Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) là một trong những nhân tố quan

trọng, đóng góp lớn vào tăng trưởng, tạo việc làm, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ở Việt Nam. Việt Nam hiện nay là quốc gia đang có “sức

hấp dẫn” đối với các nhà đầu tư nước ngoài bởi vì nền tảng kinh tế và sức cạnh tranh toàn cầu

ngày càng được hoàn thiện, Những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định

trong việc thu hút nguồn vốn FDI. Trong phạm vi nghiên cứu này, nhóm tác giả thực hiện phân

tích tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào

Việt Nam trong giai đoạn 1988 -2017. Từ đó, xây dựng được bức tranh tổng thể về quá trình đầu

tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

pdf 6 trang kimcuc 6460
Bạn đang xem tài liệu "Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Nguyễn Thị Thùy Dung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 93 - 97 
93 
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 
Nguyễn Thị Thùy Dung*, Đinh Thị Vững, Nguyễn Thị Thúy Vân 
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) là một trong những nhân tố quan 
trọng, đóng góp lớn vào tăng trưởng, tạo việc làm, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa ở Việt Nam. Việt Nam hiện nay là quốc gia đang có “sức 
hấp dẫn” đối với các nhà đầu tư nước ngoài bởi vì nền tảng kinh tế và sức cạnh tranh toàn cầu 
ngày càng được hoàn thiện, Những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định 
trong việc thu hút nguồn vốn FDI. Trong phạm vi nghiên cứu này, nhóm tác giả thực hiện phân 
tích tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào 
Việt Nam trong giai đoạn 1988 -2017. Từ đó, xây dựng được bức tranh tổng thể về quá trình đầu 
tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. 
Từ khóa: Đầu tư trực tiếp nước ngoài, FDI, Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam, FDI tại Việt Nam 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Tính đến cuối năm 2017, sau 30 năm kể từ 
khi Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội 
thông qua năm 1987, dòng vốn FDI vào Việt 
Nam có xu hướng tăng lên và ngày càng 
khẳng định vai trò quan trọng đối với việc 
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế ở 
Việt Nam.. Và dù vẫn còn những phân vân 
giữa được và mất, song mở cửa thu hút FDI 
chính là một trong những quyết định sáng 
suốt nhất để Việt Nam từ một nước nghèo, lạc 
hậu trở thành một trong những điểm sáng của 
kinh tế toàn cầu [1]. 
Xuất phát từ thực trạng trên, nghiên cứu “Đầu 
tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong bối 
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” được thực hiện 
nhằm đánh giá tình hình vốn FDI vào Việt 
Nam từ sau khi FDI bắt đầu vào Việt Nam 
(1988) đến nay. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 
Hội nhập kinh tế quốc tế được xác định có ý 
nghĩa chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đại 
hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã mở đầu cho 
thời kỳ đổi mới đất nước. Trải qua các kỳ Đại 
hội, Đảng ta luôn nhận thức được tầm quan 
*
 Tel: 01686 683686, Email: dungktdt0711.tueba@gmail.com 
trọng của hợp tác quốc tế. Tại Đại hội X 
(2006), Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương 
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc 
tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh 
vực khác”. Năm 1995, Việt Nam gia nhập 
ASEAN. Năm 2000, Việt Nam ký Hiệp định 
thương mại song phương với Hòa Kỳ, tạo sức 
bật về đầu tư, tăng trưởng xuất khẩu. Tháng 
01 năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ chức 
Thương mại thế giới (WTO), đây là một trong 
những thành tựu nổi bật về hợp tác kinh tế 
quốc tế của Việt Nam. Nghị quyết 06-NQ/TW 
ngày 05 tháng 11 năm 2016 xác định: hội 
nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm của hội nhập 
quốc tế; Hội nhập trong các lĩnh vực khác 
phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc 
tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của 
toàn dân; doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ 
trí thức là lực lượng đi đầu. 
