Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục Đại học
Bài viết đề cập tới lợi ích của việc đầu tư cho giáo dục đại học (GDĐH),
một số xu hướng đầu tư và chia sẻ chi phí GDĐH trên thế giới. Tỷ lệ chi
Ngân sách Nhà nước (NSNN) trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng
lên, đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH tăng mạnh, tỷ trọng đầu tư từ
NSNN cho một sinh viên đại học giảm xuống, tăng thu học phí và mở rộng
cho sinh viên vay vốn là các xu hướng thực hiện chia sẻ chi phí đang
được áp dụng ở một số nước trên thế giới. Khuyến nghị đối với Việt Nam,
cần hoàn thiện chính sách học phí để tăng cường đầu tư của cá nhân người
học cho GDĐH và yêu cầu người học chia sẻ chi phí GDĐH với Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước được đầu tư chủ yếu cho hoạt động nghiên cứu và
phát triển (R&D) của các cơ sở GDĐH và những lĩnh vực cần ưu tiên trong
GDĐH. Cùng với việc tăng học phí, Nhà nước cần hoàn thiện chính sách
tín dụng cho sinh viên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục Đại học
71 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 207- Tháng 8. 2019 Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học Hoàng Thanh Huyền Khoa Kế toán- Kiểm toán, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 23/07/2019 Ngày nhận bản sửa: 14/08/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019 Bài viết đề cập tới lợi ích của việc đầu tư cho giáo dục đại học (GDĐH), một số xu hướng đầu tư và chia sẻ chi phí GDĐH trên thế giới. Tỷ lệ chi Ngân sách Nhà nước (NSNN) trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng lên, đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH tăng mạnh, tỷ trọng đầu tư từ NSNN cho một sinh viên đại học giảm xuống, tăng thu học phí và mở rộng cho sinh viên vay vốn là các xu hướng thực hiện chia sẻ chi phí đang được áp dụng ở một số nước trên thế giới. Khuyến nghị đối với Việt Nam, cần hoàn thiện chính sách học phí để tăng cường đầu tư của cá nhân người học cho GDĐH và yêu cầu người học chia sẻ chi phí GDĐH với Nhà nước. Ngân sách Nhà nước được đầu tư chủ yếu cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của các cơ sở GDĐH và những lĩnh vực cần ưu tiên trong GDĐH. Cùng với việc tăng học phí, Nhà nước cần hoàn thiện chính sách tín dụng cho sinh viên. Từ khóa: đầu tư cho giáo dục đại học, chia sẻ chi phí Investment and cost sharing in higher education Abstract: The article addresses the benefits of investing in higher education (HE) and some trends of investment and cost sharing in higher education in the world. The increase of proportion of state budget spending on GDP, and private investment for higher education, the decrease of proportion of state investment per tertiary student, the increase in tuition and expansion for student loans has proved positive trend in higher educationfinance in some countries around the world. Recommendation for Vietnam is that it is necessary to complete the tuition policy to increase the investment of students and their family, and ask them to share higher education cost. The State budget is mainly invested in research and development of higher education institution. Along with the increasing tuition fee policy, the State needs to improve credit policies for students. Keywords: Investment in higher education, Cost sharing. Huyen Thanh Hoang, PhD student Email: huyenht@hvnh.edu.vn Accounting & Auditing Falculty, Banking Academy of Vietnam Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201972 Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học 1. Giới thiệu Đầu tư GDĐH là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế học, hàm ý quá trình sử dụng phối hợp các nguồn lực trong một khoảng thời gian xác định nhằm đạt được kết quả hoặc một tập hợp các mục tiêu xác định trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định (Từ Quang Phương và Phạm Văn Hùng, 