Đào tạo nguồn nhân lực thương mại điện tử Việt Nam

Nhu cầu về nguồn nhân lực thương mại điện tử (TMĐT ) có trình độ chuyên môn sâu được đào tạo ở cấp đại học và sau đại học đang lớn dần theo từng bước phát triển, hội nhập với thế giới của

nền kinh tế VN. Nhu cầu nầy không chỉ xuất phát từ các doanh nghiệp, tổ

chức đang cần cán bộ quản lý TMĐT mà còn xuất từ bản thân các cơ sở đào

tạo. Thực hiện tốt việc đào tạo nhân lực TMĐT có chất lượng sẽ hỗ trợ tốt

cho các doanh nghiệp, tổ chức, tạo lợi thế cạnh tranh mới khi tham gia vào

thương mại nội địa và cả trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bài viết phân tích

tình hình đào tạo TMĐT ở các nước và VN, và đề xuất tổ chức giảng dạy và

cải tiến giáo trình và phương pháp thực hành để phát triển nguồn nhân lực

thương mại điện tử tại VN.

pdf 7 trang kimcuc 19620
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo nguồn nhân lực thương mại điện tử Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đào tạo nguồn nhân lực thương mại điện tử Việt Nam

Đào tạo nguồn nhân lực thương mại điện tử Việt Nam
Số 9 (19) - Tháng 03-04/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
57
1. Bối cảnh hình thành ngành 
học TMĐT tại VN
Ngay từ đầu thế kỷ 21, thế giới 
đã chứng kiến sự hình thành và 
phát triển vũ bão của nền kinh tế 
số song song với tiến trình toàn cầu 
hoá kinh tế.
Trong thời đại toàn cầu hoá, 
thông tin là huyết mạch, là nguồn 
tài nguyên vô tận của doanh nghiệp 
và của quốc gia. Môi trường kinh 
doanh toàn cầu ngày càng đi vào 
cạnh tranh khắc nghiệt, đòi hỏi các 
doanh nghiệp phải nắm bắt được 
nguồn thông tin kịp thời và chính 
xác để triển khai hoạt động sản xuất 
kinh doanh hiệu quả hơn, góp phần 
nâng cao năng lực cạnh tranh.
TMĐT mới hình thành ở VN 
từ năm 2003-2009 (2003 là năm 
Internet được sử dụng phổ biến ở 
VN), nhưng đã phát triển khá nhanh 
(1). Tới năm 2009 nhiều trường đã 
chủ động triển khai hoạt động đào 
tạo chính quy thương mại điện tử, 
sự phát triển của lĩnh vực nầy bị 
ảnh hưởng đáng kể do có sự chênh 
lệch lớn giữa khả năng đào tạo về 
TMĐT của các cơ sở đào tạo với 
nhu cầu về nguồn nhân lực TMĐT 
của doanh nghiệp. 
Về chính sách vĩ mô, Kế hoạch 
tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 
2006-2010 được Thủ tướng chính 
phủ phê duyệt tại quyết định số 
222/2005/QĐ-TTg ngày 15//2005 
đã nhấn mạnh tới chính sách phổ 
biến, tuyên truyền về TMĐT cũng 
như đào tạo chính quy về TMĐT 
tại các trường đại học, cao đẳng. Bộ 
Giáo dục và đào tạo và Bộ Thương 
mại (nay là Bộ Công thương) là 
hai cơ quan quản lý nhà nước chịu 
trách nhiệm tổ chức triển khai hoạt 
động đào tạo ở tầm vĩ mô.
Chương trình Sinh viên với 
TMĐT (từ năm 2008 đổi thành 
chương trình Ý tưởng Số ) (2) đã 
nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình 
của nhiều trường đại học, cao đẳng 
và sinh viên cả nước.
Trên cơ sở quan điểm phát triển 
TMĐT ở VN giai đoạn 2006-2010 
Kế hoạch Tổng thể được Thủ tướng 
phê duyệt tại quyết định 222/2005/
QD-TTg đã đề ra các mục tiêu đến 
năm 2010 như sau : (3)
- Khoảng 60% doanh nghiệp có 
quy mô lớn tiến hành giao dịch loại 
hình B2B.
- Khoảng 80% doanh nghiệp có 
quy mô vừa và nhỏ biết tới tiện ích 
của TMĐT và tiến hành giao dịch 
TMĐT loại hình B2B hoặc B2C.
- Khoảng 10% hộ gia đình tiến 
hành giao dịch TMĐT loại hình 
B2C hoặc C2C.
- Các chào thầu mua sắm chính 
phủ được công bố trên trang tin 
điện tử của cơ quan chính phủ và 
ứng dụng giao dịch TMĐT trong 
mua sắm chính phủ. 
Phát triển nguồn nhân lực là 
chính sách đầu tiên trong số sáu 
chính sách và giải pháp chủ yếu 
Nhu cầu về nguồn nhân lực thương mại điện tử (TMĐT ) có trình độ chuyên môn sâu được đào tạo ở cấp đại học và sau đại học đang lớn dần theo từng bước phát triển, hội nhập với thế giới của 
nền kinh tế VN. Nhu cầu nầy không chỉ xuất phát từ các doanh nghiệp, tổ 
chức đang cần cán bộ quản lý TMĐT mà còn xuất từ bản thân các cơ sở đào 
tạo. Thực hiện tốt việc đào tạo nhân lực TMĐT có chất lượng sẽ hỗ trợ tốt 
cho các doanh nghiệp, tổ chức, tạo lợi thế cạnh tranh mới khi tham gia vào 
thương mại nội địa và cả trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bài viết phân tích 
tình hình đào tạo TMĐT ở các nước và VN, và đề xuất tổ chức giảng dạy và 
cải tiến giáo trình và phương pháp thực hành để phát triển nguồn nhân lực 
thương mại điện tử tại VN.
