuy giá cả là có phần tuỳ tiện 
nhưng nói chung là "mềm", đến mức chấp 
nhận được, bởi có sự điều tiết của "thị 
trường", vả lại túi của sinh viên cũng 
"mỏng", nhất là họ đâu phải trả tiền bản 
quyền cho các văn bản được họ sao để 
tham khảo. 
Còn nhớ dư luận báo chí có hồi phê 
phán một cô giáo nọ lấy luận văn của sinh 
viên trình làm sản phẩm đề tài khoa học 
của mình. Cũng có người bênh cô rằng có 
nhiều nhặn gì đâu, chỉ có vài triệu đồng - 
đối với cô thật không lớn, chẳng qua vì cô 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 5/2012 
36 
giáo ấy quá bận, không có thời gian làm 
mà lại sợ hết thời hạn, đành "mượn" để 
báo cáo cấp trên, cốt khỏi bị trừ điểm thời 
gian chỉ tiêu dành cho nghiên cứu khoa 
học  chứ khả năng cô ấy thừa sức viết 
một công trình như thếChẳng qua Hội 
đồng nghiệm thu nọ đã không biết có một 
luận văn như thế được thực hiện ở ngay 
trường mình! 
Một lần nữa, ở đây chúng ta lại 
nhận thấy vai trò và trách nhiệm của các 
hội đồng đánh giá (có những thành viên 
chỉ mang tính đại diện chứ không phải là 
người am hiêu về lĩnh vực mình được giao 
trách nhiệm xem xét và thẩm định). 
Với tư cách là người làm công tác 
thông tin khoa học, đã có lần chúng tôi nói 
đến trách nhiệm xã hội của các cơ sở thông 
tin - tư liệu - thư viện khoa học đối với nhu 
cầu tham khảo rất chính đáng này của 
hàng ngàn lượt người mỗi năm khi bước 
vào nghiên cứu. Thiết nghĩ rằng không 
những họ cần được chỉ dẫn cặn kẽ và chu 
đáo, mà còn được quyền nhận cung cấp dễ 
dàng mọi thông tin cần thiết về các "sản 
phẩm trí tuệ" của những người đi trước, 
bằng những bản sao chụp từng phần hay 
qua các cơ sở dữ liệu có thể khai thác tại 
chỗ hay trên mạng. Lẽ dĩ nhiên, dịch vụ 
này được thực hiện theo chế độ phí và lệ 
phí của Nhà nước ta ban hành. 
Và nhờ đó, thông tin khoa học đã 
có thể đóng góp một phần cho khoa học 
phát triển chứ không phải "dậm chân tại 
chỗ" chỉ vì không biết đến những "sản 
phẩm trí tuệ" trước đó nên đã "sáng tạo" 
trùng. 
Cũng phải nói rõ thêm về vấn đề 
bản quyền khi tiến hành sao chụp tác phẩm 
tại các thư viện, Q. Cục trưởng Cục bản 
quyền Tác giả (Bộ VH và Thông tin) đã 
từng chỉ rõ: 
"Theo các quy định pháp luật về 
quyền tác giả, việc sao chép tác phẩm (làm 
các bản sao tác phẩm) thuộc quyền của 
chủ sở hữu tác phẩm. Nhưng pháp luật 
cũng cho phep làm bản sao để phục vụ nhu 
cầu cá nhân Vì vậy, các thư viện cần 
quan tâm đến việc sao chụp tài liệu cho 
độc giả. Nếu sao chụp vì mục đích kinh 
doanh thì chủ sở hữu tác phẩm được 
hưởng lợi trên số tiền bán bản sao. 
"Tại thư viện, nếu có hoạt động 
cho thuê tác phẩm thì thư viện phải thực 
hiện nghĩa vụ đối với chủ sở hữu tác 
phẩm, vì hoạt động cho thuê là hoạt động 
sinh lợi, chủ sở hữu tác phẩm có quyền 
được hưởng quyền lợi vật chất từ hoạt 
động cho thuê đó" 4. 
2.3. Phát triển tài nguyên thông tin 
cho một thư viện được kết hợp và phối hợp 
chặt chẽ với việc tổ chức giới thiệu, quảng 
bá khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng (tiếp 
cận các kho tài liệu và truy nhập các kho 
thông tin) ngày được nâng cao về mọi mặt. 