2013). Các nguồn lực được huy động vào đầu tư có thể là tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ, vốn, công nghệ Các kết quả thu được của hoạt động đầu tư có thể là sự gia tăng về mặt giá trị của các tài sản tài chính hay sự tăng thêm năng lực sản xuất, năng lực phục vụ sản xuất hay sự gia tăng tài sản trí tuệ hoặc năng suất lao động của nguồn nhân lực. Các kết quả thu được từ hoạt động đầu tư có thể là kết quả trực tiếp cho nhà đầu tư, được thể hiện ở lợi nhuận mà nhà đầu tư thu được. Kết quả này cũng có thể là gián tiếp cho toàn bộ nền kinh tế xã hội, thể hiện qua nâng cao mức đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và sự phát triển của từng cá nhân trong xã hội, nâng cao trình độ dân trí (Từ Quang Phương và Phạm Văn Hùng, 2013). Khi đề cập tới đầu tư cho GDĐH, tác giả Phùng Xuân Nhạ và Phạm Xuân Hoan (2012) cũng cho rằng: “Giáo dục là một lĩnh vực đầu tư, đầu tư tiền vốn kinh phí và thời gian để nâng cao trình độ, nhằm nâng cao năng suất lao động”. Dưới góc độ cá nhân người học, thì đầu tư cho GDĐH được hiểu là “quá trình chủ thể đầu tư sử dụng các nguồn lực trong một khoảng thời gian nhất định để cá nhân được giáo dục nhằm đạt tới trình độ văn hóa, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghề nghiệp cao hơn, giúp mang lại cho chủ thể đầu tư những lợi ích trong tương lai mà được kỳ vọng là có giá trị lớn hơn so với các nguồn lực được sử dụng cho quá trình giáo dục đó” (Đặng Thị Minh Hiền, 2016). Cùng với những lợi ích mà GDĐH đem lại cho cộng đồng và cá nhân người học, các quốc gia, các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân ngày càng sẵn sàng đầu tư nhiều nguồn lực cho GDĐH. Đồng thời, theo quá trình phát triển, nhu cầu học đại học ngày càng tăng cao, vượt xa khả năng bao cấp của ngân sách chính phủ. Vì vậy, ở đa số các nước trên thế giới, chính phủ không còn bao cấp cho GDĐH như trước đây nữa, mà thay vào đó là xu hướng chia sẻ gánh nặng tài chính với người học, thông qua phương thức chủ yếu là tăng học phí. Tuy nhiên, điều này đã vấp phải những phản đối không ít từ phía người dân, vốn đã quen với sự bao cấp của nhà nước trong GDĐH. Tuy vậy, GDĐH được coi là hàng hóa cá nhân và mang tính đầu tư, đồng thời nó đem lại lợi ích trong tương lai cho người học thông qua thu nhập tăng lên và tri thức tích lũy được (WB, 2008). Chính vì vậy, đầu tư cho GDĐH cần được thực hiện đồng thời giữa các bên và tài chính GDĐH cần được chia sẻ giữa Nhà nước và người học. Chia sẻ chi phí được hiểu là sự dịch chuyển một phần gánh nặng chi phí GDĐH từ chỗ “trông cậy” hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn vào chính phủ, thực chất là những người đóng thuế, sang một số nguồn cung cấp tài chính khác nhờ vào phụ huynh và/hoặc sinh viên, dưới dạng học phí hoặc phí sử dụng, nhằm chi trả toàn bộ các chi phí cho cơ sở vật chất và đội ngũ giảng dạy mà cơ sở giáo dục hay chính phủ cung cấp trước đây (Johnstone, 2003). Thuật ngữ chia sẻ chi phí đã được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trên thế giới về vấn đề tài chính cho GDĐH. Trong một báo cáo về giáo dục và đào tạo Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 73 HOÀNG THANH HUYỀN của Liên minh Châu Âu (2014), khái niệm chia sẻ chi phí được sử dụng như thuật ngữ về “sự chuyển dịch dần chi phí nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa nguồn tài chính công và tài chính tư nhân” cho GDĐH. Chia sẻ chi phí một mặt mô tả thực tế chi phí GDĐH đang được cả nhà nước và sinh viên chi trả, mặt khác nó cũng hàm ý về đổi mới chính sách tài chính cho GDĐH, thay vì chính phủ bao cấp phần lớn chi phí GDĐH như trước đây, thì sinh viên sẽ phải cùng chia sẻ chi phí này với nhà nước. Bài viết này đề cập tới những lợi ích của việc đầu tư cho GDĐH và xu hướng chia sẻ chi phí GDĐH của một số nước trên thế giới, từ đó rút ra một số khuyến nghị cho Việt Nam trong việc thực hiện chia sẻ chi phí GDĐH và đổi