Đề xuất một vài giải pháp về giảng dạy kiến thức văn hóa nhằm nâng cao chất lượng dạy - học tiếng Pháp (Ngoại ngữ 2) tại Học viện Khoa học quân sự
Văn hóa và ngôn ngữ là hai yếu tố không thể tách rời. Văn hoá là môi trường trong đó ngôn ngữ
được sử dụng theo các quy tắc ứng xử chung của một cộng đồng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một thành
tố quan trọng hàng đầu của văn hóa, là công cụ để ghi lại và biểu đạt văn hóa. Nói cách khác, ngôn
ngữ chứa đựng trong nó rất nhiều kiến thức văn hóa của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. Vì vậy,
trong giảng dạy ngôn ngữ, giảng dạy kiến thức văn hóa cần được chú trọng và quan tâm đúng mực.
Trên cơ sở đánh giá khái quát thực trạng giảng dạy kiến thức văn hóa trong quá trình giảng dạy tiếng
Pháp, bài báo tập trung đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy-học tiếng Pháp tại
Học viện Khoa học Quân sự thông qua giảng dạy kiến thức văn hóa.
Bạn đang xem tài liệu "Đề xuất một vài giải pháp về giảng dạy kiến thức văn hóa nhằm nâng cao chất lượng dạy - học tiếng Pháp (Ngoại ngữ 2) tại Học viện Khoa học quân sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất một vài giải pháp về giảng dạy kiến thức văn hóa nhằm nâng cao chất lượng dạy - học tiếng Pháp (Ngoại ngữ 2) tại Học viện Khoa học quân sự
64 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay, với xu thế hội nhập, quốc tế hóa diễn ra sâu rộng, dạy và học ngoại ngữ đang ngày càng trở nên cần thiết. Tuy nhiên, việc dạy-học ngoại ngữ trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay không chỉ đơn thuần là dạy-học về kiến thức ngôn ngữ hay các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết mà phải hướng tới rèn luyện năng lực giao tiếp hiệu quả, đặc biệt là khả năng giao tiếp ở những nền văn hóa khác nhau. Nói cách khác, dạy-học một ngôn ngữ không thể tách rời dạy-học văn hóa của đất nước sử dụng ngôn ngữ đó. Việc hiểu biết về văn hóa giúp người dạy cũng như học viên, sinh viên tiếp thu được ngôn ngữ một cách có hiệu quả bởi NGUYỄN THANH HÀ * *Học viện Khoa học Quân sự, ✉ minhmitbg@gmail.com Ngày nhận bài: 22/4/2018; ngày sửa chữa: 20/5/2018; ngày duyệt đăng: 22/5/2018 ĐỀ XUẤT MỘT VÀI GIẢI PHÁP VỀ GIẢNG DẠY KIẾN THỨC VĂN HÓA NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY-HỌC TIẾNG PHÁP (NGOẠI NGỮ 2) TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ TÓM TẮT Văn hóa và ngôn ngữ là hai yếu tố không thể tách rời. Văn hoá là môi trường trong đó ngôn ngữ được sử dụng theo các quy tắc ứng xử chung của một cộng đồng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một thành tố quan trọng hàng đầu của văn hóa, là công cụ để ghi lại và biểu đạt văn hóa. Nói cách khác, ngôn ngữ chứa đựng trong nó rất nhiều kiến thức văn hóa của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. Vì vậy, trong giảng dạy ngôn ngữ, giảng dạy kiến thức văn hóa cần được chú trọng và quan tâm đúng mực. Trên cơ sở đánh giá khái quát thực trạng giảng dạy kiến thức văn hóa trong quá trình giảng dạy tiếng Pháp, bài báo tập trung đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy-học tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự thông qua giảng dạy kiến thức văn hóa. Từ khóa: văn hóa, ngôn ngữ, giảng đạy văn hóa, giảng dạy ngôn ngữ nghĩa của một từ, nội dung lời thoại của bất kỳ ngôn ngữ nào cũng thay đổi theo ngữ cảnh, tình huống giao tiếp cụ thể. Ngược lại, ngôn ngữ cũng trợ giúp cho văn hóa được chuyển tải dễ dàng và phát triển đa dạng, phong phú hơn. Bàn về vai trò của văn hóa trong giảng dạy ngoại ngữ, nhà ngôn ngữ học người Mỹ, Winston Breambeck đã phát biểu: “Biết một ngôn ngữ nào đó mà không hiểu văn hóa của họ thì chính là cách tốt nhất để biến mình thành một kẻ ngốc nói ngoại ngữ trôi chảy”. Tuy nhiên, trong giảng dạy ngoại ngữ, dạy lồng ghép kiến thức văn hóa không phải lúc nào cũng được chú