Như thế, việc tạo lập nguồn tin, kể 
cả các hoạt động sản xuất thông tin phải 
tuân thủ quy luật cung cầu của nền kinh tế 
thị trường theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa. Nói cách khác là tài nguyên thông 
tin của thư viện này và các sản phẩm xử lý 
thông tin của thư viện phải đáp ứng nhu 
cầu đa dạng của giới nghiên cứu trong và 
ngoài nước. 
4 Vũ Mạnh Chu.- Một số vấn đề về quyền tác giả 
trong hoạt động xuất bản và thư viện. In trong: 
"Mối quan hệ giữa ngành xuất bản và ngành thư 
viện trong cơ chế thị trường định hướng XHCN ở 
VN". H., Vụ Thư viện -Cuc Xuất bản, 2003, tr. 54. 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 5/2012 
37 
Chia sẻ thông tin không làm cho tài 
nguyên thông tin đang có nghèo đi mà trái 
lại, có khi lại là cơ hội để bổ sung và hoàn 
thiện vốn tư liệu của thư viện. 
Xin nêu hai ví dụ: 
Khoảng mươi năm về trước, được 
một giáo sư đầu ngành của Việt Nam chỉ 
dẫn, một nhà nghiên cứu nước ngoài đến 
một thư viện nọ xin được khai thác một 
(01) trong số 08 mảnh của một bản đồ đã 
rất cũ, để phục vụ cho luận án của mình sẽ 
bảo vệ tại Việt Nam. Dù nhà khoa học nọ 
có nhã ý sẽ tặng lại thư viện bản sao 07 
mảnh còn lại mà mình đã sưu tầm được, 
nếu cho phép sao chụp. Tiếc rằng theo quy 
định của thư viện nọ, do không được Giám 
đốc cho phép, học giả nọ chỉ được quyền 
đọc và ghi chép tại chỗ. Thế rồi công trình 
của nhà nghiên cứu vẫn hoàn thành và 
được xuất bản, Nhưng thư viện nọ đã mất 
cơ hội bổ sung để có một bản đồ (quý) 
hoàn chỉnh. 
Gần đây, có một giáo sư cũng đến 
thư viện này tìm kiếm một tài liệu được 
xuất bản trước năm 1945. Được thủ thư 
cung cấp cho bản sao mấy trang tư liệu 
đang cần, ông không do dự mà chủ động 
sao tặng luôn thư viện những trang tài liệu 
này thư viện đã để mất, mà chính ông đã 
có. Thế là cả thư viện và NDT đều có một 
văn bản hoàn chỉnh. 
 Tuy nhiên, dịch vụ thư viện không 
phải chỉ dừng ở sao chụp tài liệu, chỉ dẫn 
thư mục và phân phối, gửi, biếu thông tin 
theo yêu cầu của bạn đọc - đến khai thác 
trực tiếp hoặc qua điện thoại, thư từ, thư 
điện tử- mà còn phải tính đến khả năng 
và chế độ cho phép người dùng tin có điều 
kiện thuận lợi truy cập - miễn phí hay có 
thu phí - dễ dàng vào những kho thông tin 
đang xây dựng và được lưu trữ tại thư 
viện. Dịch vụ truyền thống sẽ được kết 
hợp với dịch vụ hiện đại. Dịch vụ trực tiếp 
sẽ được hiện đại hoá bằng dịch vụ trực 
tuyến. 
.3. Kết luận 
Các kho tri thức cần được bảo quản 
chu đáo và quản lý chặt chẽ, song chúng 
lại cần để những người có nhu cầu sử dụng 
(chính đáng) có khả năng tiếp cận dễ dàng, 
kể cả các tài liệu quý hiếm (khác với 
những tài liệu thuộc bí mật quốc gia). Tài 
nguyên thông tin luôn cần được chia sẻ. 
Do vậy, thư viện cần có chương 
trình - và dành kinh phí xứng đáng - cho 
việc giới thiệu nội dụng của vốn tài liệu 
được thư viện lưu giữ, qua nhiều phương 
tiện thông tin khác nhau, để chúng được 
nhiều người biết và có thể khai thác. Có 
thể coi đó như hoạt động marketing trong 
lĩnh vực này (và rất có thể đem lại nguồn 
thu nhập đáng kể mà phân minh, nếu được 
quản lý tốt). Nếu không, dù thư viện có tự 
hào với hàng triệu đơn vị tài liệu, có loại 
được lưu giữ qua nhiều thế kỷ, thì cũng sẽ 
chỉ là cái kho tri thức khổng lồ được giữ 
khư khư nhưng vô dụng, chưa nói đến việc 
những chi phí tốn kém cho bảo quản - nhất 
là khi được hiện đại hoá - thì việc lưu trữ 
cũng trở thành vô ích. 
