Đề xuất công nghệ xử lý nước thải trang trại lợn nhằm giảm thiểu tác động đến hồ suối Hai, Ba Vì

Trang trại trồng cây ăn quả kết hợp chăn nuôi tại thôn 7, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà

Nội của đơn vị hộ kinh doanh Nguyễn Thị Thu Phương được thực hiện trên phần diện tích

23.100m2, công suất thiết kế: 200 lợn nái và 4.000 con lợn thịt/năm. Vị trí Trang trại nằm sát với

hồ Suối Hai là một địa điểm thăm quan, du lịch sinh thái khá nổi tiếng nằm ở chân núi Ba Vì, dẫn

đến yêu cầu xử lý chất thải triệt để, đặc biệt là nước thải. Bài báo đề xuất quy trình xử lý nước thải

chăn nuôi với công suất 80m3/ngày đêm, tách riêng từng nguồn thải, xử lý cơ học kết hợp sinh

học: Phân và nước tiểu được đưa qua máy ép phân, phần nước còn lại được dẫn vào bể biogas;

nước thải sau bể biogas được xử lý qua hệ thống bể anoxic, arotank, bể lắng, khử trùng và chứa

vào hồ sinh học trong Trang trại để tuần hoàn tái sử dụng cho vệ sinh chuồng trại, tưới cây. Toàn

bộ phân sau khi qua máy ép phân, bùn thải bể biogas được phối trộn với chế phẩm sinh học và phế

thải đồng ruộng để sản xuất phân hữu cơ.

pdf 6 trang kimcuc 2400
Bạn đang xem tài liệu "Đề xuất công nghệ xử lý nước thải trang trại lợn nhằm giảm thiểu tác động đến hồ suối Hai, Ba Vì", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất công nghệ xử lý nước thải trang trại lợn nhằm giảm thiểu tác động đến hồ suối Hai, Ba Vì