trọng. Thực tế trong quá trình giảng dạy tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự, chúng 65KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v tôi nhận thấy giảng viên chưa quan tâm đúng mực đến việc dạy kiến thức văn hóa cho học viên, sinh viên; nội dung kiến thức văn hóa chưa được đưa vào chương trình chi tiết môn học cũng như kế hoạch giảng bài của tổ bộ môn. Với mong muốn giảng viên, học viên, sinh viên sẽ có nhận thức đúng đắn hơn về tầm quan trọng của dạy-học kiến thức văn hóa trong dạy-học ngoại ngữ, đồng thời ứng dụng được những kiến thức này trong quá trình dạy-học của mình, trong bài viết này, chúng tôi xin được đề cập đến một số khái niệm về văn hóa; mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa; sự cần thiết phải dạy văn hóa trong lớp học ngoại ngữ; thực trạng giảng dạy văn hóa Pháp tại Học viện (trên cơ sở quan sát và phiếu khảo sát thực tế việc dạy-học của giảng viên và học viên); từ đó đề xuất một vài giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy-học tiếng Pháp thông qua giảng dạy kiến thức văn hóa. 2. KHÁI NIỆM VĂN HÓA “Văn hóa” là một từ cổ trong tiếng Pháp, xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XIII để chỉ một thửa đất được trồng trọt. Đầu thế kỷ XVIII, văn hóa chính thức được đưa vào Từ điển Hàn lâm Pháp (1718). Đến giữa thế kỷ XIX, cùng với sự phát triển của các khoa nhân loại học, xã hội học, dân tộc học, khái niệm văn hóa đã thay đổi, có nghĩa rộng như hiện nay. Người đầu tiên đưa ra định nghĩa mới về văn hóa là E.B. Tylor (1832- 1917), nhà nhân loại học đầu tiên của nước Anh. Ông nói:“Văn hóa là một tổng thể phức tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và cả những năng lực, thói quen khác mà con người chiếm lĩnh được với tư cáchmột thành viên của xã hội” (Tylor, 1871, tr.1). Sau Tylor, rất nhiều học giả khác cũng đã đưa ra định nghĩa về văn hóa tùy theo lĩnh vực nghiên cứu, góc độ đề cập và quan điểm của họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới thì cho rằng:“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” (Hồ Chí Minh, 1995). Nhà văn hóa học Việt Nam, Trần Ngọc Thêm (2004) cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con nguời sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. UNESCO (2002) đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”. Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Mỗi định nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Tuy nhiên, đa số các học giả đều cho rằng: “Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”. Chúng tôi dựa trên các định nghĩa đã nêu trên để xác định cho mình một khái niệm văn hóa phù hợp với nội dung nghiên cứu có liên quan đến ngôn ngữ và giao tiếp: Văn hóa được hiểu là những giá trị biểu hiện như trang phục, ngôn ngữ, ẩm thực và những giá trị ẩn như niềm tin, chuẩn mực đạo đức, tư duy và thái độ của một cộng đồng trong xã hội mà ở đó, các yếu tố giao thoa văn hóa chủ yếu nằm trong những khía cạnh ẩn, trừu tượng, tạo ra rào cản trong giao tiếp. 3. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA Từ định nghĩa trên về văn hóa, chúng ta có thể khẳng định mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa là “vô cùng chặt chẽ, tới mức mà ta không thể hiểu và đánh giá đúng được cái này nếu không có 66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY kiến thức về cái kia” (Sapir, 1991). Theo Brown (1996), ngôn ngữ là một phần của văn hóa và văn hóa là một phần của ngôn ngữ, cả hai đan xen nhau để cái nọ không tách khỏi cái kia mà không mất đi ý nghĩa của ngôn ngữ hay văn hóa. Emmit & Pollock (1997) có cùng quan điểm khi cho rằng, ngôn ngữ có nguồn gốc từ văn hóa và văn hóa được phản ánh và được chuyển tải bởi ngôn ngữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Allwringht Baily (1991) cho rằng, học một ngoại ngữ mới liên quan đến học một nền