Công cuộc đổi mới đã diễn ra gần 
ba mươi năm trên đất nước ta. Trong thị 
trường hàng hoá đã có thị trường dịch vụ, 
khi dịch vụ trở thành hàng hoá. Trong cơ 
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước 
thì quan hệ hàng hoá cũng không chỉ do 
người bán mà còn do người mua quyết 
định, mà ở đây là quan hệ giữa người cung 
cấp tin và NDT. 
Liệu có thể nghĩ tới một lúc nào đó 
thì NDT ở Việt Nam sẵn sàng chịu mọi phí 
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 5/2012 
38 
tổn (hợp lý) cho việc được cung cấp thông 
tin khoa học? 
Đó là khi các nhà khoa học đánh 
giá đúng mức sự đóng góp của thông tin 
vào hoạt động nghiên cứu của mình, nếu 
không cập nhật thì lạc hậu và có thể dẫn 
đến những sai lầm trong nhận xét và đánh 
giá - điều này sẽ tai hại cho xã hội khi 
chẳng may họ được mời vào các vị trí 
phản biện các cấp, nhất là cấp Nhà nước - 
và điều quan trong hơn nữa là các dịch vụ 
thư viện cần phát triển đa dạng, đủ sức đáp 
ứng - không chỉ về số lượng mà cả và quan 
trọng nhất là về chất lượng - những nhu 
cầu chính đáng có thực của NDT. 
Tháng 5 năm 2012 
THAM KHẢO 
1. Phùng Diệu Anh (2007).- Đa dạng hóa dịch vụ thông tin - tư liệu tại Viện Thông tin 
KHXH, luận văn ThS bảo vệ tại Viện Chiến lược Chính sách Khoa học và Công nghệ 
- Hà Nội. 
2. Nguyễn Lê Phương Hoài (2011). Một số vấn đề về chia sẻ thông tin giữa các thư viện 
thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Tc. Thông tin khoa học xã hội. số 9, tr. 41-45. 
3. Nguyễn Thuý Nga (2008).- Đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ thông tin – thư viện 
đáp ứng nhu cầu tin thời kỳ đổi mới tại Viện Thông tin KHXH, luận văn ThS bảo vệ 
tại Đại học Văn hoá Hà Nội. 
4. Vương Toàn (2001).- Hướng tới cùng chia sẻ nguồn lực thông tin khoa học xã hội. In 
trong “Kỷ yếu Hội thảo chuyên đề chia sẻ các nguồn lực thông tin”, do Đại học Quốc 
gia Hà Nội trong khuôn khổ dự án Giáo dục đại học (QIG), họp tại TP Hồ Chí Minh, 
tr. 21-24. 
5. Vương Toàn (2003).- Nghĩ về trỏch nhiệm xã hội của thông tin khoa học. Báo “Khoa 
học & Phát triển” số 26, tr. 14. 
6. Vương Toàn (2005).- Hướng tới đa dạng hóa dịch vụ thư viện ở Viện Thông tin Khoa 
học Xã hội. Trong "Thư viện - Công nghệ thông tin". Phụ trương bản tin Trường ĐH 
Khoa học Tư nhiên TP Hồ Chí Minh. Tháng 3, tr. 39-41.// 
www.glib.hcmuns.edu.vn/bantin/bt305/letter305.htm 
7. Vương Toàn (2005).- Đóng góp của hoạt đông thông tin - thư viện vào nâng cao chất 
lượng luận văn khoa học. Trong "Bản tin Thư viện - Công nghệ thông tin". Trường 
ĐH Khoa học Tư nhiên TP Hồ Chí Minh. Tháng 6, tr. 27-29. // 
www.glib.hcmuns.edu.vn/bantin/bt605/letter605.htm 

File đính kèm:

  • pdfdich_vu_thu_vien_kinh_nghiem_ve_ho_tro_khai_thac_va_phat_tri.pdf