Đề xuất công nghệ xử lý nước thải trang trại lợn nhằm giảm thiểu tác động đến hồ suối Hai, Ba Vì
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 185(09): 9 - 14 
9 
ĐỀ XUẤT CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI TRANG TRẠI LỢN 
NHẰM GIẢM THIỂU TÁC ĐỘNG ĐẾN HỒ SUỐI HAI, BA VÌ 
Ngô Trà Mai
* 
 Viện Vật lý – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
TÓM TẮT 
Trang trại trồng cây ăn quả kết hợp chăn nuôi tại thôn 7, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố Hà 
Nội của đơn vị hộ kinh doanh Nguyễn Thị Thu Phương được thực hiện trên phần diện tích 
23.100m
2, công suất thiết kế: 200 lợn nái và 4.000 con lợn thịt/năm. Vị trí Trang trại nằm sát với 
hồ Suối Hai là một địa điểm thăm quan, du lịch sinh thái khá nổi tiếng nằm ở chân núi Ba Vì, dẫn 
đến yêu cầu xử lý chất thải triệt để, đặc biệt là nước thải. Bài báo đề xuất quy trình xử lý nước thải 
chăn nuôi với công suất 80m3/ngày đêm, tách riêng từng nguồn thải, xử lý cơ học kết hợp sinh 
học: Phân và nước tiểu được đưa qua máy ép phân, phần nước còn lại được dẫn vào bể biogas; 
nước thải sau bể biogas được xử lý qua hệ thống bể anoxic, arotank, bể lắng, khử trùng và chứa 
vào hồ sinh học trong Trang trại để tuần hoàn tái sử dụng cho vệ sinh chuồng trại, tưới cây... Toàn 
bộ phân sau khi qua máy ép phân, bùn thải bể biogas được phối trộn với chế phẩm sinh học và phế 
thải đồng ruộng để sản xuất phân hữu cơ. 
Từ khóa: Trang trại, nước thải chăn nuôi, biogas, phân hữu cơ 
MỞ ĐẦU* 
Hồ Suối Hai cách Hà Nội khoảng 60 km về 
phía tây, dưới chân núi Ba Vì, dung tích 45 
triệu m3 nước, trải dài 7 km, trên diện tích 90 
ha. Đây là nguồn cung cấp nước tưới cho 
khoảng 90 ha đất nông nghiệp của khu vực. 
Đồng thời với diện tích mặt nước lớn, có 
nhiều đảo nhỏ, hệ sinh thái tương đối đa dạng 
là điểm du lịch khá nổi tiếng trong vùng. 
Đơn vị hộ kinh doanh Nguyễn Thị Thu 
Phương đã xây dựng phương án đầu tư Trang 
trại trồng cây ăn quả kết hợp chăn nuôi tại 
thôn 7, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, thành phố 
Hà Nội và được UBND huyện Ba Vì phê 
duyệt phương án tại Quyết định số 352/QĐ-
UBND ngày 10/5/2010. Trang trại được thực 
hiện trên phần diện tích là 23.100 m2, công 
suất thiết kế: 200 con lợn nái/năm và 2.000 
con lợn thịt/lứa, 1 năm 2 lứa tương đương 
4.000 con lợn thịt/năm; kết hợp trồng cây ăn 
quả chủ yếu là bưởi và ổi. 
Tuy nhiên cho đến nay Trang trại vẫn chưa đi 
vào hoạt động, có nhiều nguyên nhân và một 
trong những nguyên nhân đó có lý do từ xử lý 
nước thải chăn nuôi. 
*
 Tel: 0982 700460 
Việc xây dựng Trang trại tại một vị trí tương 
đối nhạy cảm (Hình 1) dẫn đến các yêu cầu 
khắt khe về xử lý chất thải đặc biệt là nước 
thải. Với tổng lượng nước thải ước tính tối đa 
là 80 m
3/ngày đêm cần phải được xử lý triệt 
để các chất bẩn, đạt QCVN 62:2016/BTNMT, 
QCVN 14:2008/BTNMT trước khi tiến hành 
đổ thải. 
Hình 1. Vị trí trang trại trong 
 mối tương quan với hồ Suối Hai 
Do đặc thù Việt Nam là một nước nông 
nghiệp nên việc xử lý nước thải chăn nuôi đã 
được nghiên cứu khá sớm với nhiều các 
phương pháp xử lý như: Sinh học (công nghệ 
bùn hoạt tính, phân hủy yếm khí, thực vật 