mới chính sách tài chính GDĐH nhằm đạt được mục tiêu “chất lượng” và “công bằng” trong GDĐH ở Việt Nam hiện nay. 2. Lợi ích của đầu tư cho giáo dục đại học Lợi ích của GDĐH rất lớn và cả nhà nước và tư nhân đều gặt hái lợi ích từ thành quả của dịch vụ này. Theo Alexander Griboyeov (1817), một nhà biên kịch Nga thế kỷ XIX, cho rằng: “Con người càng được giáo dục nhiều thì mức độ hữu dụng của họ đối với đất nước của họ càng tăng lên”. Ở Việt Nam, Nghị quyết TW8, Khóa XI (2013) của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội”. Chính vì vậy, đầu tư cho giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng ngày càng nhận được sự quan tâm của Nhà nước, người học, nhà trường, và các lực lượng khác trong xã hội. Đối với Nhà nước, việc tăng cường đầu tư cho GDĐH thông qua chính sách học phí thấp trở nên không có hiệu quả, mà học phí cần để người học tự “đầu tư”. Đối với mỗi cá nhân, lợi ích của việc đầu tư cho GDĐH thể hiện ở các khía cạnh sau đây: Một là, đầu tư cho GDĐH được coi là khoản đầu tư cho tương lai của mỗi con người. GDĐH là một loại dịch vụ đặc thù, tiêu thụ nó là quá trình tác động thẳng từ nhà cung cấp (người dạy) đến người tiêu dùng (người học). Kiến thức mà nhà trường truyền tải, người học có thể lưu giữ và tích lũy qua năm tháng. Những kiến thức này sẽ là phương tiện, giúp cho người học có khả năng tạo ra sức lao động, có tri thức và tạo ra hiệu quả cao hơn so với trường hợp không có nó (Đặng Thị Lệ Xuân, 2017). Như vậy, có thể thấy rằng GDĐH chính là phương tiện nâng cao năng suất, hiệu quả của người lao động trong tương lai. Tri thức được bồi đắp qua nhiều năm tháng thông qua quá trình tích lũy, cho phép con người phát triển thêm năng lực cá nhân cho tới khi có thể sử dụng được. Sự khác biệt về khả năng tích lũy của bản thân người học đã tạo nên những giá trị riêng của giáo dục. Đặc biệt, trong hệ thống giáo dục quốc dân thì GDĐH là trình độ mà người học có thể tích lũy được kiến thức một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất và có liên hệ mật thiết với trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như năng lực giải quyết công việc của các cá nhân (Phùng Xuân Nhạ và Phạm Xuân Hoan, 2012). Nói một cách đầy đủ, GDĐH là sản phẩm có giá trị tích lũy và đầu tư cho GDĐH là đầu tư cho tương lai. Mặt khác, ở nhiều nước trên thế giới, giá trị kinh tế ngày càng tăng của việc tiếp Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201974 tục học sau trung học, được minh chứng bằng sự chênh lệch mỗi ngày một lớn trong thu nhập bình quân của những người tốt nghiệp đại học so với những người không tham gia học đại học (Arthur M. Hauptman, 2006). Vì vậy, GDĐH đang dần chuyển từ lĩnh vực truyền thống như dạy học, phục vụ hành chính công sang xu hướng đáp ứng nhu cầu của thị trường và của lực lượng lao động. Trong bối cảnh tỷ trọng nguồn lực công cho GDĐH ngày càng giảm thì quan niệm về trường đại học như là một loại dịch vụ công ngày càng lấn át. Hai là, GDĐH được coi là hàng hóa cá nhân. Trên thế giới tồn tại hai quan điểm khác nhau về tính chất của dịch vụ GDĐH. Theo quan điểm của UNESCO (2015), GDĐH có đặc trưng của hàng hóa công cộng, đó là không có tính cạnh tranh và tính loại trừ. Theo đó, mọi người đều có thể sử dụng hàng hóa và dịch vụ chung với nhau mà không ảnh hưởng gì tới nhau và rất khó hoặc không thể thu tiền đối với hàng hóa này một khi nó được cung cấp. Tuy nhiên, theo ý nghĩa kinh tế học và dựa trên diễn biến thực tế của thế giới thì GDĐH chứa đựng nhiều yếu tố của hàng hóa tư nhân (WB, 2008). Hàng hóa tư nhân có cả hai đặc tính, là tính “loại trừ” (excludability), và tính ganh đua (rivalry). Tính loại trừ thể hiện ở khả năng ngăn cản việc sử dụng hàng hóa của ai đó hay không khi nó được cung cấp, tức là quá trình tiêu dùng hàng hóa cá nhân này có ảnh hưởng tới việc hưởng thụ hàng hóa hay dịch vụ đó của người khác hay không, thông thường thể hiện qua giá (tiền). Tính “ganh đua” được thể hiện ở chỗ quá trình tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của cá nhân này có ảnh hưởng tới việc hưởng thụ hàng hóa và dịch vụ đó của người khác hay không. Dịch vụ GDĐH có cả hai thuộc tính trên, nghĩa là chúng ta hoàn toàn có thể thu tiền đối với dịch vụ GDĐH một khi nó được cung cấp. Mặt khác, một sinh viên giành được một chỗ học trong trường đại học thì đương nhiên loại trừ và ảnh hưởng đến việc sử dụng của một sinh viên khác. Như vậy, GDĐH có đầy đủ thuộc tính của hàng hóa cá nhân, được thụ hưởng trực tiếp từ người tiêu dùng và có thể thu được tiền từ người sử dụng nên GDĐH hoàn toàn có thể được cung cấp bởi khu vực tư nhân. Hơn nữa, vì là hàng hóa cá nhân nên nó có thể được cung cấp theo cơ chế thị trường trên cơ sở cung cầu Hình 1. Xu hướng lợi ích ròng của các cấp học Nguồn: Đặng Thị Lệ Xuân (2017) trích từ George Psacharopoulos (1994) Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 75 HOÀNG THANH HUYỀN và cơ chế giá (Joseph E. Sticglitz, 1995). Ba là, GDĐH là bậc học có khả năng thu hồi vốn đầu tư nhanh nhất. Bởi lẽ người học sau khi tốt nghiệp đại học có khả năng tìm việc làm với mức thu nhập cao hơn và dễ dàng hơn so với các cấp học khác (Đặng Thị Minh Hiền, 2009). Thống kê cho thấy, thu nhập của cá nhân dường như phụ thuộc chặt chẽ vào bằng cấp họ có. Theo số liệu của Pew (2013), những người trong khoảng 25- 32 tuổi tốt nghiệp đại học đang làm việc toàn thời gian kiếm được nhiều tiền hơn những người cùng tuổi chỉ tốt nghiệp trung học khoảng 17.500USD/năm đối với cả 2 nhóm giới tính. Robert F. Bruner (2012) đã chỉ ra rằng, ở Mỹ người có bằng cấp cao thì thu nhập cũng cao hơn và ít thất nghiệp hơn. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, học vấn còn có tác động mạnh mẽ tới khả năng tìm việc làm, nhất là đối với phụ nữ. Chẳng hạn như, ở Ý tỷ lệ có việc làm đã tăng từ 34% lên đến 81% nếu được giáo dục thêm từ trình độ dưới trung học phổ thông lên đến đại học và sau đại học. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, các con số tương ứng của phụ nữ là 22% và 71% (Michael & Kretovics, 2004). Bốn là, đầu tư cho GDĐH có thể đem lại mức sinh lời cao nhất. Một số nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng, các cá nhân khi đầu tư cho GDĐH thì có mức sinh lời cao hơn nhiều (khoảng 15% đến 20%/ năm) so với đầu tư vào nhà cửa, bất động sản (chỉ khoảng 1%) (Robert F. Bruner, 2012). Hơn nữa, với các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam), lợi ích mà GDĐH mang lại cho các cá nhân cao hơn nhiều so với ở các nước phát triển, ở Hồng Kông là 25,7%, ở Malaysia là 34,5%, ở Singapore là 25,4%, ở Brazil là 28,2% (George Psacharopoulos, 1994). 3. Xu hướng đầu tư và chia sẻ chi phí giáo dục đại học trên thế giới Tỷ lệ chi NSNN cho GDĐH trong GDP tăng lên Tỷ lệ % chi NSNN so với GDP tăng lên là một trong những tiêu chí được dùng để đo lường mức độ đầu tư của nhà nước cho giáo dục đào tạo nói chung và GDĐH nói riêng. Giữa các quốc gia khác nhau, tỷ lệ này cũng rất khác nhau do những đặc điểm, sức mạnh về kinh tế và tình hình chính trị xã hội của quốc gia đó. Hình 3 thể hiện tỷ lệ % chi NSNN cho GDĐH trong GDP ở một số nước công nghiệp phát triển và khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn 2005- 2015. Như vậy có thể thấy rằng, xu hướng chung là đầu tư Hình 2. Thuộc tính của một số loại hàng hóa Nguồn: Joseph E. Sticglitz (1995) Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201976 của Nhà nước cho GDĐH ở đa số các nước phát triển và đang phát triển trên thế giới đã và đang tăng lên. Một số nước công nghiệp phát triển như Anh, Áo, Úc, Bỉ, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Thụy Điển có tỷ lệ % chi NSNN cho GDĐH trong GDP tăng lên rõ nét. Ba quốc gia ở Đông Nam Á có tỷ lệ chi ngân sách tăng đáng kể là Hàn Quốc, Indonesia, và Singapore. Tại bốn nước Bắc Âu: Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển, nơi