Từ khoá: Nguồn nhân lực, thương mại điện tử, lợi thế cạnh tranh, hội 
nhập kinh tế quốc tế. 
Đào tạo nguồn nhân lực 
thương mại điện tử Việt Nam
THS. Tạ MiNH CHâu
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 9 (19) - Tháng 03-04/2013
Nghiên Cứu & Trao Đổi
58
được đề ra trong kế hoạch tổng thể 
phát triển TMĐT giai đoạn 2006-
2010. Trước hết tập trung đào tạo 
nguồn nhân lực chính quy tại các 
trường đại học, cao đẳng, trung học 
chuyên nghiệp thuộc khối ngành 
kinh tế và luật, đồng thời đào tạo 
theo chương trình đại cương tại các 
trường dạy nghề thuộc các chuyên 
ngành thương mại, quản trị kinh 
doanh, đào tạo cho cán bộ quản lý 
nhà nước làm công tác hoạch định 
chính sách và thực thi pháp luật về 
TMĐT ở trung ương, địa phương 
và các tỉnh, thành phố, khuyến 
khích các doanh nghiệp tham gia 
cung cấp dịch vụ đào tạo về TMĐT 
. Tuy nhiên mục tiêu đào tạo trong 
kế hoạch tổng thể đã không hoàn 
thành.
Ngày 11 tháng 1 năm 2007, VN 
đã chính thức trở thành thành viên 
thứ 150 của tổ chức WTO, mở ra 
cho chúng ta rất nhiều cơ hội cũng 
như thách thức ở tất cả các lĩnh 
vực. VN sẽ được tiếp cận với nền 
kinh tế tri thức của các nước phát 
triển, tuy nhiên khoảng trống lớn 
về nhân lực có kiến thức TMĐT sẽ 
là khó khăn cho các doanh nghiệp 
khi phải thích nghi với các phương 
thức giao dịch thương mại của các 
nước. Nếu không được đầu tư kịp 
thời về nhân lực TMĐT , vốn là 
một lợi thế để nâng cao năng lực 
cạnh tranh của doanh nghiệp vừa 
và nhỏ, sẽ trở thành rào cản cho 
các doanh nghiệp tham gia hội 
nhập kinh tế quốc tế. Vì thế đào tạo 
nguồn nhân lực có chất lượng cao, 
có khả năng quản lý các hoạt động 
liên quan đến TMĐT là một nhu 
cầu cấp bách trong giai đoạn hiện 
nay, bởi vì TMĐT là xu thế phát 
triển tất yếu trong môi trường kinh 
doanh toàn cầu hoá hiện nay.
2. Tình hình đào tạo TMĐT trên 
thế giới
2.1. Tình hình chung về đào tạo 
TMĐT trên thế giới.
Trong khoảng mười năm trở lại 
đây, nhiều trường đại học và cao 
đẳng trên thế giới đã quan tâm tới 
đào tạo TMĐT dưới nhiều hình 
thức và trình độ khác nhau. Cục 
TMĐT và Công nghệ Thông tin 
(TMĐT & CNTT) thuộc Bộ Công 
thương đã đánh giá sơ bộ tình hình 
đào tạo trên thế giới thông qua hoạt 
động đào tạo chính quy tại các 
trường đại học và cao đẳng tại Hoa 
Kỳ, Canada, Australia, Singapore, 
Hàn Quốc và Thái Lan.
Đa số các quốc gia đều đào tạo 
TMĐT ở cả trình độ đại học và sau 
đại học, tuy nhiên mỗi quốc gia lại 
đào tạo ngành TMĐT tập trung vào 
một trình độ nhất định như: Canada 
tập trung đào tạo trình độ cao đẳng 
TMĐT . Australia tập trung đào tạo 
thạc sĩ quản trị kinh doanh chuyên 
ngành TMĐT  Ngoài ra hình 
thức đào tạo thạc sĩ quản trị kinh 
doanh chuyên ngành TMĐT phổ 
biến ở hầu hết các quốc gia.
Chương trình giảng dạy và nội 
dung giảng dạy có sự khác biệt khá 
rõ rệt tuỳ theo cách tiếp cận. 
Có ba khuynh hướng tiếp cận 
trong chương trình giảng dạy.
- Công nghệ thông tin,
- Quản trị kinh doanh,
- Liên ngành.
Cách tiếp cận theo khuynh 
hướng công nghệ thông tin xuất 
phát từ những nguyên nhân sau :
Khác với thương mại truyền 
thống, TMĐT là phương thức 
thương mại “dựa trên công nghệ” 
(Technology-based Commerce), ở 
đây là dựa trên công nghệ thông 
tin-truyền thông (CNTT-TT). 
Chính sự phát triển ứng dụng của 
CNTT trong các ngành kinh tế dẫn 
tới sự ra đời của TMĐT , cùng với 
sự hoàn thiện của CNTT-TT, khả 
năng ứng dụng của TMĐT ngày 
càng mở rộng, ra đời các kênh kinh 
doanh mới, mô hình kinh doanh 
mới. Trong TMĐT đan xen các 
yêu cầu về kỹ năng và kiến thức 
công nghệ, quản lý kinh tế, khoa 
học xã hội và hành vi. TMĐT được 
tiến hành trong môi trường điện 
tử và dựa trên những nguyên tắc, 
yêu cầu riêng (về giao dịch thanh 
toán, về an toàn bảo mật, về hành 
lang pháp lý, về khiếu nại, tranh 
chấp). Điều nầy đòi hỏi những 
người lao động trực tiếp cũng như 
những người quản lý kinh doanh 
phải hiểu rõ các thao tác kỹ thuật 
và nguyên tắc thực hiện kinh doanh 
trực tuyến. Vì vậy những người làm 
TMĐT cần phải nắm vững những 
vấn đề liên quan đến thương mại 
và cả công nghệ thông tin.