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 185(09): 9 - 14 
10 
thủy sinh); hóa- lý kết hợp; đất ngập nước; 
...[1], [2], [3]. Mỗi một phương pháp có một 
ưu điểm và nhược điểm riêng, tuy nhiên đều 
có điểm chung là hướng tới xử lý đạt tiêu 
chuẩn hàm lượng các chất hữu cơ, cặn lơ 
lửng, nitơ, phôtpho và vi sinh vật gây bệnh là 
những chất ô nhiễm đặc trưng có trong nước 
thải chăn nuôi. Về nhược điểm: đối với các 
phương pháp sinh học hoặc là yêu cầu thời 
gian lưu nước dài (20 – 30 ngày) hoặc là sử 
dụng diện tích đất lớn; đối với phương pháp 
hóa lý gây tốn kém về chi phí hóa chất đồng 
thời không xử lý triệt để được hàm lượng nitơ 
và phôtpho trong nước thải chăn nuôi [4]. 
Hiện nay có thể nói ở nước ta chưa có quy 
trình chuẩn nào được công bố để xử lý nước 
thải chăn nuôi đáp ứng tiêu chuẩn xả thải 
(QCVN 62:2016/BTNMT). Nước thải chăn 
nuôi lợn từ các trang trại chủ yếu được xử lý 
bằng hầm khí sinh học (biogas) và hồ sinh 
học. Các phương pháp xử lý khác như 
phương pháp sử dụng thực vật thủy sinh, yếm 
khí UASB, yếm khí tiếp xúc, lọc sinh học, xử 
lý hiếu khí bằng aeroten... đã được một số tác 
giả quan tâm nghiên cứu và mang lại hiệu quả 
nhất định [1], [2], [5], [6]. Tuy nhiên hầu hết 
mới chỉ dừng lại ở thực nghiệm, đề xuất về lý 
thuyết hoặc ứng dụng nếu có chỉ ở qui mô 
nhỏ lẻ. Đặc biệt, việc xử lý chất ô nhiễm N và 
P hầu như chưa được quan tâm trong khi đây 
là yếu tố chính gây phú dưỡng [4]. 
Vì vậy mục tiêu của bài báo là nghiên cứu đề 
xuất hệ thống xử lý nước thải chăn nuôi, phù 
hợp với điều kiện hộ kinh doanh cá thể, phù 
hợp với nguồn tiếp nhận là hồ Suối Hai đồng 
thời đáp ứng được các yêu cầu về xả thải. 
TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tiếp cận tổng hợp và hệ thống: Các vấn đề 
liên quan đến môi trường của các Trang trại 
chăn nuôi lợn; hiện trạng và yêu cầu về chất 
lượng nước hồ Suối Hai được xem xét trên 
quan điểm tổng thể và là một hệ thống kinh tế 
- xã hội không thể tách rời. Việc đề xuất các 
giải pháp về thu gom xử lý nước thải chăn 
nuôi được xem xét phù hợp với điều kiện về 
kinh tế, kỹ thuật và phải có sự chấp thuận của 
Chủ Trang trại để đề xuất có thể áp dụng và 
triển khai. 
Để thực hiện được các nội dung nghiên cứu, 
tác giả đã sử dụng các phương pháp: kế thừa, 
điều tra thu thập tài liệu, khảo sát thực địa, 
phân tích tổng hợp. 
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CÔNG NGHỆ 
XỬ LÝ NƯỚC THẢI 
Cơ sở đề xuất 
Nước thải chăn nuôi là hỗn hợp bao gồm 
nước tiểu, nước rửa chuồng, nước tắm vật 
nuôi. Tính riêng với chăn nuôi lợn, nếu trung 
bình lượng nước thải ra 25 lít/con lợn/ngày 
thì lượng nước thải của Trang trại là khoảng 
24000 m
3/năm, là một con số đáng kể đối với 
hồ Suối Hai [7]. 
Về thành phần và mức độ ô nhiễm, qua kết 
quả khảo sát của Viện KH&CN Môi trường, 
trường Đại học Bách khoa Hà Nội (2009) 
nhận thấy, giá trị COD, TN, TP, SS và 
coliform trong nước thải chăn nuôi lợn thịt rất 
cao, với các giá trị tương ứng là 2500 – 12120 
mgO2/L, 185 – 4539, 28 - 831, 190 – 5830 
mg/L và 4x10
4
 - 10
8
 MPN/100 mL. Trong khi 
đó, kết quả về chất lượng nước thải tại trang 
trại Hòa Bình Xanh (xã Hợp Hòa, huyện 