văn hóa mới. Và kết quả là: “Giảng viên ngoại ngữ cũng là giảng viên văn hóa” (Byram, 1992). Có thể nói, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa là mối quan hệ có tính tương tác qua lại, tác động hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Nói cách khác, ngôn ngữ là phương tiện chuyển tải mọi kiến thức, trong ý nghĩa đó ngôn ngữ là một phần của văn hóa và tư duy. Theo quan điểm của Wenying (1989), ngôn ngữ và văn hóa được chuyển tải thông qua các ẩn dụ sau: - Từ quan điểm triết học: Ngôn ngữ + Văn hóa => Cơ thể sống Thịt Máu Ngôn ngữ và văn hóa tạo thành cơ thể sống: ngôn ngữ là thịt và văn hóa là máu. Không có văn hóa, ngôn ngữ sẽ chết, không có ngôn ngữ, văn hóa sẽ không được hình thành - Từ quan điểm giao tiếp: Ngôn ngữ + Văn hóa => Bơi (giao tiếp) Kỹ năng bơi Nước Giao tiếp là bơi, ngôn ngữ là kỹ năng bơi và văn hóa là nước. Không có giao tiếp ngôn ngữ thì vẫn tồn tại một lượng nước nhỏ; không có văn hóa, sẽ không có giao tiếp. - Từ quan điểm ngữ dụng: Ngôn ngữ + Văn hóa => Giao thông (giao tiếp) Phương tiện Đèn giao thông Giao tiếp giống như giao thông: ngôn ngữ là phương tiện và văn hóa là đèn giao thông. Ngôn ngữ làm cho văn hóa dễ dàng hơn và nhanh hơn, văn hóa đôi khi thúc đẩy và đôi khi cản trở giao tiếp. Tóm lại, ngôn ngữ và văn hóa là mối quan hệ có tính phản ánh, văn hóa là nội dung và ngôn ngữ là phương tiện để mô phỏng nội dung đó. Từ quan điểm trên, có thể nhận thấy tầm quan trọng của kiến thức văn hóa trong giao tiếp là không thể phủ nhận. Giảng viên ngôn ngữ nên áp dụng phương pháp giao tiếp trong quá trình dạy và học, đồng thời bổ sung các tài liệu dạy có yếu tố văn hóa để cung cấp cho học viên những thông tin về ngôn ngữ xã hội. 4. SỰ CẦN THIẾT ĐƯA KIẾN THỨC VĂN HÓA VÀO CÁC GIỜ DẠY NGOẠI NGỮ Có thể nói rằng, việc học ngoại ngữ bao gồm nhiều yếu tố như hiểu biết ngữ pháp, năng lực giao tiếp, cũng như thái độ và nhận thức đối với văn hóa bản ngữ và văn hóa nước ngoài. Do đó, trong những năm gần đây, nhiều giảng viên ngoại ngữ đã nhận thức về tầm quan trọng của các yếu tố văn hóa, giao văn hóa trong giảng dạy ngôn ngữ. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Seelye (1993) đã khẳng định: “Khi bạn có sinh viên để dạy, hãy dạy họ về văn hóa”. Còn Kramsch (1993) đã nhấn mạnh trong nghiên cứu của mình rằng: “Văn hóa không phải là một kỹ năng thứ 5 trong giảng dạy ngôn ngữ, gắn liền với nghe, nói, đọc, viết. Đó là nền tảng để chỉ ra sự giới hạn trong năng lực giao tiếp, thách thức khả năng của học viên, sinh viên và chỉ ra cho họ thấy ý nghĩa của thế giới”. Bên cạnh đó, thực tế đã chỉ ra rằng kỹ năng giao tiếp bằng ngoại ngữ không chỉ đòi hỏi khả năng sử dụng ngôn ngữ thành thạo, đặc biệt trong nghe-nói, mà còn yêu cầu vốn sống, sự hiểu biết nhất định về đặc thù văn hóa. Quá trình giao tiếp bao gồm hai yếu tố: truyền thông tin và phân tích thông tin. Để truyền thông tin, con người sử dụng ngôn ngữ với nhiều ký hiệu khác nhau. Tuy nhiên, để phân tích thông tin, ta 67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v cần giải mã các ký hiệu đó để đạt mục đích cuối cùng là hiểu thông tin theo đúng nghĩa nó được truyền đi. Cả hai quá trình này đều liên quan đến văn hóa. Khi người nghe không hiểu văn hóa của người nói thì người nghe sẽ giải mã thông tin theo văn hóa của chính mình. Nếu nội dung thông tin ở hai nền văn hóa khác nhau, được hiểu khác nhau, quá trình giao tiếp coi như thất bại. Ví dụ, trong văn hóa Pháp, khi một người đàn ông gặp một người phụ nữ, anh ta sẽ chào “Bonjour” và ôm hôn vào má của người phụ nữ đó, nhưng trong văn hóa Việt Nam, nếu người đàn ông ôm hôn một người phụ nữ ở chốn đông người thì anh ta sẽ bị cho là khiếm nhã, bất lịch sự Hay khi làm quen, người Việt Nam có thể hỏi “Bạn bao nhiêu tuổi?”, “Bạn có gia đình chưa?”