Cách tiếp cận theo khuynh 
hướng quản trị kinh doanh
Đặc trưng cho các chương trình 
đào tạo TMĐT theo khuynh hướng 
nầy bắt nguồn từ các trường và 
các khoa quản trị kinh doanh. Xét 
trên góc độ lịch sử, phần lớn các 
chương trình đào tạo theo cách tiếp 
cận nầy ra đời sau các chương trình 
đào tạo theo kiểu tiếp cận CNTT.
Tiếp cận theo khuynh hướng 
quản trị kinh doanh nhấn mạnh 
trọng tâm trang bị các kỹ năng và 
kiến thức thuộc lĩnh vực kinh tế-
kinh doanh, khoa học xã hội-hành 
vi cho người học, và hình thành 
trên nền chương trình đào tạo quản 
trị kinh doanh, điều chỉnh, sửa đổi 
cho thích hợp với TMĐT , ngoài ra 
người học còn được trang bị các kỹ 
năng, kiến thức cần thiết về CNTT-
TT, trong đó chú trọng trang bị các 
kỹ năng, kiến thức về khai thác, sử 
dụng các thiết bị phần cứng, phần 
mềm trong CNTT để phục vụ cho 
Số 9 (19) - Tháng 03-04/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
59
TMĐT chứ không trang bị các kiến 
thức nền tảng sâu về CNTT-TT. 
Mục tiêu đào tạo theo hướng quản 
trị kinh doanh là hướng tới trang bị 
cho các nhà doanh nghiệp tương lai 
những kiến thức nền tảng khi kinh 
doanh trong môi trường điện tử. 
Người học cần nắm được những 
đặc trưng, ưu điểm cũng như hạn 
chế của TMĐT để khai thác tối đa 
thuận lợi, khắc phục hạn chế để cho 
việc kinh doanh được hiệu quả. 
Cách tiếp cận theo 
khuynh hướng liên ngành 
(Interdisciplinary)
Cách tiếp cận theo khuynh 
hướng liên ngành độc lập với hai 
cách tiếp cận theo khuynh hướng 
CNTT-TT và khuynh hướng quản 
trị kinh doanh.
Theo khuynh hướng nầy các 
chương trình đào tạo chủ trương 
đảm bảo sự hài hoà kiến thức và kỹ 
năng thuộc cả ba lĩnh vực kinh tế 
-kinh doanh, khoa học xã hội-hành 
vi, và CNTT-TT.
Để xây dựng đội ngũ đào tạo 
TMĐT theo cách tiếp cận liên 
ngành, các cơ sở đào tạo thành lập 
đội ngũ giảng dạy liên bộ môn, liên 
khoa gồm các giảng viên thuộc 
các lĩnh vực quản trị kinh doanh, 
marketing và CNTT.
Trước nhu cầu đòi hỏi thực tế về 
nhân lực cho TMĐT , các trường 
đại học và cao đẳng tại một số quốc 
gia chủ động mở ngành đào tạo 
TMĐT , mặt khác, chính phủ một 
số quốc gia nhận thấy xu hướng cần 
thiết phải phát triển TMĐT nên đã 
có các chính sách hỗ trợ các trường 
đại học đào tạo ngành.
Tuy nhiên, việc đào tạo ngành 
TMĐT tại một số quốc gia gặp phải 
một số khó khăn về cơ sở vật chất, 
trình độ giảng viên, và cập nhật tài 
liệu giảng dạy. 
Bây giờ chúng ta xem qua tổng 
quát các chương trình đào tạo 
TMĐT ở một số nước trên thế giới
Đào tạo TMĐT tại Hoa Kỳ
Chương trình cử nhân Hệ thống 
thông tin, chuyên ngành TMĐT 
của trường Đại học Fullerton thuộc 
California State University. Nội 
dung chương trình phần bắt buộc 
gồm 10 môn học mỗi môn gồm 3 
tín chỉ. Số môn học về thương mại, 
quản trị kinh doanh chiếm 50% 
thời lượng, số môn học về kỹ thuật, 
công nghệ thông tin chiếm khoảng 
50% thời lượng (4).
Chương trình đào tạo Thạc 
sĩ CNTT, chuyên ngành TMĐT 
(Online): Nội dung chương trình 
gồm 11 môn học, trong đó 7 môn 
bắt buộc, gồm 3 môn về quản trị 
kinh doanh và 4 môn về CNTT.
Ba môn tự chọn trong số 6 môn 
tập trung nhiều về CNTT hơn và 
luận văn tốt nghiệp thuộc lĩnh vực 
triển khai Hệ thống thông tin trong 
tổ chức (5).
Tại Hoa Kỳ, các trường kinh tế 
và quản trị kinh doanh đang giảng 
dạy hai ngành có liên quan đến 
TMĐT là Hệ thống thông tin quản 
lý (HTTTQL, MIS) và TMĐT .
Ngành HTTTQL được đào tạo 
tại hơn năm trăm trường đại học và 
cao đẳng, trong đó 95% trường đào 
tạo cử nhân, và 40% trường đào tạo 
trình độ sau đại học.