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình) với khoảng 3000 
con lợn thịt cũng cho thấy các thông số ô 
nhiễm như COD, NH4
+, TP và SS tương ứng 
lần lượt là 5630 ± 1032, 544 ± 57, 60 ± 18 và 
4904 ± 901 (Cao Thế Hà và ncs, 2015). Các 
giá trị ô nhiễm này đều không đạt Quy chuẩn 
Kỹ thuật Quốc gia về nước thải chăn nuôi 
QCVN 62:2016/BTNM. 
Phân và nước thải từ vật nuôi chứa nhiều 
thành phần N, P và các VSV gây hại, không 
những gây ô nhiễm không khí mà còn làm ô 
nhiễm đất, làm rối loạn độ phì đất, mặt nước 
và cả nguồn nước ngầm. Khi chăn nuôi tập 
trung, mật độ chăn nuôi tăng cao dẫn đến tải 
lượng và nồng độ chất ô nhiễm cũng tăng cao, 
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống và 
sức khỏe cộng đồng [5]. 
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 185(09): 9 - 14 
11 
Vì vậy cần xử lý từng công đoạn, tách riêng nguồn thải trước khi đưa vào hệ thống xử lý chung 
Đề xuất quy trình xử lý nước thải chăn nuôi 
Hình 2. Sơ đồ quy trình xử lý nước thải chăn nuôi 
Thuyết minh: 
- Phân và nước thải chăn nuôi của Trang trại 
(nước vệ sinh chuồng trại, tắm cho lợn, nước 
tiểu lợn trong quá trình bài tiết) được dẫn về 
bể chứa nước thải. Nước thải từ đây sẽ được 
máy ép phân công suất 4 m3/h hút lên và tách 
phân: Phân sau khi ép được đưa ra khu xử lý 
phân để ủ làm phân hữu cơ. Lượng nước sau 
khi đã tách phân được dẫn theo đường ống 
kín xuống bể biogas. 
- Bể Biogas: Với lượng thải tối đa 80 m3/ngày 
đêm, yêu cầu thời gian lưu nước từ 20 - 30 
ngày, cần thiết xây dựng bể biogas có dung 
tích từ 1600 - 2400 m3. Xây dựng 03 bể mỗi 
bể có dung tích khoảng 800 m3, việc tách nhỏ 
thành 03 bể biogas sẽ hạn chế được các rủi ro 
sự cố có thể xảy ra trong quá trình thi công và 
vận hành hệ thống xử lý nước thải. Hiệu quả 
xử lý COD, BOD5 trung bình là 50 - 70%. 
Bùn lắng từ quá trình phân hủy sẽ được 
chuyển về bể chứa bùn. Khí thải phát sinh từ 
quá trình phân hủy kỵ khí (CH4) được giữ lại 
và thu về tận dụng làm khí đốt phục vụ nấu ăn 
cho CBCNV.
- Bể điều hòa: Phần nước trong từ biogas 
được chảy vào bể điều hòa của hệ thống xử lý 
nước thải. Mục đích của bể điều hòa là để ổn 
định lưu lượng nước thải trước khi dẫn sang 
Hồ Suối Hai 
Bể chứa 
nước thải và 
phân 
Máy 
ép 
phân 
Nước thải 
sau khi đã 
tách phân 
Bể 
biogas 
Bể Anoxic 
Phân đã 
được ép Bùn thải 
Ủ phân Ủ phân 
Phân bón Phân bón 
Thu khí gas 
Máy 
khuấy 
chìm 
Bể Aerotank 
Bể lắng 
Hồ sinh học 
Nước thải đạt cột B của QCVN 62-
MT:2016/BTNMT, QCVN 
14:2008/BTNMT 
Khử trùng 
Bùn 
tuần 
hoàn 
Bể 
điều hòa 
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 185(09): 9 - 14 
12 
các công đoạn xử lý tiếp theo. Thời gian lưu 
nước thải tại bể điều hòa là 4 giờ. Tại bể điều 
hòa bố trí thiết bị thổi khí và khuấy trộn để 
đảm bảo nồng độ nước thải trong bể được 
đồng đều. 
- Bể Anoxic (bể thiếu khí): Tại bể Anoxic 
diễn ra quá trình thiếu khí. Trong môi trường 
thiếu Oxy, các loại vi khuẩn khử Nitrat và 
Photphorit thành N2 và các hợp chất không chứa 
photpho hoặc các hợp chất chứa photpho nhưng 
dễ phân hủy với vi khuẩn hiếu khí. 
Tại bể Anoxic bố trí máy khuấy chìm để quá 
