Để tăng cường thu hút FDI chất lượng cao từ EU

Chiếm 1/4 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba, đồng thời là một trong hai thị trường xuất khẩu và xuất siêu lớn nhất của Việt Nam. EU cũng là nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Hiện có 24 trong số 28 nước EU đã có dự án

đầu tư vào Việt Nam, với trên 2000 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 25

tỷ USD. Các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế và các địa phương quan trọng của Việt

Nam, tập trung nhiều nhất vào công nghiệp, xây dựng và một số ngành dịch vụ. Đặc biệt, Hiệp định EVFTA

và EVIPA được ký kết hứa hẹn dòng vốn FDI từ EU sẽ có sức tăng trưởng đột phá trong thời gian tới.

pdf 7 trang kimcuc 6300
Bạn đang xem tài liệu "Để tăng cường thu hút FDI chất lượng cao từ EU", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Để tăng cường thu hút FDI chất lượng cao từ EU

Để tăng cường thu hút FDI chất lượng cao từ EU
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 51Số 144 - tháng 10/2019
ñeå taÊng cöôøng tHu Huùt Fdi
cHaát löôïng cao töø eu
ThS. NGUYỄN TRầN MINH TRÍ*
*Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Chiếm 1/4 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba, đồng thời là một trong hai thị trường xuất khẩu và xuất siêu lớn nhất của Việt Nam. EU cũng là nhà đầu tư lớn vào Việt Nam. Hiện có 24 trong số 28 nước EU đã có dự án đầu tư vào Việt Nam, với trên 2000 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 25 
tỷ USD. Các nhà đầu tư EU đã có mặt tại hầu hết các ngành kinh tế và các địa phương quan trọng của Việt 
Nam, tập trung nhiều nhất vào công nghiệp, xây dựng và một số ngành dịch vụ. Đặc biệt, Hiệp định EVFTA 
và EVIPA được ký kết hứa hẹn dòng vốn FDI từ EU sẽ có sức tăng trưởng đột phá trong thời gian tới.
Từ khóa: Các nhà đầu tư EU; FDI.
To enhance the attraction of high quality FDI from the EU
Presenting a quarter of Vietnam’s exports, the EU is currently the third largest trading partner, and is one 
of Vietnam’s two largest export and trade surplus markets.
The EU is also a major investor in Vietnam. Currently, 24 out of 28 EU countries have had investment 
projects in Vietnam, with over 2000 valid projects, the total registered investment capital of more than US 
$ 25 billion. EU investors are present in almost all important economic sectors and localities of Vietnam, 
focusing most on industry, construction and some service industries. In particular, the EVFTA and EVIPA 
agreements have been signed which promise that FDI inflows from the EU will have breakthrough growth 
in the coming time.
Key words: EU investors; FDI.
Trong vòng 10 năm, kể từ năm 1988 Luật Đầu tư 
nước ngoài của Việt Nam có hiệu lực, FDI từ EU đã 
tăng 12 lần, từ 186,959 triệu USD lên 2,24 tỷ USD 
năm 1997, chiếm 13,8% tổng số vốn đăng ký FDI 
vào Việt Nam năm 1997. Riêng FDI từ Anh tăng 
mạnh, lần lượt từ 0,99% và 0,11% năm 1995-1997 
lên mức 8,43% và 19,06% tổng số vốn đăng ký từ 
EU năm 1998-1999. Những năm 2000 – 2001, FDI 
từ EU trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Việt 
Nam, chiếm khoảng 38% tổng giá trị vốn FDI đăng 
ký. Đặc biệt, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, FDI 
đăng ký từ EU đã vọt từ mức 5,41 tỷ USD vào năm 
2007, lên 10,49 tỷ USD vào năm 2008, tức tăng 
93,89% và chiếm 16,4% trên 64 tỷ USD tổng vốn 
FDI đăng ký kỷ lục của cả năm 2008. Với 1,88 tỷ 
USD tổng vốn đăng ký mới, tăng thêm và góp vốn 
mua cổ phần năm 2018, tổng cộng hiện EU có gần 
25 tỷ USD của hơn 2000 dự án FDI còn hiệu lực 
ở Việt Nam. Hà Lan, Pháp, Luxembourg, Đức... 