có tiềm lực kinh tế mạnh và theo mô hình Nhà nước phúc lợi, chi ngân sách cho GDĐH rất cao và cao hơn tất cả các nước (Hình 3), đạt mức xấp xỉ 2% trong giai đoạn 2010- 2015. Chỉ có Phần Lan có xu hướng cắt giảm chi tiêu ngân sách cho GDĐH từ 2,08% năm 2010 xuống còn 1,89% năm 2015, ba nước còn lại vẫn duy trì ổn định tỷ lệ này và có xu hướng tăng lên. Mặc dù vậy, trong giai đoạn 2005- 2 ... P Nước 2002 2012 2017 Anh 0,55 0,56 0,5 Áo 0,68 0,82 0,92 Bỉ 0,54 0,67 0,83 Đan Mạch 0,74 1,01 1,07 Đức 0,75 0,92 0,93 Tây Ban Nha 0,47 0,61 0,54 Thụy Sĩ 0,92 1,05 0,97 Nguồn: European Commission (2019) Bảng 2. Tỷ lệ đóng góp của nhà nước và tư nhân cho cơ sở GDĐH tại một số nước OECD năm 2006, 2011, 2013 Đơn vi: % Nước 2006 2011 2013 % nhà nước % tư nhân % nhà nước % tư nhân % nhà nước % tư nhân Anh 64,8 35,2 30,2 69,8 45,4 54,6 Canada 53,4 46,6 57,4 42,6 37,2 62,8 NewZealand 63 37 64,5 35,5 31,1 68,9 Mỹ 34 66 34,8 65,2 39,6 60,4 Úc 47,6 52,4 45,6 54,4 34,5 65,5 Áo 84,5 15,5 88,9 11,1 50,9 49,1 Bỉ 90,6 9,4 90,1 9,9 55,6 44,4 Pháp 83,7 16,3 80,8 19,2 57 43 Đức 85 15 84,7 15,3 44,5 55,5 Tây Ban Nha 78,2 21,8 77,5 22,5 45,1 54,9 Ý 73 27 66,5 33,5 51,1 48,9 Đan Mạch 96,4 3,6 94,5 5,5 56,5 43,5 Phần lan 95,5 4,5 95,9 4,1 57,5 42,5 Na Uy 97 3 95,9 4,1 55,9 44,1 Thụy Điển 89,1 10,9 89,5 10,5 52,4 47,6 Hàn Quốc 23,1 76,9 27 73 31,8 68,2 Nhật Bản 32,2 67,8 34,5 65,5 42,7 57,3 Nguồn: OECD (2013) và tính toán của tác giả Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201978 như Mỹ là 476,5 tỷ USD, Trung Quốc là 370,6 tỷ USD, tiếp theo là Nhật Bản với mức chi phí là 170,5 tỷ USD, Đức có mức chi 109,8 tỷ USD, Hàn Quốc là 73,2 tỷ USD. Khi tính về chia sẻ trong tổng chi phí cho R&D trên toàn thế giới thì các nước trên đạt tỷ lệ cao nhất, lần lượt là 26,4%, 20,6%, 9,5%, 6,1% và 4,1%. Đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH tăng mạnh Đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH có xu hướng tăng lên mạnh mẽ. Bảng 2 cho thấy tỷ lệ đóng góp của khu vực tư nhân cho GDĐH trong tổng nguồn thu của trường tăng lên ở hầu hết các quốc gia thuộc khối OECD trong giai đoạn 2006- 2013. Nguồn tài chính của các trường đại học được phân chia thành đóng góp từ hai khu vực nhà nước và tư nhân. Số liệu cũng cho thấy tỷ lệ đóng góp của khu vực nhà nước cho cơ sở GDĐH giảm mạnh khi so sánh với khu vực tư nhân. Điển hình là ở các nước như New Zealand, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Ý và 4 nước Bắc Âu: Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển. Tuy vậy, một số quốc gia không theo xu hướng chung, có tỷ trọng đầu tư của Nhà nước cho GDĐH tăng lên trong cả giai đoạn là Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản. Các nước này đã tăng tỷ lệ đóng góp của Nhà nước trong tổng nguồn thu của nhà trường lên từ 5- 10%. Tuy nhiên, trong tổng đầu tư cho GDĐH, thì đầu tư của khu vực tư nhân vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trên 60%), lần lượt là năm 2013 ở Mỹ và ở Hàn Quốc là 60,4% và 68,2%, ở Nhật Bản năm 2011 là 65,5%. Số liệu Bảng 2 cho thấy, Anh là nước có tỷ lệ đóng góp của Nhà nước cho GDĐH giảm mạnh, từ 64,8% năm 2006 xuống còn 30,2% năm 2011. Năm 2011, tỷ lệ đóng góp của tư nhân cho giáo dục đạt mức 69,8%, cao hơn rất nhiều so với các nước phương Tây khác. Tuy nhiên, theo De Boer, Enders và Schimank (2009), cải cách GDĐH ở Anh theo hướng sử dụng cơ chế thị trường có vẻ đã quá đà và gây ra một số hệ quả bất lợi. Các trường đại học không có thành tựu nổi bật sẽ khó thu hút kinh phí dành cho nghiên cứu và trở thành cơ sở chỉ chuyên về giảng dậy. Điều này đi ngược với mục tiêu xây dựng trường đại học có hoạt động đa dạng, đáp ứng nhu cầu của sinh viên. Chính vì vậy, đầu tư của khu vực Nhà nước cho các cơ sở GDĐH sau đó đã phục hồi, tăng lên 45,4% vào năm 2013. Tỷ trọng đầu tư công cho một sinh viên vẫn giảm nhưng tốc độ chậm lại Số liệu của Unesco (1998) cho