trình Nitrat hóa và Photphoril hóa diễn ra 
thuận lợi và hệ thống đệm sinh học để hệ vi 
sinh vật thiếu khí bám dính vào bề mặt vật 
liệu đệm sinh học để sinh trưởng và phát 
triển. Nước thải được lưu trong bể Anoxic từ 
2 - 4 giờ. 
- Bể Aerotank: Sau quá trình thiếu khí ở bể 
Anoxic, nước thải được bơm vào bể 
Aerotank, bắt đầu quá trình xử lý hiếu khí, xử 
lý hàm lượng BOD, COD. Trong điều kiện 
hiếu khí do hệ thống cung cấp khí được lắp đặt 
phía dưới đáy bể, các vi sinh vật hiếu khí dùng 
các chất hữu cơ làm thức ăn để tăng trưởng, 
phát triển, tạo ra lượng bùn, sinh khối mới. 
Nước thải được lưu trong bể khoảng 8 giờ. 
- Bể lắng: Sau quá trình xử lý hiếu khí, nước 
thải được dẫn chảy qua bể lắng nhằm tách 
bùn, các chất hữu cơ. Tại bể lắng, bùn nặng 
hơn sẽ lắng xuống đáy bể, còn nước mặt nổi 
lên trên và được dẫn ra ngoài. Phía dưới bể 
lắng đặt ống thu bùn, dẫn bùn lắng ra ngoài. 
- Nước thải sau quá trình xử lý sinh học và 
lắng, phần nước trong phía trên bể lắng được 
hút ra ngoài bằng hệ thống thu nước tầng mặt, 
tại đây sẽ được châm dung dịch khử trùng Clo 
để tiêu diệt vi khuẩn trong nước thải. 
Phần bùn trong bể lắng (phần sinh khối vi 
sinh vật) sẽ được tuần hoàn 1 phần. Trong 
trường hợp bùn dư nhiều, bùn dư sẽ được thải 
bỏ bớt. 
Nước thải sau bể lắng được dẫn ra hồ sinh học. 
- Nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn cột B của 
QCVN 62:2016/BTNMT, QCVN 
14:2008/BTNMT (với Kq = 0,9, Kf = 1,2). 
Nước thải sau xử lý chứa tại hồ sinh học tuần 
hoàn sử dụng để tưới cây, cấp nước tắm cho 
lợn, rửa chuồng trại, làm mát, tưới ẩm trong 
quá trình xử lý phân. 
Nước thải sau xử lý không xả trực tiếp ra hồ 
Suối Hai, chỉ tiến hành đổ thải trong trường 
hợp có mưa lớn vượt dung tích chứa của hồ 
sinh học. Lúc này hàm lượng các chất ô 
nhiễm đã được xử lý triệt để kết hợp với quá 
trình pha loãng từ nước mưa sẽ không gây tác 
động bất lợi đối với chất lượng nước Hồ. 
* Chi tiết từng bể như sau: 
- Bể điều hòa: Trung bình lượng nước thải ra 
25 lít/con lợn/ngày, tính được lưu lượng nước 
thải chăn nuôi đi vào bể biogas là 88,7 
m
3/ngày.đêm. Lưu lượng nước thải sinh hoạt 
của công nhân vào bể tự hoại là 1,8 
m
3/ngày.đêm. 
Như vậy, tổng lưu lượng nước thải đi vào bể 
điều hòa là: 88,7 + 1,8 = 90,5 m3/ngày.đêm ≈ 
3,8 m
3
/h. Thời gian lưu nước trong bể từ 4 
giờ. Kích thước bể điều hòa là 3,4 m x 1,5 m 
x 3,5m. 
- Bể Anoxic: Lưu lượng nước thải đi chảy từ 
bể điều hòa sang bể Anoxic là: 88,7 + 1,8 = 
90,5 m
3/ngày.đêm ≈ 3,8 m3/h. Thời gian lưu 
nước trong bể từ 2-4 giờ. 
Với lưu lượng nước thải trên, đề xuất xây 
dựng 01 bể Anoxic với kích thước 2,5 m x 
1,52 m x 3,5 m. Để tăng hiệu quả xử lý nước 
thải, sử dụng 01 máy khuấy chân vịt 3 cánh, 
công suất 0,5 kW, nghiêng góc 45o hướng lên 
để đưa nước từ dưới lên trên. 
- Bể Aerotank: Lưu lượng nước thải chảy từ 
bể Anoxic sang bể aerotank bằng 88,7 + 1,8 = 
90,5 m
3/ngày.đêm ≈ 3,8 m3/h. Thời gian lưu 
nước trong bể khoảng 8 giờ. Do đó, tiến hành 
xây dựng 1 bể aerotank với kích thước 5,5 m 
x 3,8 m x 3,5 m. 
- Bể lắng: Lưu lượng từ bể Aerotank vào bể 
lắng đứng: Q = 90,5 m3/ngày đêm ≈ 3,8 m3/h. 
Thời gian lắng (thời gian lưu nước) khoảng 2 