là nhóm các nhà đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam 
trong số các nước thành viên EU. Điểm nhấn của 
các dự án FDI từ EU là đa số có chất lượng cao, tiêu 
biểu trong đó có những dự án đầu tư vào công nghệ 
cao từ các tập đoàn Ericsson, ABB, Bosch. Hơn nữa, 
các nhà đầu tư Châu âu được đánh giá là mạnh về 
dịch vụ hơn sản xuất hàng hóa, nên trong bối cảnh 
các chuỗi giá trị sản xuất đang thay đổi hiện nay, 
việc đón nhận vốn đầu tư FDI từ EU càng trở nên 
quan trọng cho cả Việt Nam lẫn các nước EU. 
Có thể nói, cộng đồng doanh nghiệp EU từ lâu 
đã quan tâm và ngày càng coi Việt Nam là điểm đến 
đầu tư ưu tiên trong khu vực. Đặc biệt, Hiệp định 
thương mại tự do EVFTA và Hiệp định bảo hộ đầu 
tư EVIPA với tư cách là các hiệp định toàn diện và 
có chất lượng cao, cân bằng về lợi ích cho cả Việt 
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN52 Số 144 - tháng 10/2019
Nam và EU, phù hợp với các quy định của Tổ chức 
Thương mại Thế giới đã được ký kết. Nội dung 
của Hiệp định bảo hộ đầu tư EVIPA bao gồm cam 
kết sẽ dành đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc 
với đầu tư của nhà đầu tư ở cả hai bên, với một số 
ngoại lệ, cũng như sự đối xử công bằng, thỏa đáng, 
bảo hộ an toàn và đầy đủ, cho phép tự do chuyển 
vốn và lợi nhuận từ đầu tư ra nước ngoài, cam kết 
không trưng thu, quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu 
tư mà không có bồi thường thỏa đáng, cam kết bồi 
thường thiệt hại phù hợp cho nhà đầu tư của bên 
kia tương tự như nhà đầu tư trong nước hoặc của 
bên thứ ba trong trường hợp bị thiệt hại do chiến 
tranh, bạo loạn... đã cơ bản bảo vệ được lợi ích 
của các nhà đầu tư. Nếu tuân thủ tốt và đáp ứng 
được các điều kiện của EVIPA, Việt Nam sẽ không 
chỉ thu hút thuận lợi dòng vốn FDI từ Châu âu, 
mà còn từ nhiều đối tác khác ngoài EU. Nói cách 
khác, EVIPA và EVFTA được kỳ vọng đang và sẽ 
tiếp tục tạo xung lực tích cực cho cả tăng cường 
thương mại Việt Nam-EU, cũng như thu hút FDI 
chất lượng cao từ EU vào Việt Nam.
Quá trình thu hút FDI nói chung và từ EU nói 
riêng, đã góp phần bổ sung động lực tăng trưởng 
kinh tế, tăng thu NSNN, thúc đẩy quá trình tái cấu 
trúc nền kinh tế theo mô hình phát triển dựa trên 
công nghệ hiện đại, hàm lượng tri thức cao, giải 
quyết việc làm và cải thiện thu nhập cho hàng triệu 
lao động Tuy nhiên, nguồn vốn FDI từ EU vẫn 
chưa được khai thác như mong đợi. Doanh nghiệp 
EU thường khó đầu tư vào các lĩnh vực mà mình 
có thế mạnh, do gặp không ít hạn chế về sự minh 
bạch và thuận lợi trong thủ tục nói riêng và quản 
lý nhà nước nói chung về FDI, cũng như yêu cầu 
về chất lượng lao động đào tạo và các điều kiện về 
cơ sở hạ tầng... Hơn nữa, trước khi EVIPA có hiệu 
lực, nguyên tắc giải quyết tranh chấp qua cơ chế 
trọng tài khiến nhà đầu tư EU cảm thấy rủi ro hơn 
khi đầu tư, do họ thường chú trọng các điều khoản 
pháp lý. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thông qua 
cơ chế thường trực hai cấp được quy định trong 
EVIPA sẽ tạo được sự tự tin cho các doanh nghiệp 
EU tham gia đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó, 
các nhà đầu tư Châu âu nói chung còn khá thiếu 
thông tin về thị trường Việt Nam. Từ những vấn đề 
liên quan đến cơ chế chính sách, quyền lao động và 
trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển 
bền vững, cho đến việc công nhận trong ngành ô 
tô, và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các sản phẩm 
như bia, rượu. Đây là vấn đề không chỉ về quảng 
bá thông tin, mà còn do những khác biệt về cơ chế 
quản lý, chính sách đã phần nào làm chùn bước các 
nhà đầu tư.