Đến hết quý 2 năm 2018, Việt Nam đã phê 
chuẩn 10 FTA song phương và đa phương với 
các đối tác trong khu vực và trên thế giới, bao 
gồm: Khu vực thương mại tự do ASEAN 
(AFTA) và 5 FTA ASEAN+1 (Trung Quốc, 
Nhật Bản, Ấn Độ, Australia, New Zealand); 4 
FTA song phương giữa Việt Nam với Nhật 
Bản (VJEPA), với Hàn Quốc (KVFTA), với 
Chile (VCFTA) với Liên minh kinh tế Á - Âu 
(EAEUFTA). Việt Nam cũng đã cơ bản kết 
Nguyễn Thị Thùy Dung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 93 - 97 
94 
thúc đàm phán FTA với EU, cùng ASEAN ký 
FTA với Hong Kong vào tháng 11/2017. Đặc 
biệt, Việt Nam đã ký kết hiệp định Đối tác 
toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương 
(CPTPP) đã ký kết tại Chile vào ngày 
09/03/2018 với sự tham gia của 11 quốc gia. 
Hiệp định được kỳ vọng sẽ tạo thuận lợi cho 
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm 
nhiều việc làm, giảm đói nghèo và nâng cao 
chất lượng sống của người dân các quốc gia 
thành viên. Trong quá trình đàm phán 
CPTPP, Việt Nam đã có những đóng góp vô 
cùng quan trọng.Việc tham gia ký kết các 
hiệp định hợp tác kinh tế với các tổ chức và 
quốc gia trên thế giới mở ra cho Việt Nam 
nhiều cơ hội cũng như thách thức trong quá 
trình hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ ở việc 
hoàn thiện cơ sở hạ tầng mà còn phát triển bền 
vững các nguồn lực trong và ngoài nước. 
Tình hình vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 
1988-2017 
Bảng 1. FDI được cấp phép tại Việt Nam 
(1988-2017) 
Năm 
Số dự 
án 
(dự 
án) 
Tổng vốn 
đăng ký 
(Triệu 
USD)
1
Tổng số 
vốn thực 
hiện 
(Triệu 
USD) 
Tỷ lệ 
VTH/
VĐK 
(%) 
1988-1995 1.620 19.981,3 7.153,5 35,80 
1996-2007 8.190 79.669 39.491,7 49,57 
2008-2012 6.089 146.667,2 53.547,7 36,51 
2013-2017 10.697 131.159,4 71.800 54,74 
Tổng số 26596 377476,9 171992,9 45,56 
(Nguồn: Niên giám thống kê) 
Kể từ khi Việt Nam chính thức đổi mới nền 
kinh tế thì đã có một số lượng nhất định các 
nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư tại 
Việt Nam theo hình thức FDI. Qua các giai 
đoạn phát triển của nền kinh tế đến nay, tổng 
số vốn thực hiện FDI đã tăng khoảng gấp 10 
lần, cho thấy được sự hấp dẫn của Việt Nam 
với các doanh nghiệp nước ngoài. Theo số 
liệu của Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 
1988 đến 2017, Việt Nam đã thu hút được 
1
 Bao gồm cả vốn tăng thêm của các dự án đã được cấp 
giấy phép từ các năm trước 
26.596 dự án FDI với tổng số vốn thực hiện là 
171.992,9 triệu USD (chiếm 45,56% so với 
tổng số vốn cam kết). Cụ thể được thể hiện ở 
bảng 1. 
Trong giai đoạn từ năm 1988 đến 2017, FDI 
vào Việt Nam có sự tăng mạnh về số dự án 
cũng như số vốn đầu tư thực hiện. Giai đoạn 
này là giai đoạn Việt Nam bắt đầu thực hiện 
đổi mới toàn diện nền kinh tế, chuyển từ hình 
thức kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị 
trường và có dấu mốc là sự gia nhập ASEAN 
vào năm 1995. Điều này mở ra rất nhiều cơ 
hội phát triển cho nền kinh tế quốc gia cũng 
như cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư nước 
ngoài. Tuy mới bước vào giai đoạn đầu của 
hội nhập nhưng Việt Nam, một quốc gia mới 
bước ra từ chiến tranh, cả nước thời điểm đó 
còn đang tập trung phục hồi cơ sở hạ tầng 
cũng như nền kinh tế còn manh mún, chủ yếu 
làm nông nghiệp, đã chứng tỏ là quốc gia 
tiềm năng khi đạt mức vốn đăng ký là 
19.981,3 triệu USD. Bước sang giai đoạn 
1996 – 2007, tổng số dự án thực hiện tăng 
6.570 dự án tương ứng tăng hơn gấp 4 lần so 
với giai đoạn trước, một sự gia tăng thần tốc. 