Ngành TMĐT được đào tạo tại 
hơn một trăm trường đại học và cao 
đẳng, trong đó 88 % trường đào 
tạo trình độ cử nhân, 45% trường 
đào tạo trình độ sau đại học. (6)
Số lượng sinh viên và nghiên 
cứu sinh tốt nghiệp hai ngành có sự 
khác biệt khá lớn. Tính trung bình 
từ năm 2003 đến nay, số lượng cử 
nhân, thạc sĩ và tiến sĩ tốt nghiệp 
ngành MIS nhiều gấp chục lần số 
lượng tốt nghiệp ngành TMĐT. 
Nguyên nhân là tại Hoa Kỳ, ngành 
MIS đã được đào tạo tại các trường 
đại học và cao đẳng gần hai thập 
kỷ, trong khi đó ngành TMĐT mới 
bắt đầu trong vài năm gần đây, 
như vậy có thể thấy nhu cầu đào 
tạo ngành TMĐT không cao so với 
ngành MIS.
Đào tạo TMĐT tại Canada
Hiện tại Canada là một trong 
những quốc gia có trình độ ứng 
dụng TMĐT đứng đầu thế giới. 
Về tiêu dùng trực tuyến, Canada 
đã vượt Hoa Kỳ và là quốc gia có 
lượng mua sắm trực tuyến cao nhất 
thế giới.
Theo thống kê, trong hệ thống 
các trường đại học và cao đẳng 
Canada, khoảng 50 trường cao 
đẳng và học viện kỹ thuật của 
Canada cung cấp các khoá học 
đào tạo TMĐT . Có khoảng 20% 
trường cao đẳng đào tạo cử nhân 
chuyên ngành TMĐT . Các trường 
đại học đào tạo thạc sĩ quản trị kinh 
doanh chuyên ngành TMĐT như: 
Athbasca, Ottawa, McMaster , 
Concordia, McGill
Đào tạo TMĐT tại Australia
Hình thức đào tạo chính quy 
về TMĐT phổ biến tại Autralia 
là đào tạo thạc sĩ quản trị kinh 
doanh chuyên ngành TMĐT 50%, 
chương trình đào tạo quản trị kinh 
doanh cho phép nghiên cứu sinh tự 
chọn chuyên ngành TMĐT 
2.2. Tình hình đào tạo TMĐT tại 
các nước trong vùng
Đào tạo TMĐT tại Hàn Quốc
Hàn Quốc là quốc gia có tốc độ 
tăng trưởng TMĐT nhanh và ổn 
định. Trong giai đoạn 2000-2005, 
TMĐT Hàn Quốc tăng trung bình 
35-45% năm. Doanh số TMĐT 
của Hàn Quốc năm 2004 đạt 314 
tỷ USD chiếm 20% tổng giao dịch 
thương mại. TMĐT phát triển khá 
đồng đều trên các loại hình B2B, 
B2C, B2G.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 9 (19) - Tháng 03-04/2013
Nghiên Cứu & Trao Đổi
60
Để hỗ trợ phát triển nguồn nhân 
lực TMĐT , năm 2000 Chính phủ 
Hàn Quốc đề ra “Kế hoạch phát 
triển nhân lực nguồn cho TMĐT 
”, và kế tiếp là một chuỗi chương 
trình hỗ trợ các trường đại học xây 
dựng giáo trình, đào tạo nhân lực 
TMĐT cho địa phương, hỗ trợ cho 
sinh viên theo học thạc sĩ TMĐT 
tại các trường đại học Hoa Kỳ. Các 
chương trình nầy có thể chia thành 
hai dạng: Nâng cao hệ thống và 
mở rộng cơ sở hạ tầng, phát triển 
nguồn nhân lực TMĐT , và hỗ trợ 
môn học TMĐT .
Khảo sát 50 trường đại học 
lớn của Hàn Quốc cho thấy 100% 
trường kinh tế và quản trị kinh 
doanh thành lập khoa MIS đào 
tạo trình độ đại học và sau đại 
học. Khoa MIS chịu trách nhiệm 
giảng dạy một số môn học chuyên 
ngành TMĐT có liên quan đến các 
chuyên ngành khác như : Du lịch và 
CNTT, Khoa quản trị kinh doanh 
với môn học Internet cho quản lý, 
E-marketing, Khoa kinh tế quốc tế 
với môn TMĐT quốc tế.
Ngoài khoa MIS, một số trường 
còn thành lập khoa Kinh doanh trên 
Internet hoặc đào tạo riêng ngành 
TMĐT .
Tình hình đào tạo TMĐT tại 
Singapore
Hiện nay, trên 4 triệu người, 
chiếm 75 phần trăm dân số của 
Singapore sử dụng Internet. Các 
hoạt động thanh toán điện tứ rất 
phát triển và tăng trưởng nhanh. 
Hầu hết các dịch vụ chính phủ đã 
triển khai trực tuyến. Tất cả các 
vấn đề liên quan đến dịch vụ hành 
chính công mà người dân yêu cầu 
đều có thể thực hiện qua mạng. 
Chính phủ Singapore cũng đang 
tích cực tiến hành nhiều chương 
trình nhằm thúc đẩy phát triển 
TMĐT.
Khảo sát 7 trường đại học lớn tại 
Singapore cho thấy 100% trường 
kinh tế và quản trị kinh doanh có 
đào tạo ngành TMĐT trình độ đại 
học và sau đại học. Ngành đào tạo 
chính là ngành “Công nghệ TMĐT 
“ (e-business technology). Ngoài 
ra một số trường còn xây dựng các 
môn học, chuyên đề dành riêng 
cho TMĐT như “Thiết kế website 
TMĐT”, hướng dẫn sinh viên nhận 
biết một website TMĐT hiệu quả, 
những mong đợi của người tiêu 
dùng ở một website bán hàng
Môn học nầy hoàn toàn khác 
với môn “Thiết kế web” của một 
trường CNTT.