... nhưng với người Pháp và người phương Tây, đây lại là những câu hỏi mang tính chất riêng tư và nên tránh sử dụng trong quá trình giao tiếp. Từ những lý do trên, có thể khẳng định rằng, học viên, sinh viên ngoại ngữ nhất thiết phải được học về văn hóa và giao văn hóa. Đối với học viên, sinh viên tiếng Pháp, hiểu biết về văn hóa Pháp sẽ giúp họ hứng thú hơn trong quá trình học môn tiếng Pháp, từ đó hiệu suất học tập sẽ tốt hơn; đồng thời nâng cao năng lực giao tiếp, tránh được những “cú sốc văn hóa” do thiếu hiểu biết về văn hóa gây ra. 5. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY KIẾN THỨC VĂN HÓA TRONG CÁC GIỜ TIẾNG PHÁP (NGOẠI NGỮ 2) TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ 5.1. Chương trình đào tạo Môn tiếng Pháp (Ngoại ngữ 2) là môn học được giảng dạy trong 3 học kỳ (tương ứng với 3 học phần tiếng Pháp: Tiếng Pháp 1, Tiếng Pháp 2, Tiếng Pháp 3) cho học viên, sinh viên chuyên ngành tiếng Anh và tiếng Trung tại Học viện. Học viên học theo hình thức niên chế, thời lượng 100 tiết/học phần, tương ứng với 4 đơn vị học trình. Sinh viên học theo hình thức tín chỉ, thời lượng 125 tiết/học phần, tương ứng với 5 tín chỉ. Nội dung chương trình môn học được thiết kế nhằm trang bị cho học viên, sinh viên kiến thức tiếng Pháp cơ bản, phát triển đồng đều cả bốn kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết), làm cơ sở học tập và công tác sau này; giúp học viên, sinh viên hình thành cơ sở ngôn ngữ và các kỹ năng, bước đầu xây dựng kỹ năng giao tiếp cơ bản. Theo quy định về chuẩn đầu ra của Học viện Khoa học Quân sự, học viên, sinh viên sẽ phải đạt bậc 2 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam, tương đương với trình độ A2 theo Khung tham chiếu Châu Âu về ngôn ngữ (Cadre Européen commun de Référence pour les langues - CECRL). Sau khi kết thúc môn học, đối với môn ngoại ngữ 2 (tiếng Pháp), học viên, sinh viên phải đảm bảo cả bốn kỹ năng ở trình độ sơ cấp: Học viên, sinh viên có thể hiểu được các câu và cấu trúc thường xuyên được sử dụng liên quan đến nhu cầu giao tiếp hàng ngày, chẳng hạn như các thông tin về bản thân, gia đình, đi mua sắm, đặt phòng khách sạn, hỏi đường, việc làm...; có thể giao tiếp những chủ đề đơn giản, trao đổi thông tin về những vấn đề quen thuộc như: kể về các hoạt động trong ngày, kỳ nghỉ, cuộc sống nông thôn-thành thị, sức khỏe... 5.2. Giáo trình tài liệu Giáo trình chính đang được sử dụng giảng dạy tiếng Pháp (Ngoại ngữ 2) hiện nay là giáo trình Initial 1, 2 kèm đĩa CD và sách bài tập được biên soạn bởi tác giả Sylvie POISSON-QUINTON và Marina SALA, nhà xuất bản Clé International, năm 2001. Mỗi cuốn giáo trình gồm sáu chương, mỗi chương có bốn bài, cuối chương là phần tổng kết các kiến thức đã học. Mỗi bài học gồm hai tình huống giao tiếp thông dụng trong đời sống hàng ngày; phần kiến thức từ vựng, ngữ pháp và ngữ âm kết hợp với các hoạt động/bài tập thực hành trong giáo trình hoặc trong sách bài tập. Bên cạnh giáo trình chính, tổ bộ môn tiếng Pháp còn biên soạn các tài liệu bổ trợ như Bài tập từ vựng-ngữ pháp, Đọc hiểu tiếng Pháp, Viết tiếng Pháp, Nghe tiếng Pháp giúp học viên, sinh viên có thêm tài liệu luyện tập từ vựng, ngữ pháp cũng như các kỹ năng thực hành tiếng. Trên thư viện còn có thêm các giáo trình như Le Nouveau Taxi 1, 2; Festival 1, 2; Alter Ego 1, 2; Delf A1, A2... Nhìn chung, giáo 68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY trình, tài liệu tiếng Pháp đáp ứng được yêu cầu giảng dạy tiếng Pháp (Ngoại ngữ 2) tại Học viện. Tuy nhiên, giáo trình, tài liệu về văn hóa còn rất hạn chế. Một số giáo trình văn hóa vượt quá khả năng, trình độ của học viên, sinh viên học ngoại ngữ 2 nên không hữu ích với học viên, sinh viên. 5.3. Đội ngũ giảng viên Tổ bộ môn tiếng Pháp trực thuộc Khoa tiếng Pháp và tiếng các nước khác, hiện có 10 giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy, trong đó 01 giảng viên chính có trình độ tiến sĩ và 