Vì vậy, Chính phủ Việt Nam đã đề nghị Nhóm 
Ngân hàng Thế giới hỗ trợ xây dựng chiến lược 
và định hướng chiến lược thu hút FDI thế hệ mới 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 144 - tháng 10/2019
cho Việt Nam giai đoạn 2018-2030. Điểm nhấn 
chính của “chiến lược thu hút FDI thế hệ mới” là 
sự chuyển dịch trọng tâm từ thu hút nhà đầu tư 
phù hợp cho “sản phẩm” của Việt Nam sang phát 
triển sản phẩm phù hợp (tức là môi trường kinh 
doanh và điều kiện đầu tư phù hợp) cho loại hình 
đầu tư mà Việt Nam cần trong tương lai, nhờ đó có 
thể tăng tối đa hiệu ứng lan toả và giá trị gia tăng 
của FDI.
Đặc biệt, theo tinh thần Nghị quyết 50-NQ/
TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định 
hướng hoàn thiện thể chể, chính sách, nâng cao 
chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài 
đến năm 2030, việc thu hút FDI vào Việt Nam sẽ 
được siết chặt, chọn lọc hơn, lấy chất lượng, hiệu 
quả, công nghệ và bảo vệ môi trường, gắn chặt với 
yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh là tiêu chí 
đánh giá chủ yếu; ưu tiên dự án có công nghệ tiên 
tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ 
sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có 
tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung 
ứng toàn cầu... Cả nước phấn đấu thu hút FDI với 
giai đoạn 2021 - 2025 vốn đăng ký khoảng 150 - 
200 tỉ USD (30 - 40 tỉ USD/năm) và vốn thực hiện 
khoảng 100 - 150 tỉ USD (20 - 30 tỉ USD/năm); 
giai đoạn 2026 - 2030, số liệu tương ứng là khoảng 
200 - 300 tỉ USD (40 - 50 tỉ USD/năm) và khoảng 
150 - 200 tỉ USD (30 - 40 tỉ USD/năm). Tỉ lệ doanh 
nghiệp sử dụng công nghệ tiên tiến, quản trị hiện 
đại, bảo vệ môi trường, hướng đến công nghệ cao 
tăng 50% vào năm 2025 và 100% vào năm 2030 so 
với năm 2018. Tỉ lệ nội địa hoá tăng từ 20 - 25% 
hiện nay, lên mức 30% vào năm 2025 và 40% vào 
năm 2030. Tỉ trọng lao động qua đào tạo trong cơ 
cấu sử dụng lao động từ 56% năm 2017 lên 70% 
vào năm 2025 và 80% vào năm 2030.
Với tinh thần đó, việc thu hút các dự án chất 
lượng cao từ EU vào Việt Nam sẽ là lựa chọn ưu 
tiên và có thêm nhiều động lực mới.