Tình hình đào tạo TMĐT tại 
Thái Lan
Chính phủ Thái Lan đã nhận 
thức được xu hướng phát triển 
của TMĐT từ rất sớm. Tháng 12 
năm 1988, Chính phủ Thái Lan 
phê chuẩn việc thành lập Trung 
tâm nguồn  ... ác trường đại học lớn tại 
Thái Lan cho thấy có 75% trường 
đã đào tạo ngành TMĐT . Tuy 
nhiên, giống như Hàn Quốc, đa số 
các trường đại học đào tạo trình độ 
cử nhân hoặc thạc sĩ ngành MIS, 
các chuyên ngành khác cũng giảng 
dạy một số môn học liên quan đến 
TMĐT như: Internet và TMĐT , 
Truyền thông trong Kinh doanh, 
Phát triển TMĐT  Ngành MIS 
được đào tạo tại các trường đại học 
thuộc khối kinh tế và quản trị kinh 
doanh. Tuy nhiên trong chương 
trình đào tạo vẫn còn một khối 
lượng kiến thức đáng kể dành cho 
các môn học chuyên sâu về CNTT 
như lập trình, cấu trúc dữ liệu, giải 
thuật
Qua khảo sát tình hình đào tạo 
TMĐT của các nước trên, chúng 
ta có thể học hỏi được một số các 
kinh nghiệm sau: 
Số lượng các đại học, cao đẳng 
đào tạo TMĐT cùng số sinh viên 
theo học ngành nầy có xu hướng 
tăng khá nhanh.
Các trường đại học trên thế giới 
rất chú trọng việc gắn giảng dạy 
lý thuyết với thực tiễn, tạo điều 
kiện cơ sở vật chất tốt nhất cho 
sinh viên thực hành và tổ chức các 
buổi thuyết trình của doanh nghiệp 
chuyên kinh doanh TMĐT .
Chính phủ đóng vai trò quan 
trọng trong việc hỗ trợ phát triển 
TMĐT nói chung và đào tạo TMĐT 
nói riêng. Tại Singapore, các dịch 
vụ của chính phủ điện tử đang 
được triển khai trực tuyến (nên nhớ 
rằng Chính phủ điện tử cũng là một 
trong những hoạt động thương mại 
điện tử). Chính phủ Thái Lan thành 
lập Trung tâm nguồn lực TMĐT 
thuộc Trung tâm công nghệ máy 
tính và điện tử quốc gia. Chính phủ 
Hàn Quốc đề ra “Kế hoạch phát 
triển nhân lực nguồn TMĐT “ và 
các chương trình hỗ trợ.
Các hội thảo chuyên đề TMĐT 
cũng được các trường tích cực tổ 
chức, đây là hoạt động cần thiết 
và phù hợp giúp các cơ sở đào tạo 
định hướng chuyên môn và bắt kịp 
nhịp độ phát triển của công nghệ.
Về chương trình đào tạo TMĐT 
Số 9 (19) - Tháng 03-04/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
61
nên đi theo hai hướng tiếp cận 
chính là tiếp cận theo hướng CNTT 
và kinh tế-quản trị kinh doanh. 
Nội dung đào tạo của mỗi chuyên 
ngành tập trung sâu vào hướng tiếp 
cận của chuyên ngành đó. Hướng 
liên ngành rất tốt, nhưng còn quá 
mới
Đầu tư cho việc đào tạo chuyên 
ngành TMĐT cần chi phí khá lớn, 
do mức học phí của ngành học 
nầy cao hơn so với các ngành học 
khác.
Các quốc gia đi sau về đào tạo 
TMĐT cần tích cực đào tạo liên 
kết với các quốc gia đi đầu trong 
lĩnh vực đào tạo nầy như Canada, 
Hoa Kỳ, đồng thời cử sinh viên du 
học trình độ thạc sĩ, tiến sĩ tại nước 
ngoài nhằm tạo lực lượng giảng 
viên TMĐT .
3.Tình hình đào tạo TMĐT tại 
VN đến năm 2012 (7)
Theo số liệu của Cục TMĐT 
và Công nghệ thông tin, Bộ Công 
thương, điều tra tình hình đào tạo 
TMĐT tại 250 trường đại học và 
cao đẳng trên phạm vi toàn quốc 
vào tháng 7 năm 2010 và nhận 
được trả lời của 125 trường, chủ 
yếu tập trung vào các trường đào 
tạo các ngành thuộc lĩnh vực kinh 
tế và CNTT, có 77 trường đã triển 
khai hoạt động đào tạo TMĐT , 
trong đó có 49 trường đại học và 
28 trường cao đẳng.
3.1. Về tổ chức giảng dạy
Trong số 49 trường đại học đã 
giảng dạy TMĐT , có 01 trường 
thành lập khoa TMĐT , 10 trường 
thành lập bộ môn TMĐT còn lại 
phần lớn giảng viên giảng dạy 
TMĐT được bố trí vào những bộ 
môn khác, hoặc là giảng viên thỉnh 
giảng được mời. Như vậy, so với 
năm 2008, số trường đại học thành 
lập khoa TMĐT không đổi, số 
trường thành lập bộ môn TMĐT 
tăng thêm 02 trường.