giờ. Kích thước bể lắng là 2,5 m x 2 m x 3,1 m. 
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 185(09): 9 - 14 
13 
Xử lý nước thải kết hợp với xử lý chất thải 
chăn nuôi 
Để đạt được hiệu quả trong xử lý nước thải, 
cần thiết phải kết hợp với biện pháp xử lý 
chất thải chăn nuôi: 
- Đối với phân lợn từ chuồng heo thịt thu gom 
về bể chứa nước thải sau đó tách phân qua 
máy ép phân để đưa về khu xử lý phân của 
Trang trại. 
- Bùn thải phát sinh từ bể biogas và bể tự hoại 
cải tiến 5 ngăn được hút định kỳ. Lượng bùn 
thải này được đưa đến khu xử lý phân của 
Trang trại. 
Khu xử lý phân bố trí phía Tây Bắc của Trang 
trại, có diện tích khoảng 400m2 chia làm 3 ô 
để ủ phân với chế phẩm sinh học và phế thải 
đồng ruộng để sản xuất phân hữu cơ. Khu vực 
này được xây gờ chắn bao quanh để tránh 
nước ủ phân chảy ra ngoài gây ô nhiễm môi 
trường, nền được đổ bê tông có rãnh thu nước 
ủ phân chảy về bể chứa nước thải. 
Lượng phân hữu cơ được tận dụng bón cây 
xanh, cây ăn quả của Trang trại. Trong trường 
hợp dư thừa sẽ bán hoặc cho người dân khu 
vực bón cây, phục vụ trồng trọt. 
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
Trang trại được đầu tư xây dựng ở vị trí tương 
đối nhạy cảm về môi trường, cho nên cần 
thiết phải có các biện pháp quản lý, xử lý chất 
thải phù hợp để không gây tác động bất lợi 
đến nguồn tiếp nhận là hồ Suối Hai. 
Đề xuất công nghệ xử lý nước thải kết hợp 
với xử lý chất thải chăn nuôi để tách riêng 
nguồn thải, khống chế nồng độ các chất ô 
nhiễm; nước thải sau khi tách phân đưa qua 
bể Biogas đã giảm đáng kể lượng cặn và các 
chất ô nhiễm được tiếp tục hệ thống qua bể 
Anoxic, Aerotank, bể lắng, khử trùng và dẫn 
vào hồ sinh học. Tại hồ sinh học, nước thải 
được tuần hoàn sử dụng để tưới cây, cấp nước 
tắm cho lợn, rửa chuồng trại, làm mát, tưới 
ẩm trong quá trình xử lý phân. Nước thải chỉ 
đổ thải ra hồ Suối Hai khi có mưa lớn, vượt 
dung tích chứa của hồ sinh học. Tuy nhiên lúc 
này được thải đã được xử lý triệt để, kết hợp 
với việc pha loãng nồng độ nên sẽ không gây 
suy giảm chất lượng nước nguồn tiếp nhận. 
Để giảm áp lực cho hệ thống xử lý nước thải, 
tận dụng chất thải, giảm áp lực lên môi 
trường... tiến hành xây dựng Khu xử lý phân 
song song với hệ thống xử lý nước thải. Toàn 
bộ chất thải: Phân lợn, bùn thải từ bể biogas 
và bể tự hoại cải tiến được ủ với chế phẩm 
sinh học cộng với phế thải nông nghiệp để sản 
xuất phân hữu cơ quay trở lại bón cho phần 
diện tích đất trồng cây ăn quả của Trang Trại. 
Như vậy về cơ bản toàn bộ chất thải phát sinh 
của Trang trại được tuần hoàn, quy trình sản 
xuất khép kín, không gây tác động bất lợi đến 
môi trường đặt biệt là hồ Suối Hai. 
Tuy nhiên để có cơ sở kiểm chứng hiệu quả 
xử lý nước thải cũng như việc chấp hành công 
tác bảo vệ môi trường của Trang trại cần có 
sự giám sát của nhà quản lý và các đơn vị 
chuyên ngành. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trương Thị Hằng, Võ Thị Kim Hằng (2010), 
“Hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi bằng cây rau 
ngổ (Enydra fluctuans. Lour) và cây lục bình 
(Eichhoria crassipes)”, Tạp chí Khoa học Đất, số 
34/2010. 