Đặc biệt, để tăng cường thu hút FDI chất lượng 
cao từ EU vào Việt Nam trong thời gian tới, cần 
thực hiện tốt một số giải pháp nổi bật sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng môi trường thể 
chế, quy hoạch, quảng bá và xúc tiến đầu tư FDI 
Dòng vốn FDI từ EU là động lực lớn thúc đẩy 
cải cách thủ tục hành chính của Việt Nam. Điều này 
xuất phát từ việc doanh nghiệp EU nói chung rất coi 
trọng pháp quyền và có yêu cầu về chất lượng thể 
chế rất mạnh mẽ. Vì vậy, theo tinh thần Nghị quyết 
50-NQ/TƯ, Nhà nước không chỉ tôn trọng, bảo vệ 
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhà đầu 
tư; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu 
tư và người lao động trong doanh nghiệp, mà còn 
cần thúc đẩy quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế, 
chính sách về đầu tư nước ngoài phù hợp xu hướng 
phát triển, tiếp cận chuẩn mực tiên tiến quốc tế và 
hài hòa với các cam kết quốc tế, bảo đảm sự đồng 
bộ, nhất quán, công khai, minh bạch và tính cạnh 
tranh cao; Tạo lập môi trường kinh doanh và năng 
lực cạnh tranh thuộc nhóm ASEAN 4 trước năm 
2021, thuộc nhóm ASEAN 3 trước năm 2030. Theo 
đó, các ban ngành cần phối hợp trong công tác soạn 
thảo và đồng bộ hệ thống pháp lý và quản lý được 
hoàn thiện theo chuẩn quốc tế. Đặc biệt, nhiệm vụ 
của các cơ quan thuộc Chính phủ là nhanh chóng 
thực hiện việc hoàn thiện thể chế chính sách, pháp 
luật đầu tư kinh doanh trong đó có nội dung liên 
quan đến nhà đầu tư nước ngoài. Đây cũng là yếu tố 
giúp nâng cao năng lực cạnh tranh về thể chế và môi 
trường kinh doanh của Việt Nam, đặc biệt trong bối 
cảnh các nhà đầu tư quốc tế đang liên tục tìm kiếm 
các thị trường mới ngoài Trung Quốc. Nền tảng 
pháp lý ưu việt sẽ truyền cảm hứng cho nhà đầu tư 
tin trưởng và cam kết đầu tư lâu dài.
Thời gian tới, cần khẩn trương rà soát và hoàn 
thiện quy hoạch quốc gia về thu hút FDI, với định 
hướng ưu tiên thu hút các dự án FDI có giá trị gia 
tăng cao, công nghệ tiên tiến, quản trị hiện đại, kết 
nối chuỗi cung ứng toàn cầu và có tác động lan tỏa; 
gắn kết hữu cơ với khu vực kinh tế trong nước, phù 
hợp với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới 
mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, năng 
suất và tính cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo 
mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và 
công bằng xã hội. Đây là nội dung trọng tâm, cần 
được phổ biến và quảng bá rộng rãi đến cộng đồng 
doanh nghiệp không chỉ của Việt Nam, mà còn 
của cả EU. Cơ quan xúc tiến đầu tư FDI cần được 
chuyên trách hóa và đưa ra được danh mục dự án 
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 144 - tháng 10/2019
thu hút đầu tư phù hợp với nhu cầu của các doanh 
nghiệp EU, nhất là trong các lĩnh vực sở trường 
của họ là công nghiệp chế biến, chế tạo sử dụng 
công nghệ cao, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, 
các dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ tài chính, ngân 
hàng và viễn thông, vận tải, phân phối
Để giảm sự phân bố không đồng đều của các dự 
án FDI về mặt địa lý, trong chính sách ưu đãi đầu tư 
cần tránh tạo khoảng cách quá lớn giữa các trung 
tâm thu hút đầu tư nước ngoài với các tỉnh thành 
đang khó khăn. Sửa đổi, bổ sung các quy định về 
thủ tục, điều kiện đầu tư, khái niệm về các hoạt 
động đầu tư, về danh mục địa bàn, lĩnh vực, đối 
tượng được áp dụng ưu đãi đầu tư trong các luật về 
đầu tư nước ngoài và các luật có liên quan để thống 
nhất trong thực hiện và bảo đảm phù hợp với các 
cam kết quốc tế của Việt Nam. Bên cạnh đó, cần 
xây dựng thể chế, chính sách ưu đãi vượt trội, cạnh 
tranh quốc tế tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi 
thu hút các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án 
công nghệ cao..., thu hút các nhà đầu tư chiến lược, 
các tập đoàn đa quốc gia đầu tư, đặt trụ sở và thành 
lập các trung tâm nghiên cứu - phát triển (R&D), 
trung tâm đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Xây dựng 
cơ chế khuyến khích, ưu đãi thoả đáng để tăng liên 
kết giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, 
các lĩnh vực cần ưu tiên thu hút; phát triển cụm liên 
kết ngành, chuỗi giá trị, góp phần nâng cao giá trị 
gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và 
vị trí quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu. Khuyến 
khích chuyển giao công nghệ và quản trị cho doanh 
nghiệp Việt Nam. Có chính sách khuyến khích đối 
với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đào tạo, nâng 
cao kỹ năng, trình độ cho lao động Việt Nam; sử 
dụng lao động Việt Nam đã làm việc, tu nghiệp ở 
các quốc gia tiên tiến. Nghiên cứu xây dựng cơ chế 
ưu đãi thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển 
cơ sở hạ tầng cho khu vực miền núi phía Bắc, Tây 
Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
 Cần tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp và 
người lao động từ những tỉnh miền núi phía Bắc, 
Tây Nguyên tiếp cận được các chương trình, nguồn 
lực hỗ trợ từ EU do bản thân các nhà đầu tư EU 
cũng luôn quan tâm đến vấn đề xóa bỏ bất bình 
đẳng xã hội và đói nghèo.