Trong số 28 trường cao đẳng, có 
01 trường thành lập khoa TMĐT 
, 04 trường thành lập bộ môn 
TMĐT dưới sự phụ trách của các 
khoa thuộc lĩnh vực kinh tế hoặc 
CNTT, so với năm 2008, số trường 
cao đẳng thành lập khoa TMĐT 
là không đổi và thành lập bộ môn 
TMĐT tăng lên 01 trường.
3.2. Trình độ đào tạo
Kết quả điều tra năm 2012 của 
Cục TMĐT và CNTT Bộ Công 
thương cho thấy trong số các trường 
đã đào tạo TMĐT có 03 trường ( 
chiếm 4%) đào tạo TMĐT cho bậc 
cao đẳng nghề, 52 trường đào tạo 
TMĐT cho bậc cao đẳng (chiếm 
68%), 47 trường đào tạo TMĐT 
cho bậc đại học (chiếm 61%) và 08 
trường đào tạo TMĐT cho bậc sau 
đại học (chiếm 10%).
3.3. Phương thức đào tạo
Phương thức đào tạo TMĐT 
chủ yếu hiện nay vẫn là phương 
thức giảng dạy và học tập tập 
trung trên lớp. Tuy nhiên, có một 
số trường bắt đầu áp dụng phương 
thức đào tạo trực tuyến vào công 
tác giảng dạy và học tập TMĐT . 
Cũng theo kết quả khảo sát, đã có 
09 trường (chiếm 12%) đã áp dụng 
phương thức tập trung kết hợp với 
trực tuyến để đào tạo một số môn 
học về TMĐT . Thông qua phương 
thức này, ngoài việc giảng dạy và 
học tập trên lớp, giảng viên có thể 
đưa giáo trình, bài giảng, nội dung 
kiểm tra lên mạng để sinh viên tự 
nghiên cứu và tham khảo trước 
hoặc ôn tập lại bất kỳ lúc nào.
3.4. Giảng viên
Vấn đề xây dựng đội ngũ giảng 
viên TMĐT giỏi chuyên môn, nắm 
vững quy trình triển khai thực tiễn 
và tâm huyết với nghề nghiệp được 
xem là khâu quyết định chất lượng 
đào tạo TMĐT . Sau khoảng thời 
gian 4 - 5 năm kể từ khi TMĐT 
được bắt đầu giảng dạy thí điểm tại 
một số cơ sở đào tạo tại VN, đến 
nay đã hình thành đội ngũ giảng 
viên giảng dạy TMĐT khá đông 
đảo. 
Theo kết quả của cuộc khảo 
sát, trong các trường đã giảng dạy 
thương mại điện tử, có tổng cộng 
553 giảng viên tham gia giảng dạy 
các môn học liên quan đến lĩnh vực 
này. So với năm 2008, số lượng 
giảng viên tăng từ 368 lên 553 
người. Phần lớn giảng viên giảng 
dạy các môn liên quan đến TMĐT 
đều là các giảng viên chuyên ngành 
khác như công nghệ thông tin hay 
quản trị kinh doanh được bồi dưỡng 
thêm về TMĐT hoặc tự nghiên cứu 
để giảng dạy TMĐT . 
Về trình độ giảng viên thương 
mại điện tử, trong số 553 giảng 
viên giảng viên tham gia giảng dạy 
TMĐT , tỷ lệ giảng viên có trình 
độ tiến sĩ là 12%, trình độ thạc sĩ là 
51%, trình độ cử nhân là 37%.
Do TMĐT là lĩnh vực liên ngành 
kinh tế-thương mại và CNTT nên 
đòi hỏi giảng viên cần có kiến thức 
tổng hợp cả hai ngành trên. Trong 
thực tiễn, ứng dụng CNTT phát 
triển mạnh mẽ kéo theo sự phát 
triển của TMĐT nên đòi hỏi giảng 
viên phải liên tục cập nhật kiến 
thức cũng như nghiên cứu phương 
pháp giảng dạy phù hợp. 
3.5. Chương trình đào tạo
Hiện nay Bộ Giáo dục và Đào 
tạo chưa công bố chương trình 
khung cho ngành Thương mại điện 
tử, thậm chí mã ngành đào tạo cho 
TMĐT cũng chưa có, (thời điểm 
tháng 11 năm 2012).
Tuy nhiên căn cứ vào hai cách 
tiếp cận cơ bản trong đào tạo 
TMĐT của các nước, chúng ta tạm 
chia các môn học về TMĐT thành 
hai nhóm môn học chính là nhóm 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 9 (19) - Tháng 03-04/2013
Nghiên Cứu & Trao Đổi
62
kinh tế và nhóm công nghệ, trong 
đó nhóm kinh tế gồm các môn học 
cung cấp kiến thức về quản trị, kinh 
doanh, vận hành, hành vi của người 
tiêu dùng, tác nghiệp các gíao dịch 
thương mại trong môi trường trực 
tuyến; nhóm công nghệ tập trung 
vào nội dung tạo lập cơ sở hạ tầng 
công nghệ, quản trị cơ sở dữ liệu, 
hay môi trường trực tuyến để vận 
hành các giao dịch thương mại. 
Đây cũng được xem là hai nội 
dung cơ bản tạo nên hai xu hướng 
đào tạo TMĐT tại các trường, và 
mỗi trường đại học, cao đẳng của 
VN tự đưa ra chương trình đào tạo 
phù hợp với lực lượng giảng dạy 
cũng như phương tiện giảng dạy.