Về mặt giá trị, tổng số vốn đăng ký tăng gần 
gấp 3 lần, cùng với số vốn thực hiện tăng hơn 
gấp 4,5 lần so với giai đoạn trước, nâng mức 
tỷ lệ giải ngân FDI lên đến 49,57%. Với sự 
gia tăng đột biến về số vốn này cho thấy sự 
thành công lớn của Việt Nam trong quá trình 
hội nhập quốc tế. Đạt được kết quả trên cũng 
là do Việt Nam đã chủ động tham gia các diễn 
đàn kinh tế như: Hiệp định thương mại song 
phương với Hòa Kỳ, WTO,.... Số dự án FDI 
được cấp phép trong giai đoạn 2008 -2012 
giảm so với giai đoạn1996-2007 tuy nhiên 
tổng số vốn thực hiện của dự án lại tăng lên 
đáng kể, tăng 14.056 triệu USD tương đương 
35,59% so với giai đoạn trước. Trong giai 
đoạn 2013-2017, FDI vào Việt Nam đã có sự 
cải thiện rõ rệt cả về chất lượng và số lượng. 
Chỉ trong vòng 5 năm từ 2013 đến 2017, số 
dự án FDI vào Việt Nam là 10.697 dự án với 
Nguyễn Thị Thùy Dung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 93 - 97 
95 
tổng vốn thực hiện tăng 18.252,3 triệu USD 
tương đương 34,09% so với giai đoạn trước, 
nâng tỷ lệ giải ngân lên mức 54,74%. 
Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc 
hội thông qua năm 1987, cùng với sự nỗ lực 
trong việc mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, 
Việt Nam ngày càng khẳng định được vị thế 
trên bản đồ kinh tế thế giới [3]. Mặc dù tổng 
vốn đầu tư có sự biến đổi mạnh qua các năm 
nhưng xu hướng chủ đạo của dòng vốn trong 
cả giai đoạn là tăng lên. FDI vào Việt Nam có 
số vốn đăng ký lớn nhất vào năm 2008 (đạt 
71.726,8 triệu USD) nhưng lại chỉ đạt tỷ lệ 
giải ngân vốn thấp nhất trong suốt thời kỳ này 
là 16,03%. Điều này có thể được giải thích 
bởi ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng kinh 
tế toàn cầu giai đoạn 2007-2009 đã khiến cho 
vốn đầu tư thực hiện từ các đối tác không thể 
giải ngân tại Việt Nam như đã đăng ký. Ngoài 
ra, Việt Nam đã chứng kiến con số về tỷ lệ 
vốn thực hiện trên vốn đăng ký đạt giá trị lớn 
và đáng chú ý ở năm 1999 khi tỷ lệ này đạt 
110,77%, lớn nhất trong thời kỳ nghiên cứu. 
Kết quả này cho thấy Việt Nam đã có những 
bước tiến vượt bậc trong thu hút FDI sau khi 
tham gia các tổ chức kinh tế khu vực như 
ASEAN (1995) và APEC (1998). Như vậy, 
có thể khẳng định việc tham gia các hoạt 
động hợp tác quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ 
đến dòng vốn FDI, gia tăng các nhà đầu tư 
nước ngoài đến Việt Nam. 