09 giảng viên có trình độ thạc sỹ. Đội ngũ giảng viên trong Tổ bộ môn được đào tạo cơ bản tại các trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Hà Nội; 05 đồng chí đã tham gia các khóa đào tạo tiếng Pháp và nghiệp vụ sư phạm ngắn hạn tại Cộng hòa Pháp và Vương quốc Bỉ. Đội ngũ giảng viên đều có kinh nghiệm giảng dạy tiếng Pháp lâu năm, có tinh t ... h đang dạy môn ngoại ngữ 2, không phải là môn chuyên ngành nên chưa tích cực, chủ động tự học, tự rèn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn; ít tìm tòi, nghiên cứu, đầu tư cho bài giảng, nhất là tìm tòi, nghiên cứu về các vấn đề văn hóa. Thiếu giáo trình, tài liệu về văn hóa Khó khăn tiếp theo của giảng viên liên quan đến giáo trình, tài liệu. 40% giảng viên được hỏi cho rằng, việc thiếu giáo trình, tài liệu về văn hóa là trở ngại tương đối lớn đối với họ trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa Pháp. Thực tế, giáo trình, tài liệu tiếng Pháp ở thư viện của Học viện chủ yếu là các giáo trình, tài liệu thực hành tiếng, rất ít giáo trình, tài liệu liên quan đến văn hóa. Chính vì điều này mà có đến 90% giảng viên được hỏi có đề xuất bổ sung thêm giáo trình, tài liệu tiếng Pháp và giáo trình, tài liệu về văn hóa Pháp vào thư viện Học viện. Không đưa kiến thức văn hóa vào các bài kiểm tra học trình và cuối học phần Đây cũng là một khó khăn đối với giảng viên. Điều này khiến giảng viên không quan tâm nhiều đến việc dạy lồng ghép kiến thức văn hóa trong các giờ ngoại ngữ. Trên thực tế, giảng viên thường nặng về dạy kiến thức ngôn ngữ. Đa số giảng viên chỉ cung cấp kiến thức văn hóa khi kiến thức đó xuất hiện trong giáo trình, tài liệu trong khi đây lại là một hạn chế của giáo trình Initial và các tài liệu bổ trợ. Bên cạnh đó, nếu có giới thiệu kiến thức văn hóa, giảng viên cũng chỉ giới thiệu sơ lược bằng tiếng Việt, ít có hình ảnh hoặc clip minh họa, do đó kiến thức văn hóa không sâu, không tạo được ấn tượng sâu sắc với học viên, sinh viên. 5.5.2. Khó khăn của học viên, sinh viên Thiếu kiến thức ngôn ngữ Trong số những khó khăn của học viên, sinh viên đã được điều tra, thống kê, đứng đầu là khó khăn về thiếu kiến thức ngôn ngữ (81%). Thật vậy, học viên, sinh viên đều là những học viên, sinh viên năm thứ 3, thứ 4 mới học tiếng Pháp chưa lâu nên lượng từ vựng của học viên, sinh viên có rất ít, học viên, sinh viên không thể tự mình nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề văn hóa Pháp nếu không có sự trợ giúp từ phía giảng viên. Bên cạnh đó, các chủ đề trong giáo trình chính Initial 1, 2 đang được giảng dạy chủ yếu là những chủ đề giao tiếp hàng ngày, ít đề cập đến những vấn đề văn hóa. Do đó, học viên, sinh viên đang bị thiếu hụt một lượng lớn kiến thức và từ vựng liên quan đến mảng văn hóa Pháp. Thiếu kiến thức chung về văn hóa và thiếu kiến thức về văn hóa Pháp Đây là những khó khăn tiếp theo của học viên, sinh viên với tỷ lệ phần trăm tương ứng là 44% và 65%. Tỷ lệ này tương đối phù hợp với tỷ lệ của giảng viên khi đưa ra khó khăn là học viên, sinh viên thiếu kiến thức văn hóa chung và thiếu kiến thức văn hóa Pháp. Việc thiếu kiến thức văn hóa này gây trở ngại lớn cho học viên, sinh viên trong quá trình tìm hiểu các thông tin liên quan đến đất nước, con người và văn hóa Pháp. Với học viên, sinh viên học viên, cuộc sống, sinh hoạt hầu như diễn ra trong doanh trại quân đội, ít có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài thì những hiểu biết của học viên, sinh viên về văn hóa chung và văn hóa Pháp càng hạn chế. Kiến thức văn hóa chưa được đưa vào kiểm tra, đánh giá Đứng thứ tư trong danh sách những khó khăn của học viên, sinh viên với 44% lựa chọn là Kiến thức văn hóa chưa được đưa vào kiểm tra, đánh giá. Tỷ lệ này cũng tương đương với đánh giá của 70 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY giảng viên về nội dung này (50%). Thông thường, với