Thứ hai, kiên quyết ngăn chặn các dự án FDI 
chất lượng thấp
Các cơ quan chức năng cần sớm nghiên cứu, 
xây dựng các quy định khắc phục tình trạng “vốn 
mỏng”, chuyển giá, đầu tư “chui”, đầu tư “núp 
bóng”; bổ sung quy định “điều kiện về quốc phòng, 
an ninh” trong quá trình xem xét, cấp giấy chứng 
nhận đăng ký đầu tư (hoặc các văn bản có giá trị 
pháp lý tương đương) đối với dự án đầu tư mới và 
quá trình xem xét, chấp thuận đối với hoạt động 
đầu tư thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, 
phần vốn góp. Xây dựng cụ thể danh mục hạn chế, 
không thu hút đầu tư nước ngoài phù hợp với các 
cam kết quốc tế; ngoài danh mục này, nhà đầu tư 
nước ngoài được đối xử bình đẳng như nhà đầu 
tư trong nước. Xây dựng các tiêu chí về đầu tư để 
lựa chọn, ưu tiên thu hút đầu tư phù hợp với quy 
hoạch, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, địa 
bàn. Xây dựng cơ chế đánh giá an ninh và tiến 
hành rà soát an ninh đối với các dự án, hoạt động 
đầu tư nước ngoài có hoặc có thể ảnh hưởng đến 
an ninh quốc gia. Xây dựng, bổ sung cơ chế khuyến 
khích đối với các doanh nghiệp hoạt động có hiệu 
quả, thực hiện tốt cam kết; phân biệt ưu đãi giữa 
các ngành, nghề đầu tư khác nhau. Có chính sách 
khuyến khích hợp tác, chuyển giao công nghệ dựa 
trên cơ sở thoả thuận, tự nguyện.
áp dụng nguyên tắc ưu đãi đầu tư gắn với việc 
đáp ứng các điều kiện, cam kết cụ thể và cơ chế hậu 
kiểm, yêu cầu bồi hoàn khi vi phạm các cam kết. 
Nâng cao các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về sản 
phẩm, bảo vệ môi trường, tài nguyên và tiết kiệm 
năng lượng phù hợp với tiêu chuẩn của khu vực 
và thế giới. Không xem xét mở rộng, gia hạn hoạt 
động đối với những dự án sử dụng công nghệ lạc 
hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thâm 
dụng tài nguyên. Sửa đổi, bổ sung quy định bảo 
đảm quyền, nghĩa vụ, công nhận và bảo hộ quyền 
sở hữu hợp pháp về tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, 
vốn đầu tư, thu nhập và lợi ích hợp pháp khác của 
nhà đầu tư và chủ thể có liên quan, phù hợp với các 
cam kết quốc tế. Đồng thời có chế tài xử lý nghiêm 
các vi phạm. Sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật 
về lao động, việc làm và tiền lương, bảo đảm hài 
hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 55Số 144 - tháng 10/2019
động theo hướng minh bạch, đáp ứng yêu cầu hội 
nhập quốc tế. Quy định rõ trách nhiệm của nhà đầu 
tư hạ tầng, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong 
xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, trường 
mẫu giáo, cơ sở y tế, văn hoá, thể thao... phục vụ 
người lao động. Quy định rõ trách nhiệm của nhà 
đầu tư về bảo vệ môi trường trong quá trình đầu 
tư, triển khai dự án và hoạt động của doanh nghiệp 
trong suốt thời gian thực hiện dự án theo quy định 
của pháp luật. Rà soát, hoàn thiện các quy định về 
chống độc quyền phù hợp với thông lệ quốc tế; về 
đáp ứng điều kiện tập trung kinh tế theo pháp luật 
cạnh tranh; về bảo đảm quốc phòng, an ninh khi 
nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp đầu tư nước 
ngoài góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại 