Biểu đồ 1. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại 
Việt Nam theo hình thức đầu tư2 
(Nguồn:Cục đầu tư nước ngoài) 
2
 Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/11/2017 
Xem xét trên góc độ hình thức đầu tư FDI vào 
Việt Nam,theo Cục đầu tư nước ngoài, hình 
thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ 
trọng lớn nhất, xếp thứ hai là hình thức liên 
doanh còn lại là các hình thức khác như hợp 
đồng BOT, BT, BTO và hợp đồng hợp tác 
kinh doanh. Tính đến ngày 20 tháng 11 năm 
2017, trong tổng số các dự án còn hiệu lực thì 
hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài có 
20.544 dự án với tổng vốn đăng ký là 
229.886,24 triệu USD, đạt 72,54%, chiếm tỷ 
trọng cao nhất. Xếp thứ hai là hình thức liên 
doanh có 3.781 dự án với tổng vốn đăng ký 
đạt 68.135,52 triệu USD, chiếm 21,5%; vị trí 
tiếp theo thuộc về hình thức hợp đồng BOT, 
BT, BTO với 15 dự án nhưng thu hút được 
tổng vốn đăng ký là 13.281,24 triệu USD 
chiếm 4,19% và còn lại là hợp đồng hợp tác 
kinh doanh có 240 dự án nhưng chỉ có số vốn 
đăng ký là 5.611,72 triệu USD, chiếm tỷ 
trọng 1,77%. 
Biểu đồ 2. Top 20 đối tác FDI chủ yếu tại Việt 
Nam giai đoạn 1988-20173 
Về đối tác, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, 
Đài Loan là những quốc gia đầu tư chủ lực 
vào Việt Nam. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, 
xét trên các dự án còn hiệu lực đến năm 2017, 
vốn đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam đạt 
57.509,53 triệu USD thông qua 6.477 dự án, 
là đối tác FDI lớn nhất của Việt Nam. Xu 
hướng các doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư 
vào Việt Nam là nhiều nhất trong số các nước 
ASEAN. Đối tác FDI lớn thứ hai của Việt 
Nam là Nhật Bản với số vốn đầu tư ước đạt 
3
 Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/11/2017 
Nguyễn Thị Thùy Dung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 93 - 97 
96 
gần 50.000 triệu USD,số dự án là 3.577. 
Ngoài ra, còn có các đối tác lớn khác như 
Singapore (1.957 dự án với tổng vốn đăng ký 
đạt 41.853,95 triệu USD), Đài Loan (2.534 dự 
án với tổng vốn đăng ký đạt 30.833,73 triệu 
USD), Đảo Virgin thuộc Anh (740 dự án với 
tổng số vốn đăng ký đạt 22.412,25 triệu 
USD), Hồng Kông (1.265 dự án với tổng vốn 
đăng ký đạt 17.691,2 triệu USD)... 
Về lĩnh vực đầu tư, theo Cục đầu tư nước 
ngoài thì vốn FDI được tập trung vào 19 
ngành kinh tế [2]. Theo đó thì ngành thu hút 
vốn FDI lớn nhất là công nghiệp chế biến, chế 
tạo với tổng vốn đầu tư là khoảng 185.235,48 
triệu USD thông qua 12.433 dự án, chiếm tỷ 
trọng 58,45% trong tổng vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài tại Việt Nam. Sở dĩ nguyên nhân 
ngành này có sức hút lớn đối với FDI đã được 
các chuyên gia kinh tế đưa ra rất nhiều nhưng 
trong đó có 2 nguyên nhân quan trọng đó là 
thứ nhất, Việt Nam có nguồn lao động dồi 
dào và chi phí lao động rẻ hơn so với nhiều 
quốc gia trong khu vực; thứ hai, chính sách 
thu hút đầu tư của Việt Nam đang thay đổi 