Tham khảo chương trình đào 
tạo của một số nước như Hoa 
Kỳ, Canada, Australia (đã nêu tại 
phần 2 – Báo cáo tình hình đào 
tạo TMĐT tại các trường đại học 
và cao đẳng năm 2008) và so sánh 
với danh mục một số môn học về 
TMĐT tại VN , có thể tạm thời rút 
ra số liệu tổng hợp như ở Bảng 1
Trên bảng nầy ta có nhận xét 
rằng ở hai nước rất mạnh về TMĐT 
là Canada và Australia tỉ trọng các 
môn học kinh tế bằng hoặc cao hơn 
các môn học về công nghệ.
3.6. Giáo trình
Sau giảng viên, giáo trình có 
ảnh hưởng lớn đến chất lượng 
đào tạo. Hiện nay giáo trình 
TMĐT do các cơ sở đào tạo tự 
quyết định, các giảng viên dạy 
môn học TMĐT tự biên soạn, 
thường sử dụng giáo trình có sẵn 
của nước ngoài hoặc sử dụng lại 
giáo trình của các đại học khác 
biên soạn. Trong đó sách, tài liệu 
TMĐT của nước ngoài về VN 
từ nhiều nguồn khác nhau như: 
Giảng viên học nước ngoài cầm 
tay về, mua qua mạng, các đại học 
nước ngoài tặngChương trình 
đào tạo môn học thường được 
lấy từ trang web của các trường 
đại học nước ngoài, sửa đổi đôi 
chút cho phù hợp với VN.
Theo điều tra của Bộ Công 
thương, hiện có 83% trường đại 
học tham khảo nguồn tài liệu 
nước ngoài, và có 36% trường 
tham khảo nguồn tài liệu trong 
nước. 
4. Các đề xuất
4.1. Về tổ chức giảng dạy
Việc thành lập bộ môn chuyên 
về TMĐT cũng là một hướng đi 
mới cần được nghiên cứu, xem 
xét. Bởi vì việc thành lập riêng 
bộ môn TMĐT trước hết sẽ giúp 
hình thành đội ngũ giảng viên 
chuyên trách giảng dạy. Thứ hai 
là thuận tiện cho việc xây dựng 
nội dung chương trình đào tạo, 
trong đó có sự phối hợp giữa 
những nội dung quản trị, kinh tế 
và công nghệ theo định hướng 
của từng trường. Ngoài ra các 
đại học phải chú ý đến sự phân 
khúc đào tạo giữa các trường dạy 
nghề, cao đẳng và đại học.
4.2. Trình độ đào tạo và vai trò 
của các trường đại học
Như đã nói, ngành TMĐT cần 
có kiến thức rất rộng trong nhiều 
lĩnh vực như kinh tế, cntt, quản 
trị và ngoại ngữ, nên đòi hỏi thời 
gian đào tạo dài, các lớp ngắn 
hạn và dạy nghề chỉ giải quyết 
tạm thời trong thời gian còn thiếu 
nhân lực, không thể đem lại cho 
người học những kiến thức và 
kỹ năng đầy đủ để tổ chức hoạt 
động TMĐT hiệu quả tại doanh 
nghiệp, vì vậy đào tạo chính quy 
dài hạn tại các trường đại học 
mới là cứu cánh cho nhân lực của 
thương mại điện tử.
4.3. Thực hành trong giảng dạy 
TMĐT 
Cơ sở vật chất cho đào tạo 
TMĐT và cho nghiên cứu về 
TMĐT của giảng viên còn rất 
thiếu, chủ yếu cần xây dựng thêm 
các phòng thực hành chuyên cho 
thương mại điện tử, và phát triển 
các phần mềm sàn giao dịch ảo 
để tránh dạy chay. 
Giảng viên
Đội ngũ giảng viên TMĐT 
còn đang rất thiếu ngay cả ở các 
trường lớn như Đại học Quốc 
gia, nguyên nhân: 
- Do đặc điểm của ngành học 
đòi hỏi kiến thức quản trị kinh 
doanh- kinh tế, vừa đòi hỏi kiến 
thức về công nghệ thông tin. 
- Nhận thức về sự cần thiết 
đào tạo TMĐT tại các trường 
chưa cao nên đầu tư chuẩn bị đội 
ngũ triển khai chậm, các trường 
cần phải đẩy nhanh tiến độ đào 
tạo giảng viên TMĐT hơn bằng 
các hình thức cử giảng viên ra 
nước ngoài học thật nhanh các 
Bảng 1: Số lượng các môn học TMĐT chia theo nhóm 
Quốc gia Số lượng môn học về kinh tế
Số lượng môn học 
về công nghệ
VN 6/14 8/14
Hoa Kỳ 4/11 7/11
Canada 5/10 5/10
Australia 5/9 4/9
Nguồn : Báo cáo tình hình đào tạo TMĐT tại các trường đại học và cao đẳng tại VN năm 
2010 Cục TMĐT và CNTT- Bộ Công thương
Số 9 (19) - Tháng 03-04/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
63
môn sẽ dạy, hoặc mời thầy của 
các trường đại học nước ngoài 
sang đào tạo giảng viên
Nhận thức về sự đòi hỏi cao 
của kiến thức ngành TMĐT ở đội 
ngũ giảng viên, vì vậy hội đồng 
khoa học của các trường cần phải 
định hướng cho giảng viên, đây 
là vấn đề rất quan trọng.
Giáo trình
Hiện nay giáo trình TMĐT 
được giảng dạy tại các trường 
thường được soạn từ hai ngành 
là CNTT và Quản trị kinh doanh 
nên giáo trình chủ yếu phục vụ 
cho riêng từng ngành, thiếu sự 
phối hợp để cho ra bộ giáo trình 
hoàn chỉnh cho thương mại điện 
tử. Vấn đề nầy cần được các 
trường chú trọng nhiều hơn thông 
qua các hội thảo chuyên môn, và 
tham khảo giáo trình của các đại 
học ở các nước tiên tiến. 