thấy, chi tiêu của chính phủ cho một sinh viên đại học (tính theo tỷ lệ %) so với tổng sản phẩm quốc gia (GNP) bình quân đầu người trong giai đoạn 1980- 1995 đã giảm đi một nửa ở hầu hết các nước trên thế giới (Varghese, 2001). Theo số liệu của Ngân hàng thế giới (WB, 2015), chi tiêu của Chính phủ cho một sinh viên không chỉ cho từng nước riêng rẽ mà còn được tính cho một số các nhóm nước (Bảng 3). Số liệu cho thấy xu hướng giảm tỷ trọng chi tiêu công trên một sinh viên đại học vẫn tiếp tục trong giai đoạn 1998- 2010 ở các khu vực khác nhau trên thế giới, tuy nhiên tốc độ giảm đã chậm lại. Số liệu ở Bảng 4 cho thấy chi tiêu Chính phủ cho một sinh viên đại học theo tỷ lệ % so với GDP bình quân đầu người của các nước trong giai doan 2012- 2015. Ở đa số các nước, chi tiêu công cho một sinh viên đại học so với GDP bình quân đầu người Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 79 HOÀNG THANH HUYỀN giảm mạnh trong giai đoạn 2005- 2012, và giảm nhẹ ở giai đoạn tiếp theo 2012- 2015, điển hình là các nước Áo, Đan Mạch, Mỹ, Na Uy, Nhật Bản. Singapore, Malaysia cũng có tỷ lệ chi tiêu công giảm trong giai đoạn 2010- 2014. Một số nước không tuân theo xu hướng chung về giảm chi tiêu Chính phủ cho một sinh viên đại học tính theo tỷ lệ % GDP Bảng 3. Chi tiêu Chính phủ cho một sinh viên đại học của một số khu vực trên thế giới Đơn vi: % GDP Nước 1998 2000 2003 2005 2008 2010 2011 Các nước OECD thu nhập cao 31,4 28,1 26,3 23,6 24 26,7 27,8 Các nước thành viên OECD 32,0 28,1 27,2 24,1 24,4 28 28,4 Khu vực Trung Âu và Baltics 33,5 31,9 26,1 21,8 20,0 24,1 20,6 Khu vực Châu Âu và Trung Á - - 27,1 24,4 25,0 27,1 24,5 Các nước đang phát triển khu vực Mỹ Latin và Caribbean - - 39,1 32,6 - - 29,6 Nguồn: WB (2015) Bảng 4. Chi tiêu của chính phủ cho một sinh viên đại học theo tỷ lệ % so với GDP bình quân đầu người ở một số nước trên thế giới giai đoạn 2005- 2015 Nước 2005 2010 2012 2014 2015 Anh 30,4 24,5 40,43 41,41 35,49 Áo 48,4 37,9 37,06 35,82 35,96 Bỉ 33,7 34,8 - - 32,32 Đan Mạch 54,1 54,3 41,90 43,13 - Mỹ 22,2 20,9 21,93 21,30 - Na Uy 48,8 44,3 40,54 42,40 37,32 New Zealand 25,0 30,9 28,08 26,38 26,92 Phần Lan 32,9 36,8 36,01 35,80 34,55 Pháp 33,5 37,2 34,07 33,43 32,97 Tây Ban Nha 22,3 28,0 23,85 22,99 22,94 Thụy Điển 38,2 39,6 41,63 40,98 37,71 Úc 21,7 21,4 19,11 21,92 21,54 Ý 21,1 24,4 24,53 26,27 25,26 Nhật Bản 19,0 25,4 - - 15,27 Hàn Quốc 8,2 - - 26,35 25,22 Malaysia - 47,0 44,26 - - Singapore - 27,4 25,16 21,27 - Thailand 25,5 17,0 18,25 18,17 - Việt Nam - 39,8 32,81 34,50 - Nguồn: Unesco (2015) Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201980 bình quân đầu người, đó là Anh, Ý, Hàn Quốc. Đây là những nước có chi tiêu công cho một sinh viên đại học không cao, xấp xỉ 20%. Vì thế, các nước này khi tăng tỷ lệ chi tiêu công cho GDĐH thì con số này cũng chỉ ngang bằng với các nước khác trong khu vực. Thái Lan, Việt Nam có tỷ lệ này giảm trong giai đoạn 2010- 2012, ở Việt Nam tỷ lệ này giảm từ 39,8% xuống 32,81%, nhưng lại tăng nhẹ trong giai đoạn tiếp theo. Trong khi tài trợ của Nhà nước cho một sinh viên đại học có xu hướng giảm xuống thì chi phí đào tạo một sinh viên lại có xu hướng tăng lên do một số nguyên nhân sau đây: - Chi trả tiền lương cho đội ngũ giảng viên, cán bộ đang tăng lên: Trong các nền kinh tế dựa vào tri thức, nhu cầu về lao động tri thức tăng lên, do vậy, tiền lương giảng viên có xu hướng tăng nhanh hơn tiền công bình quân trong xã hội. - Các trường đại học đang đổi mới chương trình đào tạo và mở những ngành đào tạo mới đáp ứng nhu cầu thị trường, do vậy chi phí đào tạo tăng cao. - Chi phí đầu tư cho công nghệ, nhất là các ngành vật lí, kỹ thuật và y khoa của các trường đại học nghiên cứu đang tăng nhanh. Để giải quyết với vấn đề tài chính cho các cơ sở GDĐH, nhiều Chính phủ đã áp dụng chính sách chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước và người học, đồng thời tăng cường các hoạt động nhằm tạo thu nhập cho nhà trường. 