doanh nghiệp tại Việt Nam. Xây dựng Luật Chống 
chuyển giá và cơ quan chuyên trách bảo đảm kiểm 
soát, quản lý, ngăn chặn chuyển giá ngay từ khi 
thành lập và trong quá trình hoạt động của doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng cơ chế 
phòng ngừa và giải quyết vướng mắc, khiếu nại, 
khiếu kiện của nhà đầu tư. Nâng cao chất lượng, 
hiệu quả các thiết chế giải quyết tranh chấp và thực 
thi. Hoàn thiện pháp luật để giải quyết có hiệu quả 
những vướng mắc đối với dự án có cam kết chuyển 
giao không bồi hoàn tài sản của nhà đầu tư nước 
ngoài cho Nhà nước hoặc bên Việt Nam sau khi kết 
thúc hoạt động và xử lý các trường hợp nhà đầu tư 
nước ngoài vắng mặt hoặc bỏ trốn trong quá trình 
thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Nghiêm cấm việc cấp, điều chỉnh, quản lý, đàm 
phán dự án đầu tư nước ngoài, ban hành quy định 
ưu đãi, hỗ trợ đầu tư... trái thẩm quyền, trái quy 
định pháp luật. Việc đàm phán, thoả thuận các 
cam kết bảo lãnh Chính phủ (GGU), ký hợp đồng 
BOT, bao tiêu sản phẩm... phải thực hiện đúng quy 
định pháp luật. Chấn chỉnh công tác quản lý, triển 
khai dự án đầu tư, bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã 
hội - môi trường, phù hợp quy hoạch, theo đúng 
các tiêu chí lựa chọn, sàng lọc dự án... Bảo đảm 
chặt chẽ về quy trình, thủ tục cấp, điều chỉnh, thu 
hồi, chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư nước 
ngoài theo đúng quy định pháp luật. Tăng cường 
công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra gắn với nâng 
cao trách nhiệm của chính quyền địa phương 
và người đứng đầu trong chấp hành chủ trương, 
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên 
quan tới đầu tư nước ngoài. Xử lý dứt điểm các dự 
án gây ô nhiễm môi trường, sử dụng đất không 
hiệu quả, kinh doanh thua lỗ nhiều năm, dự án 
không thực hiện đúng cam kết. Phòng ngừa, giải 
quyết sớm, có hiệu quả các tranh chấp liên quan 
đến đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, coi trọng phát triển doanh nghiệp, cải 
thiện các điều kiện hạ tầng, chất lượng nhân lực và 
phát triển các dịch vụ hỗ trợ đầu tư khác
 Các doanh nghiệp trong nước cần chủ động 
nghiên cứu, tiếp cận các doanh nghiệp EU để hiểu 
và đáp ứng nhu cầu của đối tác... 
Đầu tư cơ sở hạ tầng là yếu tố tối quan trọng 
trong việc thu hút FDI từ quốc tế nói chung và EU 
nói riêng. Đặc biệt, nguồn nhân lực trẻ có kỹ năng 
sử dụng internet lớn, phân tích dữ liệu, giỏi công 
nghệ thông tin và nắm bắt nhanh các xu hướng 
công nghệ mới... là những lợi thế cần tiếp tục phát 
huy để thu hút hơn nữa nguồn vốn từ EU. Kịp thời 
ban hành các quy định điều chỉnh các quan hệ 
kinh tế mới, các mô hình, phương thức kinh doanh 
mới... tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh 
doanh của nhà đầu tư và hoạt động quản lý của 
cơ quan nhà nước. Công khai, minh bạch hệ thống 
thông tin kinh tế - xã hội, pháp luật, chính sách, 
quy hoạch, kế hoạch, thị trường... Tăng cường cơ 
chế đối thoại, đổi mới, mở rộng phương thức tiếp 
nhận kiến nghị, phản ánh của nhà đầu tư; xử lý dứt 
điểm, kịp thời các khó khăn, vướng mắc liên quan 
đến các dự án đang thực hiện.
Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin 
quốc gia về đầu tư đồng bộ, liên thông với các lĩnh 
vực lao động, đất đai, thuế, hải quan, tín dụng, ngoại 
hối... và các địa phương. Nâng cao chất lượng công 
tác thống kê, bảo đảm kịp thời, đầy đủ, chính xác 
và phù hợp với thông lệ quốc tế. Phối hợp chặt chẽ 
với các hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế 
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bình chọn, 
vinh danh các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; 
định kỳ bình chọn, vinh danh các nhà đầu tư nước 
ngoài tiêu biểu.
KINH TEÁ TAØI CHÍNH
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN56 Số 144 - tháng 10/2019
ngaân Haøng
tRöôùc tHaùcH tHöùc basel ii
VIỆT ANH
Đến nay, đã có 11 ngân hàng đáp ứng yêu cầu tại Thông tư số 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn theo phương 
pháp tiêu chuẩn của Basel II, có hiệu lực từ ngày 
1/1/2020. Trong số đó, một số ngân hàng nhỏ hoàn 
thành trước hạn, trong khi một số ngân hàng lớn 
và ở trong diện thí điểm hoàn thành sớm lại đang 
phải gồng mình chạy đua.
Giải pháp cho các ngân hàng không kịp 
tiến độ
Mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước 
(NHNN) đã quyết định Ngân hàng trách nhiệm 
hữu hạn một thành viên Shinhan Việt Nam (SHB 
VN) áp dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN. Theo 
đó, SHB VN chịu trách nhiệm: Thực hiện chuyển 
hoạt động chính thức từ hệ thống chính sang hệ 
thống dự phòng đối với hệ thống GIS/RISK theo 
đúng kế hoạch; tuân thủ quy định tại Thông tư 
41/2016/TT-NHNN và thực hiện chế độ báo cáo 
thống kê về tỷ lệ an toàn vốn đối với Thông tư 
41/2016/TT-NHNN theo hướng dẫn của NHNN...
Trước Shinhan, đã có 10 ngân hàng thương mại 
trong nước đáp ứng yêu cầu này. Đến nay, có 17 
ngân hàng thương mại đăng ký áp dụng Thông tư 
41/2016/TT-NHNN trước thời hạn (bao gồm 15 
ngân hàng thương mại trong nước và 2 ngân hàng 
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam).
Như vậy, tiến độ thực hiện các tiêu chuẩn này 
đang bị chậm so với lộ trình của Chính phủ. Nghị 
quyết 24/2016/QH14 của Quốc hội, Nghị quyết 27/
NQ-CP của Chính phủ nêu rõ mục tiêu: “Đến năm 
2020, cơ bản các ngân hàng thương mại có mức 
vốn tự có theo Chuẩn mực của Basel II, trong đó, 
có ít nhất 12 - 15 ngân hàng thương mại áp dụng 
thành công Basel II”.
Ngay từ năm 2013, có 10 ngân hàng được chọn 
để thí điểm là những ngân hàng lớn nhất lúc bấy 
giờ, bao gồm Vietcombank, BIDV, VietinBank, 
Sacombank, MB Bank, Techcombank, ACB, VIB, 
Maritime Bank (MSB) và VPBank.
Đến thời điểm này, BIDV và VietinBank vẫn 
chưa thể hoàn thành việc này. Trong khi đó, các 
ngân hàng không ở trong diện thí điểm là OCB và 
TienphongBank lại về đích trước hạn. Riêng với 
BIDV, theo nguồn tin từ Ngân hàng Nhà nước, tổ 
chức tín dụng này đã đăng ký sẽ hoàn tất việc tăng 
vốn trong quý III và về đích Thông tư 41/2016/
TT-NHNN đúng hạn.
Với các ngân hàng không thể hoàn tất việc này 
theo đúng thời hạn tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN, 
Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư 36/2014/
TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an 
toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh 
ngân hàng nước ngoài đã mở ra một “đường thoát”. 
Theo đó, các ngân hàng này sẽ áp dụng theo quy định 
tại Thông tư thay thế Thông tư 36.
Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong quá trình 
nghiên cứu xây dựng Thông tư thay thế Thông tư 
36 và báo cáo của các ngân hàng về khả năng áp 
dụng Thông tư 41/2016/TT-NHNN, một số ngân 
hàng thương mại không có khả năng thực hiện 
Thông tư 41/2016/TT-NHNN kể từ ngày 1/1/2020 
do đang thực hiện quá trình sáp nhập, hợp nhất, 
gặp khó khăn về năng lực tài chính, cơ cấu lại danh 
mục tài sản.
Do đó, để tạo điều kiện cho các ngân hàng này, 
Ngân hàng Nhà nước bổ sung điều khoản cho phép 
các ngân hàng thương mại chưa đáp ứng được tỷ 
lệ an toàn vốn theo Thông tư 41/2016/TT-NHNN 
kể từ ngày 1/1/2020 thì thực hiện tỷ lệ an toàn vốn 
theo Thông tư thay thế Thông tư 36. Dự thảo Thông 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 57Số 144 - tháng 10/2019
tư thay thế Thông tư 36 cũng đặt ra các quy định 
khắt khe hơn về hệ số rủi ro và đòi hỏi cao hơn về 
quản trị so với quy định cũ.
Những cách làm căn cơ
Bình luận về tiến độ đạt chuẩn Basel II theo 
quy định tại Thông tư 41/2016/TT-NHNN, TS. 
Bùi Quang Tín, chuyên gia ngân hàng cho rằng, 
việc 100% ngân hàng về đích đúng hạn của Thông 
tư 41/2016/TT-NHNN là một thách thức rất lớn. 
Theo đó,Basel II có ba trụ cột, bao gồm: tỷ lệ an 
toàn vốn tối thiểu, minh bạch hóa thông tin, thay 
đổi hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ. Trong đó, 
trụ cột khó nhất đối với các ngân hàng Việt Nam 
hiện nay là hệ số an toàn vốn (CAR). Để cải thiện 
CAR, các ngân hàng có thể tăng vốn tuy nhiên cách 
này khó thực hiện trong điều kiện thị trường chứng 
khoán hiện nay.
Bên cạnh đó, cả 3 trụ cột đó đều phải thực hiện 
trên nền tảng cơ sở dữ liệu và hệ thống công nghệ 
thông tin. Việc nâng cấp 2 nền tảng này là không 
dễ dàng với các ngân hàng, đòi hỏi đầu tư lớn, có 
thể tốn kém đến hàng chục triệu USD và cần phải 
tiến hành đồng bộ.
Mặt khác, theo ông Tín, điều khó khăn hơn nữa 
không phải chỉ nằm ở tổng vốn hay tổng tài sản 
mà là vấn đề làm sao để tính toán được theo chuẩn 
Thông tư 41/2016/TT-NHNN là cực khó. Tổng tài 
sản có rủi ro xét tới cả rủi ro thị trường là loại rủi 
ro rất khó để đo lường, đây là một hàm số đa biến. 
Việc tính cả rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường 
cũng sẽ đặt ra cho ngân hàng bài toán làm thế nào 
để kiểm soát hai danh mục này, đặc biệt là danh 
mục trading là nơi tiềm ẩn rủi ro thị trường, rủi ro 
tín dụng đối tác.
Về hiện tượng một số ngân hàng quy mô nhỏ 
lại đáp ứng được các tiêu chuẩn này trong khi các 
ngân hàng quy mô lớn lại chậm chân, nguồn tin 
của Ngân hàng Nhà nước cho biết, một số ngân 
hàng nhỏ đã năng động hơn trong việc cơ cấu lại 
danh mục tài sản, rà soát lại quá trình quản lý tài 
sản bảo đảm để đạt hiệu quả tốt đồng thời với việc 
tăng vốn. Đây là cách làm căn cơ và mang lại hiệu 
quả lâu bền cho công tác quản trị của ngân hàng.
Trong khi đó, ông Tín cho rằng, sự chuyển đổi 
của ngân hàng lớn là khá khó khăn bởi họ có cơ 
sở dữ liệu rất lớn, hệ thống cồng kềnh hơn. Do đó, 
việc Ngân hàng Nhà nước đề xuất cho các ngân 
hàng chưa đáp ứng yêu cầu của Thông tư 41/2016/
TT-NHNN thì áp dụng theo Thông tư thay thế 
Thông tư 36 là phù hợp.

File đính kèm:

  • pdfde_tang_cuong_thu_hut_fdi_chat_luong_cao_tu_eu.pdf