5. Kết luận
Bài tham luận đã phản ánh 
phần lớn tình hình đào tạo TMĐT 
tại các trường đại học và cao đẳng 
trên phạm vi cả nước, trên cơ sở 
tổng hợp các điều tra và thống 
kê xuất phát từ Cục TMĐT và 
CNTT của Bộ Công thương, Bộ 
Thông tin và Truyền thông chúng 
ta có thể thấy được một số vấn đề 
nổi bật trong đào tạo TMĐT thời 
gian qua như sau:
- Vấn đề nổi bật đầu tiên là 
vấn đề giảng viên: Đội ngũ giảng 
viên vừa thiếu về số lượng, vừa 
chưa đáp ứng được yêu cầu về 
chuyên môn. Tình hình nầy còn 
có thể kéo dài nhiều năm nửa nếu 
các cơ quan quản lý nhà nước 
không có giải pháp tích cực tháo 
gỡ.
- Hai vấn đề nổi bật tiếp theo 
là chương trình khung và giáo 
trình. Hai vấn đề nầy liên hệ 
chặt chẽ với nhau. Do Bộ Giáo 
dục chưa ban hành chương trình 
khung nên hiện nay các trường 
chủ động xây dựng chương trình 
và giáo trình. Vì vậy có sự khác 
biệt đáng kể về nội dung, chất 
lượng giáo trình giảng dạy giữa 
các trường.
Bộ Giáo dục cần phải nắm vai 
trò tiên phong trong việc phân 
khúc giữa các cấp độ để bảo đảm 
tính thống nhất và không chồng 
chéo trong đào tạo.
Vấn đề thứ tư là nhận thức 
về tỉ lệ kiến thức CNTT và kiến 
thức kinh tế, thương mại giữa 
hai trường phái là lấy CNTT 
làm nền, và lấy quản trị, thương 
mại làm nền. Cần có sự nghiên 
cứu, bàn bạc, trao đổi rộng rãi, 
đánh giá chất lượng sinh viên tốt 
nghiệp và thu thập ý kiến phản 
hồi từ doanh nghiệp sử dụng.
Vấn đề thứ năm là phải có sự 
liên kết chặt chẽ giữa việc học lý 
thuyết tại trường với các doanh 
nghiệp cung cấp công nghệ, giải 
pháp cho TMĐT , để tránh tình 
trạng học một đàng, ra làm việc 
một nẻo. Sinh viên cần được 
thực hành trên các sàn giao dịch 
TMĐT ảo có đầy đủ các chức 
năng giao dịch mua bán, quản lý 
chuỗi cung ứng, thanh toán điện 
tử. Chưa có trường đại học hay 
cao đẳng nào của VN được trang 
bị một phần mềm như thế. Cần 
khắc phục tình trạng dạy “chay”.
Để có thể ứng dụng thành 
công, tận dụng các cơ hội mà 
TMĐT mang lại cần tiến hành 
song song việc đầu tư kịp thời về 
công nghệ và đào tạo nhân lực 
TMĐT đủ số lượng và đạt yêu 
cầu về chất lượng để đáp ứng việc 
nghiên cứu, triển khai các ứng 
dụng TMĐT . Trong đó đào tạo 
chính quy dài hạn từ các trường 
đại học và cao đẳng cần được 
đầu tư nhiều hơn để có được vai 
trò dẫn đạo trong việc phát triển 
nguồn nhân lực TMĐT .
Nhu cầu về nguồn nhân lực 
TMĐT có trình độ chuyên môn 
sâu được đào tạo ở cấp đại học 
và sau đại học đang lớn dần theo 
từng bước phát triển, hội nhập 
với thế giới của nền kinh tế VN. 
Nhu cầu nầy không chỉ xuất phát 
từ các doanh nghiệp, tổ chức 
đang cần cán bộ quản lý TMĐT 
mà còn xuất từ bản thân các cơ 
sở đào tạo.
Thực hiện tốt việc đào tạo 
nhân lực TMĐT có chất lượng sẽ 
hỗ trợ tốt cho các doanh nghiệp, 
tổ chức, tạo lợi thế. cạnh tranh 
mới khi tham gia vào thương mại 
nội địa và cả trong hội nhập kinh 
tế quốc tếl 
CHÚ THÍCH 
&TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tham khảo Báo cáo TMĐT của Bộ 
Thương mại, Bộ Công Thương từ năm 
2003-2011
[2] Tham khảo chi tiết chương trình Ý tưởng 
Số tại website www.ytuongso.vn
[3] Bài viết : “Vai trò của đào tạo nguồn nhân 
lực TMĐT tại các trường đại học và cao 
đẳng” của Dương Hoàng Minh – Phó 
Cục trưởng Cục TMĐT và CNTT - Bộ 
Công thương, tháng 2 năm 2008. Kỷ yếu 
chuyên đề “Phát triển nguồn nhân lực 
TMĐT –VN” .
[4], [5] Chương trình đào tạo Thạc sĩ CNTT 
chuyên ngành TMĐT (Online) tại Đại 
học Fullerton.
[6] Tổng hợp theo Số liệu của Trung tâm 
thống kê giáo dục quốc gia – Viện Khoa 
học Giáo dục – Bộ Giáo dục Hoa Kỳ
[7] Báo cáo Tình hình đào tạo TMĐT tại các 
trường đại học và cao đẳng năm 2010 
của Cục TMĐT và Công nghệ thông tin, 
Bộ Công thương .

File đính kèm:

  • pdfdao_tao_nguon_nhan_luc_thuong_mai_dien_tu_viet_nam.pdf