theo hướng tích cực, một loạt các văn bản luật 
liên quan đến đầu tư, DN đã được chỉnh sửa, 
hoàn thiện theo hướng tạo thuận lợi hơn cho 
nhà đầu tư [3]. Tuy nhiên phần lớn các dự án 
FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế 
biến, chế tạo tại Việt Nam mới chỉ dừng lại ở 
việc nhập khẩu nguyên liệu nước ngoài và lắp 
ráp tại Việt Nam, chưa có sức lan tỏa lớn đến 
nền kinh tế và doanh nghiệp trong nước. Mặt 
khác, không phải tất cả những dự án FDI đầu 
tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo 
đều có chất lượng tốt [3]. Trên thực tế, đã có 
không ít các dự án đầu tư vào lĩnh vực này 
nhằm mục đích tận dụng nguồn lao động giá 
rẻ và sử dụng công nghệ kém chất lượng, gây 
ô nhiễm môi trường. Đứng vị trí thứ hai là 
ngành kinh doanh bất động sản với tổng vốn 
đầu tư là 52.737,58 triệu USD thông qua 630 
dự án, chiếm tỷ trọng 16,64%. Theo các 
chuyên gia bất động sản, lượng vốn FDI đổ 
mạnh vào bất động sản là do trước đây, các 
nhà đầu tư ngoại từ Singapore, Nhật Bản, Hàn 
Quốc... chủ yếu phát triển trung tâm thương 
mại, cao ốc văn phòng... nhưng hiện tại, họ 
hoạt động khá sôi nổi tại phân khúc nhà ở, 
thông qua việc kết hợp với doanh nghiệp 
trong nước. Vị trí thứ ba thuộc về ngành sản 
xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa với 
118 dự án, thu hút được 20.823,37 triệu USD 
tương ứng 6,57%. Các vị trí tiếp theo là dịch 
vụ lưu trú và ăn uống (chiếm tỷ trọng 3,81%); 
xây dựng (chiếm tỷ trọng 3,4%); bán buôn và 
bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy (chiếm tỷ 
trọng 1,94%); khai khoáng (chiếm tỷ trọng 
1,55%); vận tải kho bãi (chiếm tỷ trọng 
1,42%); nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 
(chiếm tỷ trọng 1,1%); thông tin và truyền 
thông (chiếm tỷ trọng 1,05%) và các lĩnh vực 
khác tuy chiếm tỷ lệ nhỏ (dưới 1%) những 
cũng có đóng góp đáng kể đối với tăng trưởng 
kinh tế của Việt Nam. 
Tác động của FDI đến phát triển kinh tế- 
xã hội của Việt Nam 
Đối với hoạt động thu hút FDI, 30 năm là thời 
gian đủ dài để đánh giá đúng tầm quan trọng 
của khu vực FDI đối với kinh tế - xã hội của 
Việt Nam. Dòng vốn FDI đã đóng góp lớn 
vào tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Khu vực 
FDI ngày càng đóng góp nhiều hơn về vốn 
đầu tư, thu ngân sách nhà nước và xuất nhập 
khẩu; tạo thêm nguồn lực cho đầu tư thông 
qua việc mở ra một kênh mới cho đầu tư cho 
phát triển. Khu vực FDI hiện nay đóng góp 
khoảng 25% tổng vốn đầu tư cho xã hội và 
20% GDP của cả nước; đẩy mạnh quá trình 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tập trung vào 
những ngành công nghiệp và dịch vụ. Hiện 
nay, khoảng 58% tổng vốn FDI được đổ vào 
lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo, giúp 
chúng ta nâng cao giá trị và tạo ra sự chuyển 
dịch trong nội bộ các ngành kinh tế theo 
hướng tích cực hơn và cạnh tranh hơn; tạo 
thêm công ăn việc làm; góp phần cho quá 
trình hội nhập kinh tế quốc tế; từ đó, giúp 
nâng cao tầm vóc, vai trò và vị thế của Việt 
Nam trên trường quốc tế. 