2. Nguyễn Sáng, Chu Xuân Quang, Hoàng Văn 
Tuấn, Văn Thị Thu, Trần Văn Quy, Trần Hùng 
Thuận (2014), “Nghiên cứu khả năng xử lý nước thải 
chăn nuôi lợn bằng phương pháp sinh học kết hợp 
lọc màng”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học 
Tự nhiên và Công nghệ, 30(4S), tr. 144 – 149. 
3. Nguyễn Sáng, Nguyễn Quang Nam, Chu Xuân 
Quang, Trần Văn Quy, Trần Hùng Thuận (2015), 
“Nghiên cứu xử lý tăng cường bằng phương pháp 
keo tụ nước thải chăn nuôi lợn sau hệ thống xử lý 
sinh học kết hợp lọc màng”, Tạp chí Khoa học Đại 
học Quốc gia Hà Nội, Khoa học Tự nhiên và Công 
nghệ, 31(2S), tr. 227 – 232. 
4. Vũ Đình Tôn, Lại Thị Cúc, Nguyễn Văn Duy 
(2008), “Đánh giá hiệu quả xử lý chất thải bằng bể 
biogas của một số trang trại chăn nuôi lợn vùng 
đồng bằng sông Hồng”, Đại học Nông nghiệp Hà 
Nội - Tạp chí Khoa học và Phát triển, Tập VI (6), 
tr. 556-561. 
5. Đặng Đình Kim, Trần Văn Tựa, Lê Đức, Bùi 
Thị Kim Anh, Đặng Thị An, Sách chuyên khảo: 
Ngô Trà Mai Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 185(09): 9 - 14 
14 
Xử lý ô nhiễm môi trường bằng thực vật, Nxb 
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2011 
6. Đặng Viết Hùng, Đỗ Thị Hồng Hạ (2015), “Xử 
lý nước thải chăn nuôi heo bằng mô hình lai hợp 
kị khí USBF với lớp đệm linh động ở phần lọc kị 
khí”, Science & Technology Development, Vol. 
18, No.M2/ 2015. 
7. Trần Văn Tựa (2015), Nghiên cứu và ứng dụng 
công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt 
Nam để xử lý ô nhiễm môi trường kết hợp với tận 
dụng chất thải của các trang trại chăn nuôi lợn, 
Đề tài mã số KC08.04/11-15. 
ABSTRACT 
PROPOSED WASTEWATER TREATMENT TECHNOLOGY FOR PIG FARM 
TO REDUCE IMPACT ON SUOI HAI LAKE, BA VI DISTRICT 
Ngo Tra Mai
*
Institute of Physics - Vietnam Academy of Science and Technology 
A fruit farm in combination with livestock in 7 Hamlet, Ba Trai Commune, Ba Vi District, Ha Noi 
City of the business unit Nguyen Thi Thu Phuong was implemented on an area of 23,100m
2
, 
designed capacity 200 sows and 4,000 porkers per year. The location of the farm, which is close to 
Suoi Hai lake, is a well-known tourist site, at the foot of Ba Vi mountain, leading to the 
requirement of thorough waste treatment, especially waste water. The article proposes the process 
of livestock wastewater treatment with the capacity of 80 m
3
/day, separate from each source, 
mechanical treatment combined with biological: Feces and urine are passed through the stool 
presser, the remaining water is taken into the biogas tank; Waste water after passing biogas tanks 
is processed through anoxic tank system, arotank, sedimentation tank, disinfection and storage into 
biological ponds in the farm to circulate recycle for cleaning the pigsty, watering plants... The 
whole manure after the fertilizer press, sludge discharged biogas mixed with bio-products and 
waste field to produce organic fertilizer. 
Keywords: Farms, livestock wastewater, biogas, organic fertilizer ... 
Ngày nhận bài: 17/5/2018; Ngày phản biện: 06/6/2018; Ngày duyệt đăng: 31/8/2018 
*
 Tel: 0982 700460 

File đính kèm:

  • pdfde_xuat_cong_nghe_xu_ly_nuoc_thai_trang_trai_lon_nham_giam_t.pdf