4. Kết luận và khuyến nghị cho Việt Nam Bài viết đề cập đến lợi ích của việc đầu tư cho GDĐH và một vài xu hướng đầu tư cho GDĐH ở các nước trên thế giới. Từ những phân tích ở trên, có thể thấy rằng đầu tư cho GDĐH không chỉ mang lại lợi ích công cho xã hội mà còn là phương tiện phát triển cho mỗi cá nhân người học. Đây là lí do khiến nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân ngày càng có xu hướng đầu tư nguồn lực cho GDĐH. Xu hướng ở các nước trên thế giới cho thấy, vấn đề chia sẻ chi phí đang được áp dụng khá phổ biến, dưới các hình thức như tăng tỷ lệ chi NSNN trong GDP cho GDĐH, tăng đầu tư của khu vực tư nhân cho GDĐH, tỷ trọng đầu tư từ NSNN cho một sinh viên đại học giảm xuống, tăng thu học phí, Mặc dù chi tiêu của Chính phủ cho GDĐH có xu hướng tăng lên nhưng tỷ trọng đầu tư cho đào tạo một sinh viên đại học của khu vực Nhà nước giảm mạnh so với khu vực tư nhân. Tài chính cho GDĐH toàn cầu đã và đang vận động theo xu hướng này là do Chính phủ nhiều nước đã áp dụng chính sách cả Nhà nước và sinh viên cùng chi trả chi phí đào tạo đại học. Điều này dẫn tới “đầu tư” của tư nhân, người học và gia đình người học ngày càng tăng lên và chiếm tỷ trọng cao trong tổng đầu tư của xã hội cho GDĐH. Đồng thời, chi tiêu của Chính phủ cho GDĐH như một công cụ để điều chỉnh, phân luồng cơ cấu, ngành nghề đào tạo, sử dụng chủ yếu để đầu tư vào R&D của các cơ sở GDĐH, và tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực Nhà nước cần ưu tiên (Nguyễn Trường Giang, 2012), hay những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không muốn hoặc không có động cơ tham gia đầu tư. Thực tế đặt ra vấn đề cho Việt Nam, trong bối cảnh NSNN có hạn và phải chi Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 81 HOÀNG THANH HUYỀN dùng cho nhiều lĩnh vực công ích khác, Chính phủ cần hoàn thiện chính sách học phí, để tăng cường “đầu tư” của cá nhân cho GDĐH và yêu cầu người học chia sẻ gánh nặng tài chính GDĐH với nhà nước. NSNN dành để tập trung đầu tư cho phát triển nghiên cứu hoặc tài trợ cho các ngành nghề có lợi ích lớn cho xã hội nhưng chưa nhận được sự quan tâm, đầu tư của các cá nhân. Mặc dù những thay đổi quyết liệt trong cơ chế tài chính GDĐH ở Việt Nam thời gian qua đã cho thấy những thay đổi đáng kể trong chính sách học phí theo Nghị định 86/2015/ NĐ-CP, mức học phí bình quân theo chương trình tối đa giai đoạn 2014- 2017 là 10.000.000 đồng/năm, cao gấp đôi mức trần học phí năm học 2014- 2015 theo Nghị định 49/2010/NĐ-CP. Nếu Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì mức học phí thấp thì các trường đại học không đủ để bù đắp chi phí đào tạo và nâng cao chất lượng. Vì vậy, Nhà nước cần huy động sự đóng góp của người học để có đủ nguồn lực tài chính cho nền GDĐH phát triển, đạt mục tiêu chất lượng và cạnh tranh trong khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, không phải cá nhân nào cũng hiểu hết được lợi ích của GDĐH và có đủ khả năng tài chính để “đầu tư”. Chính vì vậy, Nhà nước cần cân nhắc đến việc hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài chính, cho sinh viên vay vốn, để đảm bảo các cá nhân có đủ điều kiện và cơ hội để đầu tư cho tương lai của mình. Thực tế ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có một chương trình tín dụng cho HSSV theo Quyết định 157/2007/QĐ-TTg dành cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Trong thời gian hơn 10 năm thực hiện đã đạt được những kết quả đáng kể, tổng doanh số tín dụng cho sinh viên vay học tập gần 60.000 tỉ đồng với hơn 3,5 triệu HSSV được vay vốn cho chi phí học tập (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2017). Tuy vậy, chương trình tín dụng trên vẫn còn một số hạn chế, mức vay vốn còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu của SV, đối tượng được vay vốn còn hạn chế, thủ tục còn cứng nhắc Chính vì vậy, Việt Nam cần đa dạng hóa các hình thức vay vốn, mở rộng đối tượng sinh viên được vay vốn ưu đãi, có phân loại mức vốn vay cho từng đối tượng Các chương trình này được thiết kế có thể hoạt động lâu dài và bền vững nhằm đảm bảo mọi thành phần trong xã hội đều có cơ hội tiếp cận hệ thống GDĐH.