KẾT LUẬN 
Giai đoạn 1988 – 2017 Việt Nam có thể được 
coi là một điểm sáng khithu hút được 26.596 
Nguyễn Thị Thùy Dung và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 93 - 97 
97 
dự án FDI với tổng số vốn thực hiện là 
171.992,9 triệu USD (chiếm 45,56% so với 
tổng số vốn cam kết) trong đó hình thức đầu 
tư 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng áp 
đảo với 72,54%, xếp thứ hai là hình thức đầu 
tư liên doanh (21,5%), tiếp theo là hình thức 
hợp đồng BOT, BT, BTO (4,19%) và hợp 
đồng hợp tác kinh doanh (1,77%). Trong số 
các đối tác, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, 
Đài Loan lần lượt là các quốc gia đầu tư FDI 
nhiều nhất vào Việt Nam với số vốn đạt từ 
trên 30 triệu USD. Lĩnh vực thu hút nhiều 
FDI là công nghiệp chế biến, chế tạo với tỷ 
trong 58,45%, tập trung chủ yếu ở việc nhập 
khẩu nguyên liệu và lắp ráp tại Việt Nam. 
Bên cạnh đó, mới nổi lên gần đây là ngành 
kinh doanh bất động sản với số liệu về thu hút 
FDI cao thứ hai (16,64%) và chủ yếu phát 
triển trung tâm thương mại, cao ốc văn 
phòng, phân khúc nhà ở. Trong giai đoạn 30 
năm, FDI có những đóng góp đáng kể đến sự 
phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam như 
đóng góp nhiều hơn về vốn đầu tư, thu ngân 
sách nhà nước và xuất nhập khẩu, đẩy mạnh 
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế... Tuy 
nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn đem lại 
việc thu hút FDI cũng cần phải được rà soát 
và điều chỉnh để hiệu quả đầu tư có thể bền 
vững. Đó là (1) việc chuyển giao công nghệ 
từ các doanh nghiệp FDI cho Việt Nam còn 
thấp. (2) Các doanh nghiệp FDI mang vào 
Việt Nam công nghệ trung bình, lạc hậu 
chiếm phần lớn và (3) Kết nối giữa doanh 
nghiệp FDI và doanh nghiệp cung ứng trong 
nước còn yếu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2013), Kỷ yếu hội nghị 
25 năm Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, 
Bộ Kế hoạch đầu tư, Hà Nội 
2. Cục Đầu tư nước ngoài, (2016), Tình hình thu 
hút Đầu tư nước ngoài 11 tháng năm 2017, truy 
cập tại 
hinh-thu-hut-Dau-tu-nuoc-ngoai-11-thang-nam-
2017 ngày 14 tháng 04 năm 2018 
3. Đào Văn Hiệp, (2011), Xu hướng vận động của 
động từ trực tiếp nước ngoài trên thế giới và các 
giải pháp thu hút vào Việt Nam, Tạp chí nghiên 
cứu Kinh tế, (số 401), tháng 10/2011, T. 13-21 
4. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê các 
năm 2011-2017, Nxb Thống kê, Hà Nội. 
ABSTRACT 
FOREIGN DIRECT INVESTMENT IN VIETNAM IN THE BACKGROUND OF 
THE INTERNATIONAL ECONOMIC INTERGRATION 
Nguyen Thi Thuy Dung
*
, Dinh Thi Vung, Nguyen Thi Thuy Van 
University of Economics and Bussiness Administration - TNU 
Foreign Direct Investment (FDI) is the one of significant factors contributing greatly to economics 
growth, creating jobs,contributing to speeding up the process of economic restructuring towards 
industrialization in Vietnam. Vietnam, also, is an attractive country to foreign investors because of 
the economics fundamentals and the global competitiveness are increasingly improved,. Over the 
years, Vietnam has achieved in attracting the source of FDI. In the scope of the study, authors 
analyzed Vietnam's international economic integration process and the situation of foreign direct 
investment in Vietnam during the period from 1988 to 2017. From the result, the study gives an 
overview of the trend of foreign direct investment in Vietnam in the context of international 
economic. 
Key words: Foreign direct investment, FDI, internatilal econimic intergration, Vietnam, FDI in 
Vietnam 
Ngày nhận bài: 27/8/2018; Ngày phản biện: 10/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018
*
 Tel: 01686 683686, Email: dungktdt0711.tueba@gmail.com 
98 

File đính kèm:

  • pdfdau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_tai_viet_nam_trong_boi_canh_hoi.pdf