học viên, sinh viên, khi giảng viên không đưa một nội dung nào đó vào kiểm tra đánh giá thì họ cũng sẽ không quan tâm, không coi trọng nội dung đó. Điều này lý giải tại sao tỷ lệ thiếu kiến thức văn hóa chung và văn hóa Pháp ở học viên, sinh viên cao như chúng ta vừa phân tích ở trên. Thiếu tài liệu tham khảo liên quan đến văn hóa Một khó khăn nữa của học viên, sinh viên với tỷ lệ lựa chọn tương đối cao (42%) là khó khăn về thiếu tài liệu tham khảo liên quan đến văn hóa. Như đã nói ở trên, giáo trình, tài liệu tiếng Pháp trong thư viện chủ yếu là giáo trình, tài liệu thực hành tiếng, rất ít giáo trình, tài liệu liên quan đến văn hóa để học viên, sinh viên có thể nghiên cứu. Một số giáo trình, tài liệu văn hóa vượt quá trình độ ngôn ngữ của học viên, sinh viên ngoại ngữ 2 nên không hữu ích đối với các em. Do đó, bổ sung thêm vào thư viện những giáo trình, tài liệu về văn hóa phù hợp với đối tượng học tiếng Pháp (Ngoại ngữ 2) là hết sức cần thiết. 6. MỘT VÀI GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY-HỌC TIẾNG PHÁP (NGOẠI NGỮ 2) THÔNG QUA GIẢNG DẠY KIẾN THỨC VĂN HÓA Xuất phát từ thực trạng và khó khăn của giảng viên, học viên, sinh viên về dạy-học kiến thức văn hóa trong quá trình dạy-học ngoại ngữ, chúng tôi xin được đề xuất một vài giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy-học tiếng Pháp tại Học viện thông qua giảng dạy kiến thức văn hóa. 6.1. Tăng cường dạy lồng ghép kiến thức văn hóa trong các giờ tiếng Pháp Như đã nói ở trên, văn hóa và ngôn ngữ là 2 yếu tố không thể tách rời và dạy một ngôn ngữ không thể tách rời dạy văn hóa của đất nước sử dụng ngôn ngữ đó. Việc dạy văn hóa giúp học viên, sinh viên cải thiện năng lực giao tiếp và tránh được những cú sốc do thiếu hiểu biết về văn hóa gây ra. Đối với học viên, sinh viên tiếng Pháp (Ngoại ngữ 2) tại Học viện Khoa học Quân sự, qua điều tra, tỷ lệ thiếu kiến thức về văn hóa chung và văn hóa Pháp là khá cao (65% và 44%). Điều đó đặt ra yêu cầu cần phải tăng cường dạy lồng ghép kiến thức văn hóa trong các giờ ngoại ngữ. Dưới đây, chúng tôi đề xuất một số nội dung văn hóa bám sát theo nội dung kiến thức trong giáo trình chính Initial 1, 2 mà học viên, sinh viên đang học, đồng thời đề xuất một vài phương pháp, hoạt động dạy lồng ghép kiến thức văn hóa. 6.1.1. Nội dung văn hóa Khi đề xuất nội dung kiến thức văn hóa, chúng tôi dựa theo những tiêu chí sau: Nội dung kiến thức văn hóa phải bám sát mục tiêu đào tạo, chuẩn đầu ra của Học viện đối với học viên, sinh viên học ngoại ngữ 2 và gắn với chương trình học theo giáo trình chính Initial 1, 2. Nội dung giảng dạy cần được lồng ghép trong các bài thực hành tiếng tổng hợp cũng như các tiết rèn luyện, phát triển kỹ năng ngôn ngữ với thời lượng, dung lượng kiến thức phù hợp. Nội dung giảng dạy phải rõ ràng, ngắn gọn, thiết thực, mang tính thời sự, phù hợp với trình độ và nhu cầu của người học. Liên quan đến nội dung văn hóa được đưa vào giảng dạy lồng ghép cho đối tượng học tiếng Pháp (Ngoại ngữ 2), chúng tôi đề xuất 15 nội dung tương ứng với 3 học phần tiếng Pháp, mỗi học phần gồm 5 nội dung như sau: - Học phần 1: + Giới thiệu tổng quan nước Pháp (vị trí địa lý, diện tích, dân số, sông ngòi, khí hậu, các thành phố lớn) + Văn hóa chào hỏi của người Pháp + Ngôn ngữ cử chỉ của người Pháp + Một số nhân vật nổi tiếng ở Pháp + Một số thành phố lớn ở Pháp - Học phần 2: + Văn hóa ẩm thực + Văn hóa mua sắm + Du lịch + Giao thông ở Pháp + Đặt phòng ở khách sạn 71KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v - Học phần 3: + Lễ hội Pháp + Cuộc sống hôn nhân và gia đình + Phương tiện truyền thông của Pháp + Hệ thống giáo dục của Pháp + Liên minh Châu Âu và cộng đồng Pháp ngữ. 6.1.2. Phương pháp và hoạt động dạy lồng ghép kiến thức văn hóa Vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy kiến thức văn hóa Mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Vì thế, căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu, nội dung bài học, thời gian lên lớp và đối tượng học viên, sinh viên mà giảng viên lựa chọn, kết hợp các phương pháp giảng dạy cho phù hợp. Đối với các nội dung văn hóa, giảng viên có thể kết hợp phương pháp nghe-nhìn, nghe- nói; phương pháp thuyết trình với sử dụng các phương tiện hỗ trợ bài giảng như hình ảnh, video, powerpoint; phương pháp liên văn hóa, giao văn hóa để tạo sự hào hứng, phấn khởi cho học viên, sinh viên, giúp học viên, sinh viên tiếp thu bài dễ dàng và ghi nhớ nội dung kiến thức sâu hơn. Đa dạng hóa các hoạt động giảng dạy văn hóa Song song với sử dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy, giảng viên còn cần lồng ghép, đa dạng hóa các hoạt động giảng dạy văn hóa, chúng tôi đề xuất một số các hoạt động sau: + Thuyết trình Với hoạt động này, giảng viên có thể cung cấp trước cho học viên, sinh viên các chủ đề văn hóa, yêu cầu họ tìm tài liệu liên quan đến chủ đề rồi thuyết trình trước lớp. Chẳng hạn, giảng viên có thể yêu cầu tìm các tài liệu về biểu tượng của nước Pháp hoặc các nhân vật nổi tiếng ở Pháp... Trong quá trình thuyết trình, học viên, sinh viên có thể sử dụng phương tiện như máy tính, tivi để hỗ trợ thêm cho bài thuyết trình của mình. Hoạt động này giúp nâng cao ý thức tự học của học viên, sinh viên và khuyến khích họ tìm tòi kiến thức văn hóa thông qua các phương tiện thông như sách, báo, internet + Thảo luận Giảng viên nên thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận xung quanh các chủ đề văn hóa Pháp được đề cập đến trong thực hành giao tiếp tiếng Pháp để giúp học viên, sinh viên nắm bắt các khác biệt giữa hai nền văn hóa, và xa hơn, giúp họ tránh được các cú sốc văn hóa trong quá trình tiếp xúc với nền văn hóa đích này. Ví dụ như sau khi học xong một bài liên quan đến hôn nhân và gia đình của người Pháp, giảng viên có thể đưa ra các yêu cầu đối với học viên, sinh viên như:”Bạn suy nghĩ như thế nào về hôn nhân và gia đình trong xã hội Việt Nam hiện nay?”, + Câu đố Đây là cách để trắc nghiệm khả năng ghi nhớ, tiếp nhận thông tin của sinh viên về các vấn đề mới trong bài học. Sinh có thể chỉ phỏng đoán đáp án, dựa trên hiểu biết của bản thân. Câu trả lời đúng có thể được giảng viên cung cấp thông qua đoạn băng, hình ảnh Có thể thấy, đây là phương pháp mang tính trực quan cao, có khả năng kích thích học viên, sinh viên, tạo hiệu quả tốt. + Bài hát Một bài hát không những truyền tải được nội dung ngôn ngữ mà còn thể hiện được nét đặc trưng văn hóa của một dân tộc. Vì thế, dạy lồng ghép các bài hát trong quá trình dạy ngôn ngữ, qua đó truyền đạt kiến thức văn hóa là một hoạt động rất được khuyến khích trong dạy ngoại ngữ. Khi dạy một bài hát, giảng viên có thể giới thiệu về hoàn cảnh ra đời của bài hát, nhạc sĩ, ca sĩ thể hiện bài hát, thông điệp được truyền tải qua bài hát Đây chính là kiến thức văn hóa mà bài hát mang lại. Ngoài ra, học bài hát còn giúp không khí lớp học nhẹ nhàng, thoải mái; học viên, sinh viên hứng khởi, tích cực tham gia vào bài. 72 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 6.2. Tăng cường thêm giáo trình, tài liệu về văn hóa Giáo trình, tài liệu giảng dạy là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy học ngoại ngữ nói chung và dạy học kiến thức văn hóa nói riêng. Vì vậy, cần tăng cường thêm giáo trình, tài liệu tiếng Pháp cũng như giáo trình, tài liệu về văn hóa Pháp vào thư viện nhằm đáp ứng nhu cầu dạy- học của giảng viên, học viên, sinh viên. Giáo trình, tài liệu có thể được tăng cường bằng 2 cách: Thứ nhất là các giảng viên trong tổ biên soạn giáo trình, tài liệu, chuyên đề liên quan đến văn hóa. Thứ hai là thẩm định, đưa vào sử dụng những giáo trình văn hóa, văn minh do người bản ngữ biên soạn. Giáo trình, tài liệu cần bám sát nội dung, chương trình đào tạo, khắc phục những hạn chế của giáo trình Iitial 1, 2 đang được sử dụng và phải phù hợp với đối tượng học viên, sinh viên. 6.3. Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá: Đưa kiến thức văn hóa vào quá trình kiểm tra học trình và cuối học phần Để nâng cao chất lượng dạy-học kiến thức văn hóa, góp phần nâng cao chất lượng dạy-học môn tiếng Pháp, giảng viên cần đưa kiến thức văn hóa vào quá trình kiểm tra học trình và cuối học phần. Nội dung kiểm tra, đánh giá kiến thức văn hóa chiếm 5% đến 10% tổng số nội dung được kiểm tra, đánh giá. Hình thức kiểm tra đánh giá có thể được đa dạng hóa bằng các bài tập trắc nghiệm đúng/sai, câu hỏi đa lựa chọn, câu hỏi đóng, câu hỏi mở về kiến thức văn hóa. Kiểm tra, đánh giá được thực hiện thường xuyên, liên tục và toàn diện trong suốt quá trình dạy học sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác, giúp học viên, sinh viên tích cực, chủ động hơn trong học tập. 7. KẾT LUẬN Học viên, sinh viên ngoại ngữ chỉ có thể giao tiếp thành công nếu nắm vững kiến thức văn hóa của đất nước sử dụng ngôn ngữ đó. Vì thế, giảng dạy ngôn ngữ không thể tách rời giảng dạy kiến thức văn hóa. Đối với môn tiếng Pháp cũng vậy, trong quá trình giảng dạy, giảng viên cần chú trọng đến việc truyền tải các kiến thức văn hóa Pháp cho học viên, sinh viên, giúp họ làm quen, hiểu được và thích ứng dần với các thực tế văn hóa, xa hơn là hành động và ứng xử hiệu quả, thành công trong cộng đồng Pháp ngữ. Để làm được điều đó, cần tăng cường giảng dạy kiến thức văn hóa Pháp, bổ sung thêm giáo trình, tài liệu về văn hóa vào thư viện giúp người dạy, học viên, sinh viên dễ dàng và thuận lợi nghiên cứu, tìm hiểu về văn hóa Pháp, đồng thời đưa kiến thức văn hóa vào quá trình kiểm tra, đánh giá. Chúng tôi hy vọng những giải pháp này sẽ hữu ích với cả giảng viên và học viên, sinh viên trong quá trình dạy-học tiếng Pháp nói chung và kiến thức văn hóa Pháp nói riêng./. Tài liệu tham khảo: 1. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tổng hợp, TP Hồ Chí Minh. 3. Emmit, M. & Pollock, J. (1990), Language and Learning, Oxford University Press, Oxford. 4. Sapir, E. (1991), Language, Harcourt, NewYork. 5. Byram M. (1992), Culture et éducation en langue étrangère, Hatier/Didier, Paris. 6. Poisson-Quinton S., Sala M, (2001), Initial 1, CLE international, Paris. 7. Poisson-Quinton S., Sala M, (2001), Initial 2, CLE international, Paris. 8. Steele R. (2001), Civilisation progressive du français (Niveau intermédiaire), CLE international, Paris. 9. Zarate G. (1986), Enseignement une culture étrangère, Collection F, Hachette, Paris. 73KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 13 - 5/2018 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v SUGGESTED SOLUTIONS OF TEACHING CULTURAL KNOWLEDGE TO IMPROVE THE QUALITY OF TEACHING AND LEARNING FRENCH AS THE SECOND FOREIGN LANGUAGE AT MILITARY SCIENCE ACADEMY NGUYEN THANH HA Abstract: Culture and language are two inseparable elements. The culture is the environment in which language is used according to the general rules of behavior of a language community. Language is an important element of culture, a tool for recording and expressing culture. In other words, the language holds in it a lot of cultural knowledge of that language community. Therefore, in teaching language, teaching culture must be emphasized. On the basis of the current situation of teaching cultural knowledge in the French teaching process, the article focuses on proposing some solutions to improve the quality of teaching and learning French at the Military Science Academy through teaching cultural knowledge. Keywords: language, culture, teaching culture, teaching language Received: 22/4/2018; Revised: 20/5/2018; Accepted for publication: 22/5/2018
File đính kèm:
- de_xuat_mot_vai_giai_phap_ve_giang_day_kien_thuc_van_hoa_nha.pdf