■ Tài liệu tham khảo 1. Arthur M. Hauptman (2006), Higher Education Finance: Trends and Issues, International Handbook of Higher Education, Springer, 83-106. 2. ARWU (Academic Ranking of World Universities- 2014), truy cập ngày 22/6/2019. 3. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị TW8 khóa XIX về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, ban hành ngày 04/11/2013.4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng kết công tác HSSV tại truy cập ngày 12/7/2019. 4. De Boer, H., Enders, J.,& Schimank, U. (2007), On the Way towards New Public Management? The Governance of University Systems in England, the Netherlands, Austria, and Germany, New Forms of Governance in Research Organizations (pp. 137-154). Dordrecht: Springer. 5. Đặng Thị Lệ Xuân (2017), Tính đầu tư của giáo dục đại học: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, Số 238, ISSN: 1859-0012.7. 6. Euro Commision, Government and higher education expenditure on R&D tại https://rio.jrc.ec.europa.eu/en/stats/ public-government-and-higher-education-rd-expenditure-gdp truy cập ngày 20/7/2019. 7. George Psacharopoulos, (1994), Returns to Investment in Education: A Global Update, World Development, Vol 22. Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 201982 8. Joseph E. Sticglitz (1995), Kinh tế học công cộng, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 9. Ngô Quang Hưng (2014), Nghiên cứu và phát triển trong giáo dục đại học, Tham luận tại Hội thảo Đối thoại Giáo dục Việt Nam 2014, tại https://hocthenao.vn/2014/09/22/nghien-cuu-va-phat-trien-trong-dai-hoc-ngo-quang-hung/ truy cập ngày 11/7/2019. 10. Nguyễn Trường Giang (2012), Đổi mới cơ chế tài chính gắn với nâng cao chất lượng đào tạo đại học, thực hiện mục tiêu công bằng và hiệu quả, Hội thảo Đổi mới cơ chế tài chính đối với GDĐH, Hà Nội, tháng 11/2012. 11. OECD (2012, 2014, 2016), Education at a Glance: OECD indicators, OECD Publishing. truy cập tại https://www. oecd.org/education/highlights.pdf 12. Phạm Thị Lan Phượng (2015), Xu hướng tài trợ giáo dục đại học và vai trò của nhà nước trong dẫn dắt hệ thống, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM, Số 11(77), pp.21-32. 13. Phạm Phụ (2009), Đầu tư và Chia sẻ chi phí trong GDĐH Việt Nam tại tu-va-chia-se-chi-phi-trong-giao-duc-dai-hoc-post169522.gd, truy cập ngày 22/8/2018.12. 14. Phùng Xuân Nhạ, Phạm Xuân Hoan (2012), Chi phí, lợi ích đầu tư cho GDĐH Việt Nam và lộ trình cải cách học phí cho nhóm ngành”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 264 tháng 10/2012, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh. 15. Robert F. Bruner(2012), The ROI on One’s Own Higher Education tại brunerblog/2012/10/the-roi-on-one’s-own-higher-education, truy cập ngày 10/8/2018. 16. Steve O.Michael, Mark A. Kretovics (2004), Financing higher education in a global market tại: https://www. questia.com/library/120083264/financing-higher-education-in-a-global-market, truy cập ngày 20/6/2019. 17. UNESCO (2015) cập ngày 10/10/2018. 18. WB (1994), Higher Education: The Lessons of Experience, Washington, DC: the World Bank. 19. WB (2008), Vietnam: Higher Education and Skills for Growth tại INSTEASTASIAPACIFIC/Resources/Vietnam-HEandSkillsforGrowth.pdf, truy cập ngày 25/5/2019. 20. WB (2015), truy cập ngày 15/6/2019. 21. Varghese, N. V. (2001), The Limits to Diversification of Sources of Funding in Higher Education, Paris: UNESCO: International Institute for Educational Planning. tiếp theo trang 81 Đầu tư và chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học
File đính kèm:
- dau_tu_va_chia_se_chi_phi_trong_giao_duc_dai_hoc.pdf